Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đồng chí Võ Văn Kiệt đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp vùng Đồng Tháp Mười, thể hiện qua sự theo dõi, điều tra và chỉ đạo chính xác nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng lúa gạo tại đây Công trình nghiên cứu về vai trò của ông không chỉ phản ánh dấu ấn thời kỳ đổi mới mà còn là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của Đảng bộ và nhân dân các tỉnh trong vùng Sự quyết tâm này đã góp phần đưa sản xuất lương thực phục vụ cho cả nước, khẳng định tầm quan trọng của Đảng trong việc thực hiện đường lối đổi mới.
Các công trình nghiên cứu đã được công bố, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến đề tài, bao gồm cả những nghiên cứu trực tiếp về đồng chí Võ Văn Kiệt và vai trò của đồng chí trong bối cảnh đó.
Võ Văn Kiệt trong phát triển nông nghiệp vùng Đồng Tháp Mười như:
Đồng chí Võ Văn Kiệt đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến việc khai thác tiềm năng to lớn của Đồng bằng sông Cửu Long, như được nêu trong tác phẩm của nhiều tác giả (2010) tại Nhà xuất bản Trẻ, trang 38 và 39.
Văn Kiệt với cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
Bài viết "Dấu ấn Võ Văn Kiệt với quá trình phát triển vùng Đồng Tháp Mười" của tác giả Lê Thanh Dũng, đăng trên trang 313 năm 2012, đã khái quát quá trình khai thác kinh tế xã hội của vùng Đồng Tháp Mười và nhấn mạnh vai trò quan trọng của đồng chí Võ Văn Kiệt Ông là một nhân cách lớn và nhà lãnh đạo tài năng, suốt đời cống hiến cho đất nước và nhân dân Tác phẩm được xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, dưới dạng hồi ký của những đồng chí từng làm việc cùng ông.
Bài viết "Người tạo diện mạo cho Đồng bằng sông Cửu Long" của tác giả Hồng Hạnh, trang 467, nêu bật những quyết sách đột phá của Võ Văn Kiệt đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là trong việc khai thác tiềm năng Đồng Tháp Mười Nghiên cứu khoa học cấp trường (2014) của nhóm tác giả Nguyễn Thị Kim Mai, Phạm Thế Hiển, Trần Đức Huy, Đinh Duy Tiên và Phùng Thị Ngọc Xuân cũng đã đánh giá vai trò của Võ Văn Kiệt trong quá trình đổi mới nông nghiệp tại Đồng Tháp Mười giai đoạn 1987-1997 Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu còn hạn chế khi chưa làm nổi bật vai trò cá nhân của Võ Văn Kiệt và nguồn tài liệu chưa phong phú, trong khi phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp.
Phạm Thế Hiển (2017) trong khóa luận tốt nghiệp Đại học đã nghiên cứu về vai trò của đồng chí Võ Văn Kiệt trong quá trình khai hoang nông nghiệp tại Đồng Tháp Mười từ năm 1987 đến 1997 Luận văn này được sự đồng ý của nhóm nghiên cứu sinh viên và kế thừa từ nghiên cứu khoa học sinh viên của năm 2014 Tác giả đã tập trung vào chuyên ngành Lịch sử Đảng, phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp trong việc thực hiện chỉ đạo từ Trung ương, đồng thời làm nổi bật sự đóng góp của đồng chí Võ Văn Kiệt trong việc khai thác và phát triển vùng Đồng Tháp Mười Nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp.
Dựa trên nghiên cứu khoa học cấp trường và khóa luận tốt nghiệp, tác giả đã phát triển luận văn thạc sĩ với phạm vi nghiên cứu mở rộng ra toàn vùng Đồng Tháp Mười, bao gồm các tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp Công trình này không chỉ bổ sung nguồn tư liệu từ Long An và Tiền Giang mà còn làm nổi bật vai trò của đồng chí Võ Văn Kiệt cùng với chính quyền địa phương trong việc khai thác kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười Bài viết cũng nêu rõ những thành tựu đạt được trong quá trình khai hoang và phục hóa từ năm 1987.
Vào năm 1997, nội dung nghiên cứu đã được cấu trúc lại, trong đó chương 3 trình bày kết quả phát triển nông nghiệp tại vùng Đồng Tháp Mười và nhấn mạnh vai trò của đồng chí trong quá trình này.
