1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tín ngưỡng hồn lúa của nhóm tộc người thuộc ngữ hệ môn khmer ở đông nam á

150 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 150
Dung lượng 2,06 MB

Cấu trúc

  • 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI (5)
  • 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ (7)
  • 3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN (9)
  • 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU (10)
  • 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU (10)
  • 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN (12)
  • 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN (12)
  • CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ CÁC TỘC NGƯỜI Ở ĐÔNG NAM Á (14)
    • 1.1 CƠ SỞ RA ĐỜI CỦA TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA (14)
      • 1.1.1 Tín ngưỡng (14)
      • 1.1.2 Tín ngưỡng hồn lúa (18)
    • 1.2 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC TỘC NGƯỜI Ở ĐÔNG NAM Á (22)
      • 1.2.1 Điều kiện tự nhiên (22)
      • 1.2.2 Lịch sử hình thành và phát triển (26)
      • 1.2.3 Tộc người và các nhóm ngôn ngữ (32)
  • CHƯƠNG 2: CÁC DẠNG THỨC TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA CỦA TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER Ở ĐÔNG NAM Á (40)
    • 2.1 CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER Ở ĐÔNG (40)
      • 2.1.1 Sự phân bố cư trú (40)
      • 2.1.2 Hoạt động kinh tế (46)
      • 2.2.1 Lễ nghi nông nghiệp (55)
      • 2.2.2 Các dạng thức tín ngưỡng hồn lúa (58)
    • 2.3 TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN HỒN LÚA CỦA MỘT SỐ TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER Ở ĐÔNG NAM Á (63)
  • CHƯƠNG 3: SO SÁNH TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA. TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA, CƠ TẦNG VĂN HÓA CỦA TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- (72)
    • 3.1 TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA TRONG ĐỜI SỐNG CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER (72)
    • 3.2 SO SÁNH TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA CỦA TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER VỚI TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MALAYO- POLINESIAN (80)
    • 3.3 TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA, MỘT CƠ TẦNG VĂN HÓA CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER (87)
  • KẾT LUẬN (93)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (11)

Nội dung

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Khu vực Đông Nam Á, với vị trí địa lý chiến lược và tầm quan trọng toàn cầu, đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài khu vực Những khám phá mới về loài người và tiến trình lịch sử đã khẳng định Đông Nam Á là một trong những khu vực có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử thế giới.

Trong tác phẩm "Dân tộc học" xuất bản năm 2001, Nguyễn Quốc Lộc nhấn mạnh rằng Đông Nam Á sở hữu một nền văn minh trồng lúa lâu đời Ông cũng chỉ ra rằng các tín ngưỡng dân gian liên quan đến cây lúa rất phổ biến trong khu vực này.

Theo Họ Sauer trong bài viết “Văn minh lúa nước”, Đông Nam Á được coi là cái nôi của nền nông nghiệp đầu tiên nhờ vào những điều kiện tự nhiên lý tưởng như khí hậu ôn hòa, chu kỳ mùa mưa và mùa khô, cùng với hệ thống sông ngòi thuận lợi cho việc đánh cá Khu vực này không chỉ là trung tâm giao thương của Cựu thế giới mà còn có những nghi thức tín ngưỡng sâu sắc liên quan đến cây lúa và hoạt động trồng trọt, phản ánh sự phát triển của nền văn minh lúa nước.

Trong bài viết "Nghệ Thuật Của Gạo," tác giả Cynthia Barnes khám phá giá trị thực tiễn của lúa gạo trong đời sống của người dân Đông Nam Á, đồng thời nhấn mạnh vai trò của lúa gạo như một biểu tượng tâm linh trong văn hóa khu vực này.

Tín ngưỡng dân gian liên quan đến cây lúa và nghề trồng lúa của các nước Đông Nam Á đã được nghiên cứu sâu rộng, tạo nền tảng cho đề tài nghiên cứu của tác giả Trong quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề, tôi sẽ điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu.

Tín ngưỡng hồn lúa ở Đông Nam Á, theo Đinh Gia Khánh trong “Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á” (1993) và Mai Ngọc Chừ trong “Văn hóa Đông Nam Á” (1999), cho thấy thần lúa là vị thần thiêng liêng nhất, phản ánh niềm tin mãnh liệt của người dân vào hồn lúa Đinh Gia Khánh đã phân tích sự tương đồng văn hóa giữa văn hóa dân gian Việt Nam và các nước Đông Nam Á, với cây lúa đóng vai trò chủ yếu, được thể hiện qua các câu chuyện thần thoại và truyền thuyết của các quốc gia trong khu vực.

Trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á” (2000), tác giả Phạm Đức Dương phân tích sự nhận thức và trí tuệ tâm linh của người dân Đông Nam Á, đặc biệt là mối liên hệ với triết lý và lịch pháp nông nghiệp Ông nhấn mạnh rằng cây lúa đóng vai trò trung tâm trong đời sống của cư dân vùng này, với lịch trồng lúa và các lễ hội thần lúa giữ vị trí chủ đạo Ngoài ra, thế giới thần linh của họ tôn thờ nhiều vị thần tự nhiên như thần Mặt Trời, thần Lửa, thần Núi, thần Đá, thần Nước, thần Lúa, thần Linga và thần Yoni, tất cả đều gắn liền với hoạt động nông nghiệp trồng lúa.

Tác giả Lê Như Hoa trong “Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” (năm

Bài viết năm 2001 phân tích sâu sắc tín ngưỡng hồn lúa ở Việt Nam, nhấn mạnh rằng "mọi vật đều có linh hồn" và người Việt tin rằng mỗi cây lúa đều mang một linh hồn riêng Tác phẩm dài 430 trang trình bày các khái niệm tín ngưỡng dân gian bản địa, đặc biệt là tín ngưỡng hồn lúa, đồng thời thể hiện các hình thái tín ngưỡng dân gian của một số tộc người ở Việt Nam, trong đó có người Khmú ở Yên Bái, thuộc ngữ hệ Môn-Khmer.

Tác giả Thu Loan trong “Lễ hội nông nghiệp của người Bana” (năm

Năm 2006, nghiên cứu về lễ hội nông nghiệp của người Bana ở Gia Lai, một tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer, đã được thực hiện Tác giả phân tích sâu sắc các giá trị, sự tương đồng và khác biệt, cùng những hạn chế của lễ hội nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập hiện nay Bên cạnh đó, tác phẩm cũng giới thiệu những bài cúng tiêu biểu, thể hiện sự đa dạng trong lễ hội nông nghiệp này.

Luận văn này sẽ kế thừa các thành tựu nghiên cứu trước đây về tín ngưỡng hồn lúa và lễ nghi nông nghiệp của các tác giả khoa học Mặc dù đã có khái niệm về tín ngưỡng hồn lúa, nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào giá trị của tín ngưỡng này trong cộng đồng tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer Do đó, mục tiêu của nghiên cứu là tìm hiểu sâu hơn về tín ngưỡng hồn lúa của tộc người Môn-Khmer, một nhóm dân tộc có tỷ lệ khá đông tại Đông Nam Á.

Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN

Nghiên cứu này sẽ làm rõ tín ngưỡng hồn lúa của các tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer ở Đông Nam Á, từ đó nâng cao nhận thức về nền văn hóa trồng lúa trong khu vực.

Luận văn sẽ làm rõ tín ngưỡng và lễ hội liên quan đến hồn lúa, cùng với việc canh tác cây lúa và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của các tộc người Môn-Khmer Nghiên cứu này không chỉ góp phần thúc đẩy mối quan hệ và sự gắn kết giữa các tộc người mà còn xây dựng một ASEAN phát triển bền vững, trong đó Việt Nam đóng vai trò quan trọng với nghề trồng lúa là hoạt động kinh tế chủ chốt.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU

Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng những phương pháp sau đây:

- Phương pháp lịch sử và logic:

Bài viết này nhằm tổng hợp các nghiên cứu về tín ngưỡng hồn lúa qua các thời kỳ, từ đó tìm ra sự thống nhất và những đặc điểm riêng biệt của tín ngưỡng hồn lúa trong cộng đồng các tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer ở Đông Nam Á.

- Phương pháp tổng hợp và phân tích:

Bài viết này tổng hợp và phân tích những ảnh hưởng cũng như giá trị truyền thống và hiện đại của tín ngưỡng hồn lúa trong cộng đồng các tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer ở Đông Nam Á.

- Phương pháp hệ thống cấu trúc:

Phương pháp này được áp dụng liên tục trong nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng hồn lúa, nhằm khẳng định tính ổn định và bền vững của nó, đồng thời bảo tồn các giá trị văn hóa liên quan đến tín ngưỡng này.

- Phương pháp so sánh đối chiếu:

Phương pháp so sánh được áp dụng để làm nổi bật nét đặc trưng và bản sắc riêng của tín ngưỡng hồn lúa trong cộng đồng tộc người Môn-Khmer và Malayo-Polinesian Qua đó, chúng ta có thể nhận diện sự khác biệt và tương đồng trong các yếu tố văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tập quán của hai nhóm tộc người này Tín ngưỡng hồn lúa không chỉ phản ánh niềm tin sâu sắc vào sự sống mà còn thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên trong đời sống của họ.

Nguồn tài liệu chủ yếu:

Tài liệu tham khảo chủ yếu tập trung vào các tác phẩm và nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian, đặc biệt là tín ngưỡng hồn lúa trong khu vực Đông Nam Á, với sự chú ý đặc biệt đến ngữ hệ Môn-Khmer.

Tài liệu tham khảo mở rộng bao gồm các tác phẩm liên quan đến văn hóa Đông Nam Á, cùng với những nghiên cứu về địa lý tự nhiên, lịch sử, dân tộc học, tôn giáo tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật và văn hóa dân gian.

Những tài liệu tham khảo nêu trên được tập hợp từ các thư viện, các cá nhân và qua phương tiện thông tin đại chúng.

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Góp phần nghiên cứu tín ngưỡng dân gian bản địa, đặc biệt là tín ngưỡng hồn lúa của tộc người thuộc ngữ hệ Môn- Khmer

Tín ngưỡng hồn lúa của tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer ở Đông Nam Á là một phần quan trọng trong việc khẳng định các giá trị bản sắc văn hóa của họ Nghiên cứu về tín ngưỡng này giúp làm nổi bật sự kết nối giữa con người và thiên nhiên, đồng thời bảo tồn những truyền thống văn hóa độc đáo của cộng đồng.

Nghiên cứu về thế giới tâm linh trong con người thông qua việc tôn thờ hồn lúa phản ánh sự phong phú của đời sống tâm linh từ xưa đến nay.

Bài viết khắc họa rõ nét những lễ hội và nghi thức nông nghiệp, tạo nên một điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn khám phá nguồn cội văn minh nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, cùng với những giá trị văn hóa đặc trưng của các tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer.

Tác giả hy vọng luận văn này sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên các trường Đại học, đặc biệt là sinh viên khoa Đông Phương và khoa Châu Á, cũng như những ai đang quan tâm đến lĩnh vực này.

KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm

Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết và các tộc người ở Đông Nam Á

Chương 2: Các dạng thức tín ngưỡng hồn lúa của tộc người thuộc ngữ hệ Môn- Khmer ở Đông Nam Á

Chương 3: So sánh tín ngưỡng hồn lúa Tín ngưỡng hồn lúa, cơ tầng văn hóa của tộc người thuộc ngữ hệ Môn- Khmer ở Đông Nam Á

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ CÁC TỘC NGƯỜI Ở ĐÔNG NAM Á

CƠ SỞ RA ĐỜI CỦA TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA

Khái niệm tín ngưỡng hiện nay đang gây tranh cãi trong giới khoa học, với nhiều ý kiến khác nhau từ các nhà nghiên cứu Họ đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về lĩnh vực này, cho thấy sự đa dạng trong cách hiểu và phân tích tín ngưỡng từ nhiều góc độ khác nhau.

Theo từ điển Bách khoa, tín ngưỡng được định nghĩa là hệ thống niềm tin mà con người dựa vào để hiểu biết về thế giới, đồng thời mang lại sự bình an cho cả cá nhân lẫn cộng đồng.

Tín ngưỡng thường bị hiểu nhầm là tôn giáo, nhưng thực tế, tín ngưỡng là hiện tượng có trước, tạo nền tảng cho sự hình thành tôn giáo Tín ngưỡng bao gồm các lễ nghi thờ cúng thần linh, không chú trọng vào lý giải hay luận giải, và thường gắn liền với tục lệ thờ cúng tổ tiên Điểm khác biệt chính giữa tín ngưỡng và tôn giáo là tín ngưỡng mang tính dân tộc cao hơn, với tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo Khi nhắc đến tín ngưỡng, người ta thường liên tưởng đến tín ngưỡng của một dân tộc hoặc nhóm dân tộc có đặc điểm chung, trong khi tôn giáo không nhất thiết phải mang tính dân tộc Tín ngưỡng không có hệ thống điều hành và tổ chức rõ ràng như tôn giáo; nếu có, thì cũng chỉ là những phần rời rạc Tuy nhiên, nếu tín ngưỡng phát triển đến một mức độ nhất định, nó có thể trở thành tôn giáo.

Theo tác giả Lê Ngọc Canh trong “Văn hóa dân gian Việt Nam - những thành tố” (1999), tín ngưỡng được xem là một biểu hiện và khía cạnh quan trọng của văn hóa, phát sinh trong môi trường văn hóa với nhiều loại hình và thành tố nhánh Nó không chỉ thể hiện nỗi niềm tâm linh và tình cảm của con người qua lời văn, lời thơ mà còn bao gồm các điệu nhạc, điệu hát và điệu múa phục vụ cho nhu cầu và mục đích tín ngưỡng.

Theo tác giả Ngô Văn Lệ trong "Đông Nam Á những vấn đề văn hóa-xã hội" (2000), tín ngưỡng được định nghĩa là niềm tin vào thiên nhiên và các vị thần vô danh Tín ngưỡng không chỉ là niềm tin mà còn là hành động của con người, phản ánh phong tục tập quán của các dân tộc Nó đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, với những hiện vật khảo cổ học từ thời kỳ đá cũ đến đá giữa là minh chứng cho sự phát triển này.

Một số tín ngưỡng ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo cổ truyền như Phật giáo, Công giáo và Hồi giáo Trong đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các thần linh đóng vai trò quan trọng, bên cạnh đó, cư dân nơi đây còn có tín ngưỡng thờ Mẫu, thể hiện sự tôn kính đối với Mẹ.

Trong “đạo Mẫu” ở Việt Nam, hệ thống thần thánh được tổ chức thành các hàng, với “hàng Mẫu” đứng đầu, bao gồm các vị như Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Liễu Hạnh, trong đó Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải là các nữ thần núi rừng và sông nước, còn Mẫu Liễu Hạnh là con gái của Ngọc Hoàng với nhiều phép thuật kỳ diệu Dưới hàng Mẫu, có các hàng Quan, Chầu, Cô, Cậu và Ngũ Hổ, Rắn, được gọi chung là các Chư vị Thực tế thờ cúng trong “đạo” Mẫu thể hiện sự hội nhập của nhiều tôn giáo khác nhau, chủ yếu là Đạo giáo.

Dù hiểu trên góc độ nào, tín ngưỡng vẫn là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một nhu cầu của xã hội

Tín ngưỡng được định nghĩa là hệ thống niềm tin vào các đấng thiêng liêng do con người tạo ra, hình thành như một sản phẩm văn hóa Nó phát triển tự phát trong mối quan hệ giữa con người với bản thân, với cộng đồng và với thế giới tự nhiên.

Gần đây, có nhiều khái niệm mới liên quan đến tín ngưỡng được đề cập, bao gồm tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng ngoại nhập và tín ngưỡng dân gian.

Tín ngưỡng bản địa là tín ngưỡng gốc của cư dân bản địa ở một quốc gia hay vùng đất, địa phương nào đó

Chẳng hạn, ở Việt Nam có tín ngưỡng thờ Tam Phủ, Tứ Phủ, Tứ Bất

Tử là các loại hình tín ngưỡng bản địa

Tín ngưỡng ngoại nhập, khác với tín ngưỡng bản địa, là những tín ngưỡng được du nhập từ bên ngoài thông qua di cư và giao lưu văn hóa Một ví dụ điển hình cho tín ngưỡng ngoại nhập tại Việt Nam là việc thờ Quan Công và Bà Thiên Hậu, hai nhân vật có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Tín ngưỡng dân gian, theo Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm trong “Tạp chí nghiên cứu Phật học” (số 6, năm 2002), được hiểu là hành vi tôn giáo gắn liền với phong tục của các dân tộc và là hiện tượng tôn giáo mang tính nguyên thủy Từ khi nền văn hóa nhân loại hình thành, tín ngưỡng dân gian đã tồn tại phổ biến trong các cộng đồng dân tộc trên khắp thế giới.

Theo Patrick B.Mullen, tín ngưỡng dân gian mang tính xuyên văn hóa và đa dạng cao, không chỉ tồn tại dưới hình thức trừu tượng mà còn thể hiện qua thực tiễn và hành vi cụ thể Nó là một phần của quá trình văn hóa phức tạp, liên quan đến các giá trị, niềm tin và cách ứng xử trong văn hóa dân gian.

Tín ngưỡng là một hình thức sinh hoạt văn hóa cổ xưa của nhân loại, phản ánh sự tìm kiếm ý nghĩa và giải thích các hiện tượng tự nhiên mà con người chưa thể lý giải Khi trí tuệ con người còn hạn chế, những hiện tượng như mưa, gió, bão, hạn hán, thiên tai và bệnh tật đã tạo ra sự ám ảnh trong tâm thức Từ đó, con người đã hình thành niềm tin vào các vị thần siêu nhiên như Thần Mặt Trời, Mặt Trăng, Lửa, Gió, cùng với các yếu tố tự nhiên như Suối, Rừng, Núi, Sông, Biển, dẫn đến việc hình thành các tục thờ cúng.

Tín ngưỡng là nơi con người đặt niềm tin và hy vọng để vượt qua khó khăn trong cuộc sống Nhờ vậy, tín ngưỡng đã phát triển và vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Con người thường đặt ra câu hỏi về nguồn gốc và điểm đến sau khi chết Theo quan niệm chung, con người bao gồm cả phần hồn và phần xác, được xem như những sinh linh có linh hồn Hình dáng của linh hồn thì không ai có thể hình dung rõ ràng, nó đại diện cho một thế giới tâm linh huyền bí và thiêng liêng.

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC TỘC NGƯỜI Ở ĐÔNG NAM Á

Khu vực Đông Nam Á, nằm ở phần Đông Nam lục địa Á-Âu, là một hệ thống phức tạp bao gồm các đảo, bán đảo, quần đảo, biển và vịnh biển, tọa lạc tại vị trí tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương Khu vực này trải dài từ 92° đến 140° kinh đông và từ 15° vĩ Nam đến 28° vĩ Bắc, được ví như một "ngã tư đường" của các châu lục lớn.

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư, tên gọi "Đông Nam Á" được các nhà nghiên cứu chính trị và quân sự của Hà Lan, Anh, Mỹ đưa ra từ những năm đầu Thế chiến thứ hai Khu vực này chính thức trở thành một thực thể địa- chính trị- quân sự khi tổng thống Mỹ Franklin D Roosevelt và thủ tướng Anh Winston Churchill công nhận.

Trước đây, khu vực Đông Nam Á đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau tùy theo mục đích sử dụng Cách viết từ "Đông Nam Á" bằng tiếng Anh cũng có sự khác biệt, với một số nhà nghiên cứu như Victor Purcell và E.G.H Dobby sử dụng từ "Southeast" để chỉ vùng này.

Thuật ngữ "South East" hay "South-East" đã được sử dụng từ lâu, với Bộ tư lệnh tối cao Đông Nam Á (SEAC) vẫn giữ nguyên từ "Southeast", trong khi tướng Môngbattơn lại sử dụng "South-East" Điều này cho thấy rằng sau Chiến tranh thế giới thứ hai, "Đông Nam Á" mới chính thức xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới như một khu vực riêng biệt và quan trọng Ý niệm về Đông Nam Á đã tồn tại từ lâu, nhưng theo thời gian, khái niệm này đã được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn Người Trung Quốc xưa thường dùng từ Nam Dương để chỉ các nước trong vùng biển phía Nam, trong khi người Nhật gọi khu vực này là Nan.

Vùng đất này được người Ả Rập xưa gọi là Qumr, sau đó là Waq-Waq và cuối cùng là Zabag Trong khi đó, người Ấn Độ từ lâu đã biết đến khu vực này với tên gọi Suvarnabhumi (đất vàng) hay Suvarnadvipa (đảo vàng).

Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau Gió mùa và khí hậu biển đã tạo điều kiện cho vùng này trở nên xanh tốt và trù phú, với các đô thị phát triển như Kuala Lumpur, Singapore và Jakarta Những cơn mưa nhiệt đới do gió mùa mang lại cung cấp đủ nước cho đời sống và sản xuất hàng năm, cho thấy gió mùa không chỉ mang lại thuận lợi mà còn là yếu tố quan trọng cho sự phát triển của con người.

Thiên nhiên Đông Nam Á sở hữu thảm thực vật phong phú và tươi tốt quanh năm, với sự đa dạng giữa rừng nhiệt đới, đồi núi, đảo và đồng bằng, tạo nên một cảnh quan vô cùng hấp dẫn và đầy tiềm năng.

Hệ thống sông ngòi phong phú ở khu vực này bắt nguồn từ những vùng núi rừng rộng lớn, với chế độ nước phụ thuộc vào mùa mưa gió mùa xích đạo Mực nước sông thường cao nhất vào cuối mùa đông và đầu mùa hạ, trong khi thấp nhất vào cuối mùa đông và đầu mùa xuân Các con sông chủ yếu chảy theo hướng Bắc-Nam, trong đó sông Mekong là sông lớn và quan trọng nhất, bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng và chảy qua nhiều quốc gia như Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, trước khi đổ ra biển Đông với chiều dài hơn 4.500 km Nguồn nước chủ yếu đến từ mưa gió mùa hạ và nước tuyết tan từ thượng nguồn, dẫn đến sự biến đổi mực nước sông theo mùa.

Hồ tiếp nhận nước từ đồng bằng Campuchia và đổ vào sông Mekong qua sông Tônlê Xáp Đông Nam Á có hệ thống sông ngòi dày đặc, với chế độ sông điều hòa, đóng vai trò quan trọng trong giao thông vận tải và tạo ra các vùng châu thổ màu mỡ, như châu thổ Hạ-Myanmar, châu thổ Mê Nam-Thái Lan, châu thổ Java, châu thổ Mekong và châu thổ sông Hồng tại Việt Nam.

Đông Nam Á sở hữu những đỉnh núi cao nhất như Kinabalu (trên đảo Borneo, Malaysia) với độ cao hơn 4.000m và Phanxipang ở Tây Bắc Việt Nam cao trên 3.000m Khu vực này còn nổi bật với các quần đảo lớn, bao gồm bán đảo Trung Ấn và hai quần đảo lớn Indonesia và Philippines, thường được gọi chung là quần đảo Malaya Giữa các đảo là hệ thống biển phong phú như biển Đông, biển Java, biển Xulavêđi, và biển Banđa Dọc theo quần đảo Philippines là những dải vực biển hẹp và sâu, nhiều nơi đạt độ sâu lên đến 10km Với khí hậu nóng, biển Đông Nam Á phát triển mạnh hệ sinh thái san hô, tạo nên những đảo san hô rộng lớn như quần đảo Hoàng.

Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam nổi bật với những vịnh lớn nhỏ và các eo biển nổi tiếng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đa dạng và hùng vĩ của khu vực Đông Nam Á.

Đông Nam Á, với vị trí địa lý chiến lược trên con đường hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, đã từ lâu được coi là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải Ngành hàng hải ở khu vực này có lịch sử lâu dài, với cư dân Đông Nam Á đã biết đóng thuyền từ rất sớm Theo W.Solheime, kỹ thuật đi biển xuất hiện ở vùng duyên hải Sulu khoảng 8000-9000 năm trước Hình dáng thuyền được khắc trên trống đồng Đông Sơn và các tài liệu cổ Trung Quốc từ thế kỷ III xác nhận rằng các sư tăng Trung Hoa đã sử dụng thuyền lớn để sang Ấn Độ Buôn bán đường biển với Đông Nam Á đã diễn ra sôi động từ thế kỷ II, và đến thế kỷ VII, thuyền buôn Arập thường xuyên đến đây để mua hương liệu và gia vị Những nhà địa lý, du lịch, truyền giáo và ngoại giao từ cả phương Đông và phương Tây cũng đã có mặt tại Đông Nam Á thông qua các tuyến đường biển.

Đông Nam Á sở hữu nguồn khoáng sản phong phú, với thiếc là khoáng sản quan trọng nhất, thường đi kèm với vonfram và thiếc-kẽm Vòng đai thiếc trải dài từ Tây Nam Trung Quốc đến Đông Nam Á, nơi đây cũng là quê hương của nhiều cây gia vị và cây hương liệu như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, và trầm hương, cùng với cây lương thực chủ yếu là lúa nước Văn hóa Hòa Bình cho thấy cư dân đã thuần hóa nhiều giống lúa và thực vật, hình thành nền nông nghiệp sơ khai với các loại cây trồng như củ và bầu bí, cũng như các cây họ đậu ở vùng thung lũng chân núi Trong thời kỳ đồ đồng, cư dân đã chuyển sang kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước tại các vùng thung lũng châu thổ, với cây lúa đầu tiên được thuần dưỡng tại vùng thung lũng theo chân núi và dần thích nghi với vùng ngập nước.

Nông nghiệp lúa nước đã trở thành nền tảng quan trọng của nền văn minh khu vực, cùng với sự phát triển của nghề trồng lúa, thuần dưỡng trâu bò làm sức kéo và các nghề thủ công, đặc biệt là đánh cá ở sông và biển Nền văn minh này mang đầy đủ sắc thái của các nền văn minh đồng bằng, ven biển, nửa đồi núi và nửa rừng, với các kết cấu phức tạp đan xen Cơ sở chung của nền văn minh này chính là nông nghiệp trồng lúa nước.

1.2.2 Lịch sử hình thành và phát triển

Vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, ở Đông Nam Á đã có nhiều quốc gia được hình thành với thiết chế đơn giản, bắt đầu quá trình

Trong bối cảnh lịch sử đặc thù, các dân tộc ở khu vực Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ấn Độ và Trung Quốc, nhưng vẫn duy trì sự tự chủ trong quá trình phát triển Việt Nam, với nền tảng kỹ thuật trồng lúa nước phát triển sớm, đã xây dựng đất nước từ rất sớm so với các quốc gia khác Văn hóa bản địa của khu vực, cùng với truyền thống dân chủ và tính cách cởi mở, đã giúp cư dân Đông Nam Á tiếp thu có chọn lọc các yếu tố văn hóa từ Ấn Độ và Trung Quốc.

CÁC DẠNG THỨC TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA CỦA TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER Ở ĐÔNG NAM Á

CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER Ở ĐÔNG

2.1.1 Sự phân bố cư trú

Theo Phạm Đức Dương trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á” (2000), ngữ hệ Môn-Khmer chủ yếu phân bố ở khu vực Đông Nam Á lục địa, kéo dài từ các vùng núi Bắc Đông Dương đến cao nguyên.

Cò rạt (Thái Lan), Boloven (Lào), Tây Nguyên (Việt Nam) và tập trung ở hai đầu phía Bắc người Môn ở Myanmar, phía Nam người Khmer ở Campuchia [16;37]

Khái niệm Môn-Khmer được hình thành từ sự kết hợp của hai ngôn ngữ lớn là Môn và Khmer, dẫn đến sự đa dạng và phức tạp trong tên gọi Ở phía Bắc, có các nhóm ngôn ngữ như Khasi (Ấn Độ), Mảng (Việt Nam), Paluang wa (Trung Quốc và Myanmar gọi là Kwa, Thái Lan và Lào gọi là Lawa hay Lúa), và Khmú ở Bắc Lào và Việt Nam Tại miền Trung lưu vực sông Mê Kông, nhóm Kui (Thái Lan, Lào, Campuchia, và dọc Trường Sơn Việt Nam gọi là Cơ-tu, Vân Kiều) xuất hiện, trong khi phía Nam có nhóm Laven-Brao ở Lào và Campuchia, được gọi là nhóm Bana-Xơ-đăng tại Việt Nam, bên cạnh nhóm M’nông-Mạ Các ngôn ngữ gần Môn bao gồm nhóm Tri-Mang Cong, Xuồi-Càtang, và Cơ-tu-Tà-ôi-Nghé, tạo thành một đường chéo từ Myanmar qua Thái Lan và Trung Lào Trung phần Việt Nam, giáp biển với người Cơ-tu, chia các ngôn ngữ gần Khmer thành nhóm Bắc (nhiều nhất là người Khmú) và nhóm Nam (nhiều nhất là người Bana) Người Lào cũng phân loại tiếng Việt vào nhóm Môn, trong khi người Mường có mối quan hệ gần gũi với người Việt.

* Ở Campuchia, tộc người Môn- Khmer sinh sống ở miền Đông- Bắc của đất nước, gồm có:

* Ở Lào, ngôn ngữ Môn- Khmer là lớp cư dân cổ ở Lào Nhóm này có

19 tộc, nếu xét theo sự gần gũi trong lối sống, có thể phân nhóm này thành 3 tiểu nhóm, mỗi tiểu nhóm có một vùng cư trú tập trung riêng

Nhóm 5 tộc người cư trú tập trung tại các tỉnh phía Bắc nước Lào:

Nhóm 7 tộc người tập trung cư trú ở các tỉnh Trung Lào:

Nhóm 7 tộc người còn lại tập trung cư trú ở các tỉnh Nam Lào:

* Ở Myanmar, cư dân ngữ hệ Môn- Khmer chủ yếu cư trú ở vùng Đông Bắc, gồm có:

* Các tộc người thuộc ngữ hệ Môn - Khmer ở Thái Lan chiếm gần 4% dân số đất nước

- Người Môn có khoảng 9 vạn, cư trú ở vùng trung tâm và miền Tây thuộc các tỉnh Hác Lát, Pa Krêt, Ayuthia, Lốpburi, Kenchaburi và vùng ngoại vi Bangkok

- Người Khmer có khoảng 40 vạn cư trú tập trung ở vùng giáp giới Campuchia thuộc các tỉnh Tr’at, Buriram, Xurin, Xixakệt…

- Người Lava còn khoảng 1 vạn người cư trú ở Bắc Thái Lan thuộc các tỉnh Mexarien, Mekongxon, Chiengmai, Lam Pan

- Người Kui có khoảng 40 vạn người phân bố ở các tỉnh Xurin, Xixakệt, Ubon, Rốet…

Các tộc người Sẹc, Kbrao, Sộ, Khmú, Katin và một số tộc khác sinh sống chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và Đông Bắc Việt Nam, với mỗi tộc có dân số chỉ khoảng vài ngàn người Đặc biệt, tộc người Xêmang, Xênôi và Mrabri là những nhóm dân tộc nhỏ ở Thái Lan.

* Việt Nam có 21 dân tộc thuộc ngữ hệ Môn- Khmer phân bố rải rác trên khắp vùng miền Việt Nam:

Người Bana, còn được biết đến với các tên gọi như Gơ lar, Tơ Lô, Giơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kđe, A La Công, Kpăng Công và Bơ Môn, là một trong những dân tộc thiểu số tại Việt Nam với dân số đáng kể.

136.000 người, người Bana cư trú chủ yếu ở Gia Lai- Kontum, miền Tây Bình Định và Phú Yên

- Người Brâu (có tên gọi khác là Brao), với dân số 200 người, tập trung ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kontum

- Người Bru- Vân Kiều (tên gọi khác là Bru, Vân Kiều, Mang Cong, Tri, Khùa), chủ yếu ở Bình Trị Thiên

- Người Chơ- ro (tên gọi khác là Đơ- ro, Châu Ro), cư trú đông ở tỉnh Đồng Nai, một số ít ở tỉnh Bình Thuận và Bình Phước

Người Co, còn được biết đến với các tên gọi khác như Cor, Col, Cùa và Trầu, có dân số khoảng 22.600 người Họ chủ yếu sinh sống tại huyện Trà My thuộc tỉnh Quảng Nam và huyện Trà Bồng ở tỉnh Quảng Ngãi.

Người Cơ-ho, còn được biết đến với các tên gọi như Xrê, Nộp, Cơ lon, Chil, Lát, Tring, là một trong những dân tộc thiểu số tại Việt Nam với dân số gần 100.000 người Họ chủ yếu sinh sống ở cao nguyên Di Linh, thuộc tỉnh Lâm Đồng và Thuận Hải.

Người Cơ-Tu, còn được biết đến với các tên gọi như Ca Tu, Cao, Hạ, Phương, và Ca-tang, là một dân tộc có dân số khoảng 37.000 người Họ chủ yếu sinh sống tại các huyện Hiên, Giằng thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, cùng với A Lưới và Phú Lộc ở Thừa Thiên-Huế.

Người Giẻ- triêng, còn được biết đến với các tên gọi khác như Đgiéh, Ta Reh, Giảng Rây, Pin, Triêng, Treng, Ta Liêng, Ve, La-Ve, Bnoong, và Ca Tang, là một dân tộc có dân số khoảng 27.000 người Họ chủ yếu sinh sống tại tỉnh Kontum và các khu vực miền núi của tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng.

- Người Hrê (tên gọi khác là Chăm rê, Chom Krẹ, Lùy…) Dân số: Khoảng 95.000 người, cư trú ở miền Tây tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định

- Người Kháng (tên gọi khác là Xá Khao, Xá Xúa, Xá Dâng, Xá Hộc,

Xá Ái, Xá Bung, Quảng Lâm) Dân số khoảng 4000 người, cư trú ở tỉnh Sơn

- Người Khmer (tên gọi khác là Việt gốc Miên, Khmer Krôm) Dân số khoảng 1 triệu người, cư trú ở Sóc Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh, Kiên Giang,

Người Khmú, còn được biết đến với các tên gọi như Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, và Tày Hạy, là một trong những tộc người đông đảo nhất trong nhóm Môn-Khmer tại Bắc Việt Nam, với dân số khoảng 43.000 người Họ chủ yếu sinh sống tại các tỉnh Nghệ An, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, và Thanh Hóa Trước đây, người Khmú cư trú ở Lào, nhưng do những biến động lịch sử, họ đã di cư sang Việt Nam và hiện nay tập trung chủ yếu ở khu vực biên giới giữa Việt Nam và Lào.

- Người Mạ (tên gọi khác là Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn) Dân số 26.000 người, chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng

- Người Mảng (Mảng Ư, Xá lá vàng) Dân số trên 2.200 người, cư trú ở tỉnh Lai Châu (Sìn Hồ, Mường Tè, Phong Thổ, Mường Lay)

Người M’nông, bao gồm các nhóm Bu-dâng, Preh, Ger, Nong, Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil Bu Nor và nhóm M'nông Bu-dâng, có dân số khoảng 67.300 người Họ chủ yếu sinh sống ở phía nam tỉnh Đắc Lắc, cũng như một phần của tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước.

Người Ơ-đu là một dân tộc nhỏ với dân số khoảng 94 người, chủ yếu sinh sống tại hai bản Kim Hòa và Xốp Pột thuộc xã Kim Đa Ngoài ra, họ cũng có một số cư trú rải rác ở các bản của các xã lân cận trong huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

- Người Rơ- măm có dân số 230 người, sống ở làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kontum

Người Tà-ôi, với số lượng hơn 35.000 người, chủ yếu sinh sống tại huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) và Hương Hóa (Quảng Trị) Họ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, có sự tương đồng với tiếng Bru-Vân Kiều và Cơ-tu.

Người Xinh-Mun, còn được gọi là Puộc hay Pụa, là một dân tộc với dân số khoảng 10.000 người, sinh sống ở khu vực lưng chừng núi dọc theo biên giới Việt-Lào, thuộc hai tỉnh Sơn La và Lai Châu Phần lớn người Xinh-Mun có nguồn gốc cư trú lâu đời tại vùng Tây Bắc, trong khi một bộ phận nhỏ hơn mới di cư sang Lào trong thời gian gần đây.

Người Xơ- đăng, còn được biết đến với các tên gọi như Xơ Đeng, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng và Con Lan, có tổng dân số khoảng 97.000 người Họ chủ yếu sinh sống tập trung ở tỉnh Kontum, trong khi một số ít cư trú tại các khu vực miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng.

Người Xtiêng, với hơn 67.000 thành viên, chủ yếu cư trú tại tỉnh Bình Phước và sống rải rác ở Đồng Nai và Tây Ninh Trong cộng đồng này, có thể phân biệt hai nhóm chính là Bù Đéc và Bù Lơ.

Như vậy, có thể kết luận rằng: các tộc người thuộc ngữ hệ Môn- Khmer chiếm một tỷ lệ lớn của phần cư dân Đông Nam Á lục địa

TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN HỒN LÚA CỦA MỘT SỐ TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN- KHMER Ở ĐÔNG NAM Á

Xuất phát từ tâm thức tín ngưỡng hồn lúa, các tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam gắn liền với nền nông nghiệp trồng lúa nước và hoạt động đồng áng, thể hiện rõ qua những câu ca dao truyền thống.

“ Người ta đi cấy lấy công Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề Trông trời, trông đất, trông mây Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm

Trông cho chân cứng đá mềm Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng.”

Người dân không chỉ tôn thờ hồn lúa mà còn thờ các thần tự nhiên khác để cầu mong cho mùa màng bội thu và việc trồng trọt diễn ra thuận lợi.

Trong tâm linh của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, đặc biệt là tộc người Môn-Khmer, có ba tín ngưỡng dân gian quan trọng: thờ cúng tổ tiên, vạn vật hữu linh và phồn thực Tất cả các tín ngưỡng này đều xuất phát từ học thuyết vạn vật hữu linh, cho rằng mọi vật đều có linh hồn Ngoài ra, chúng còn liên quan chặt chẽ đến tín ngưỡng thờ thần lúa và các lễ nghi nông nghiệp.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:

Tộc người nói ngữ hệ Môn- Khmer tin rằng mình do một vật tổ sinh ra [19;225] Chẳng hạn:

Người Campuchia thì tin rằng vật tổ của mình là con của thần rắn (nag)

Người Lào và Thái Lan tin rằng mình sinh ra từ quả bầu

Người Việt tự hào về nguồn gốc dân tộc, coi mình là con rồng cháu tiên Dựa trên hoa văn của trống đồng, nhiều người tin rằng chim Lạc từng là biểu tượng tổ tiên của họ.

Tín ngưỡng vạn vật hữu linh:

Cuộc sống hàng ngày và sản xuất nông nghiệp của con người, đặc biệt ở Đông Nam Á, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên Vì vậy, việc sùng bái tự nhiên là điều tất yếu đối với cư dân trong khu vực này.

Từ xa xưa, con người đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của năng lượng mặt trời trong cuộc sống, dẫn đến việc các quốc gia Đông Nam Á đều có tục thờ mặt trời Hình ảnh mặt trời thường được khắc trên trống đồng và thạp đồng, biểu trưng cho nguồn sống và sự ấm áp Ở một số làng tại Việt Nam, tục cướp cầu diễn ra với quả cầu gỗ sơn son thiếp vàng, tượng trưng cho mặt trời Trò chơi này không chỉ mang tính giải trí mà còn thể hiện sự cầu xin cho thời tiết thuận lợi trong nông nghiệp Ngoài ra, quả bưởi và quả dừa cũng được sử dụng thay cho quả cầu, tượng trưng cho nước và mưa, nhấn mạnh mối liên hệ giữa mặt trời và sự sinh trưởng của cây trồng.

Tục thả diều và thả chim câu bay lên cao, xoáy vòng tròn, là hoạt động mà mọi người cùng ngửa mặt nhìn lên bầu trời Theo các nhà dân tộc học, những hành động này được coi là biểu hiện của sự tôn thờ trời.

Nhiều dân tộc trên thế giới thờ cúng các hiện tượng thiên nhiên như mặt trăng, ngôi sao và cầu vồng Khi xảy ra các hiện tượng thiên nhiên bất thường như mưa lớn, gió mạnh, lũ lụt, động đất hay lốc xoáy, cư dân địa phương thường thực hiện nghi lễ cầu khấn, dâng lễ vật và đọc thần chú để cầu mong sự bình an.

Các nhà dân tộc học cho Hội chọi trâu là biểu hiện tôn thờ trăng Sừng trâu cong nhọn là thể hiện trăng non [13;118]

Người Khmer ở Việt Nam tổ chức hội Ooc-om-bok vào rằm tháng 10 âm lịch hàng năm để tỏ lòng biết ơn với mặt trăng sau mùa gặt Trong dịp này, họ thực hiện nghi lễ cúng trăng, thả thuyền trên sông và thả đèn giấy lên trời, tượng trưng cho sự tri ân đối với thần mặt trăng đã ban cho mùa màng bội thu.

Nước đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp, dẫn đến việc cư dân nông thôn tổ chức các nghi lễ cầu nước và rước nước Tục rước nước thường diễn ra vào sáng sớm, ngày đầu tiên của lễ hội, với nhiều hình thức và ý nghĩa khác nhau Người dân cúng lễ thần Nước, cầu mong được ban phát nước để mùa màng bội thu Tại Thái Lan, lễ tạ ơn Mẹ nước diễn ra vào đêm trăng tròn tháng 10 âm lịch hàng năm, trong khi Campuchia và Lào cũng tổ chức các lễ hội liên quan đến nước.

Tục thờ thần sông ở Campuchia, Lào và Myanmar không chỉ bao gồm việc tôn thờ thần Nước mà còn cả thần Sông, vị thần có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho các đồng ruộng.

Nước và các hiện tượng liên quan như mây, mưa, sấm, chớp có vai trò quan trọng trong đời sống nông nghiệp Vì vậy, các vị thần như Thần Mưa, Thần Mây, Thần Sấm, Thần Chớp và Thần Gió được tôn thờ rộng rãi trong cộng đồng.

Tục cúng thần đất là một phong tục quan trọng trong văn hóa nông nghiệp, bởi đất là yếu tố thiết yếu cho công việc đồng áng của cư dân Vị thần này được thờ cúng rộng rãi ở khắp mọi nơi, thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn của người nông dân đối với nguồn sống của họ.

Tục lễ cầu mưa, hay còn gọi là đảo vũ, được thực hiện khi gặp tình trạng hạn hán, nhằm cầu mong mưa xuống Trong nghi lễ này, các nhà sư thường tổ chức lễ chạy đàn cầu mưa, cầu xin bốn yếu tố liên quan đến mưa: Pháp Vân (Mây), Pháp Vũ (Mưa), Pháp Lôi (Sấm) và Pháp Điện (Chớp).

Tục lễ cầu tạnh là một phong tục truyền thống khi thời tiết xấu, như mưa, gió, bão, diễn ra Người dân thực hiện nghi lễ này với hy vọng cầu mong mưa thuận gió hòa, nhằm bảo vệ mùa màng khỏi thiệt hại do thiên tai.

SO SÁNH TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA TÍN NGƯỠNG HỒN LÚA, CƠ TẦNG VĂN HÓA CỦA TỘC NGƯỜI THUỘC NGỮ HỆ MÔN-

Ngày đăng: 10/08/2021, 15:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
10. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian- mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa dân gian- mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại
Tác giả: Chu Xuân Diên
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2001
11. Ngô Văn Doanh (1999), Từ điển văn hóa Đông Nam Á phổ thông, NXB Văn hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn hóa Đông Nam Á phổ thông
Tác giả: Ngô Văn Doanh
Nhà XB: NXB Văn hóa
Năm: 1999
12. Ngô Văn Doanh (2006), Lễ hội chuyển mùa của người Chăm, NXB Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội chuyển mùa của người Chăm
Tác giả: Ngô Văn Doanh
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2006
13. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa tâm linh
Tác giả: Nguyễn Đăng Duy
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2002
14. Phạm Đức Dương (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam
Tác giả: Phạm Đức Dương
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1996
15. Phạm Đức Dương (1998), 25 năm tiếp cận Đông Nam Á học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 25 năm tiếp cận Đông Nam Á học
Tác giả: Phạm Đức Dương
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 1998
16. Phạm Đức Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á
Tác giả: Phạm Đức Dương
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2000
17. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ văn hóa đến văn hóa học
Tác giả: Phạm Đức Dương
Nhà XB: Viện Văn hóa
Năm: 2002
18. Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á
Tác giả: Phạm Đức Dương
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia
Năm: 2007
19. Nguyễn Tấn Đắc (2003), Văn hóa Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa Đông Nam Á
Tác giả: Nguyễn Tấn Đắc
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2003
20. D.G.H. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đông Nam Á
Tác giả: D.G.H. Hall
Nhà XB: NXB chính trị quốc gia
Năm: 1997
21. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, NXB Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ
Tác giả: Nguyễn Hữu Hiếu
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2004
22. Hồ Hoàng Hoa (1998), Lễ hội một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Tác giả: Hồ Hoàng Hoa
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1998
23. Lê Như Hoa (2001), Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam
Tác giả: Lê Như Hoa
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2001
24. Sơn Phước Hoan (1998), Các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ
Tác giả: Sơn Phước Hoan
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1998
25. Trịnh Huy Hóa biên dịch (2003), Đối thoại với các nền văn hóa- Campuchia, NXB Trẻ, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối thoại với các nền văn hóa-Campuchia
Tác giả: Trịnh Huy Hóa biên dịch
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2003
26. Trịnh Huy Hóa biên dịch (2003), Đối thoại với các nền văn hóa- Lào, NXB Trẻ, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối thoại với các nền văn hóa- Lào
Tác giả: Trịnh Huy Hóa
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2003
27. Trịnh Huy Hóa biên dịch (2003), Đối thoại với các nền văn hóa- Myanmar, NXB Trẻ, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối thoại với các nền văn hóa- Myanmar
Tác giả: Trịnh Huy Hóa
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2003
28. Trịnh Huy Hóa biên dịch (2003), Đối thoại với các nền văn hóa- Thái Lan, NXB Trẻ, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối thoại với các nền văn hóa- Thái Lan
Tác giả: Trịnh Huy Hóa biên dịch
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2003
29. Nguyễn Văn Huy (2005), Từ dân tộc học đến bảo tàng dân tộc học- Con đường học tập và nghiên cứu, tập 2, Viện Khoa học xã hội Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ dân tộc học đến bảo tàng dân tộc học- Con đường học tập và nghiên cứu
Tác giả: Nguyễn Văn Huy
Nhà XB: Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Năm: 2005

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w