Tỉnh ủy Long An (2019), Hội thảo khoa học đồng chí Nguyễn Văn Chính với cách mạng Việt Nam và quê hương Long An, Văn phòng Tỉnh ủy
Hội thảo tại Long An đã quy tụ các bài viết và nghiên cứu từ các tác giả và lãnh đạo Trung ương, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp nhằm làm rõ vai trò của đồng chí Nguyễn Văn Chính đối với quê hương Long An Hai bài viết nổi bật là “Dấu ấn của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính trong việc đánh thức tiềm năng vùng Đồng Tháp Mười” và “Vai trò của đồng chí Nguyễn Văn Chính trong việc lãnh đạo Đảng bộ và nhân dân tỉnh Long An thực hiện chương trình khai thác tiềm năng vùng Đồng Tháp Mười”, đều đề cập đến sự lãnh đạo của đồng chí trong việc phát triển kinh tế xã hội vùng Đồng Tháp Mười thuộc tỉnh Long An Bên cạnh đó, luận án Tiến sĩ của Ngô Văn Bé (2006) về lịch sử phát triển vùng Đồng Tháp Mười (1945-1995) cũng được tham khảo trong hội thảo.
Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế - xã hội của vùng Đồng Tháp Mười từ 1945 đến 1995, nhấn mạnh vai trò của đồng chí Võ Văn Kiệt trong việc khai hoang vùng này Tác phẩm "Địa chí Đồng Tháp Mười" của Trần Bạch Đằng (1996) cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử và sự phát triển kinh tế, xã hội của vùng Đồng Tháp Mười Ngoài ra, hồi ký "Đổi đời" của Trọng Quý (2017) cũng góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về vùng đất này.
Trần Anh Điền (Nguyên Bí thư tỉnh Ủy Đồng Tháp), Nhà xuất bản Trẻ; Lê
Phú Khải (2005) đã giới thiệu về Đồng Tháp Mười qua tác phẩm do Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành, trong khi Võ Trần Nhã (2003) cung cấp cái nhìn lịch sử về vùng đất này trong cuốn sách của Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
Các nghiên cứu đã khảo sát các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến lãnh đạo phát triển nông nghiệp của chính quyền địa phương, đặc biệt là vai trò của Võ Văn Kiệt trong phát triển vùng Đồng Tháp Mười Những công trình này cung cấp cái nhìn tổng thể và hiểu biết sâu sắc về quá trình phát triển nông nghiệp, đồng thời là tài liệu hữu ích cho học viện trong việc thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Bài luận văn này được xây dựng dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với các quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chỉ đạo phát triển nông nghiệp.
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như sau:
Phương pháp lịch sử là công cụ quan trọng trong việc nghiên cứu các quan điểm chỉ đạo và biện pháp tổ chức thực hiện của đồng chí Võ Văn Việc áp dụng phương pháp này giúp làm sáng tỏ những đóng góp và tư tưởng của ông trong bối cảnh lịch sử cụ thể Thông qua việc phân tích các tài liệu lịch sử, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cách thức mà đồng chí Võ Văn đã định hướng và tổ chức thực hiện các chính sách, từ đó rút ra bài học quý giá cho công tác lãnh đạo hiện nay.
Kiệt đã đóng góp cho vùng Đồng Tháp Mười trong quá trình đưa ra phương hướng và các biện pháp cụ thể để tiến hành khai hoang của vùng
Phương pháp logic được áp dụng để hệ thống hóa các chính sách và chủ trương mà đồng chí Võ Văn Kiệt đã thực hiện trong quá trình khai hoang phục hóa nông nghiệp tại vùng Đồng Tháp Mười.
Các văn bản của Nhà nước và các nghị quyết của Trung ương Đảng về phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội tại Đồng Tháp Mười, cùng với các báo cáo của các tỉnh trong vùng và những bài phát biểu của đồng chí Võ Văn Kiệt, đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nông nghiệp tại khu vực này.
Kế thừa tài liệu từ các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, bài viết này tổng hợp thông tin từ báo, tạp chí và các ấn phẩm khác Đồng thời, nó cũng xem xét các văn kiện và tài liệu ghi nhận đánh giá của các địa phương và người dân Đồng Tháp Mười về vai trò của đồng chí Võ Văn Kiệt trong việc chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội tại vùng Đồng Tháp Mười.
Việc áp dụng hiệu quả các nguồn tài liệu sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và phát triển quá trình lãnh đạo nông nghiệp tại vùng Đồng Tháp.
Mười và những đóng góp của đồng chí Võ Văn Kiệt giai đoạn 1987 – 1997.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn đã làm nổi bật vai trò của đồng chí Võ Văn Kiệt và các địa phương trong sự phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười giai đoạn 1987 – 1997, ghi nhận những thành tựu quan trọng của ngành nông nghiệp trong 10 năm đổi mới.
Luận văn đã tổng hợp một cách toàn diện quá trình chỉ đạo thực hiện khai hoang vùng Đồng Tháp Mười, từ đó cung cấp cơ sở để tham khảo và xây dựng các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho khu vực này.
Luận văn này giúp nâng cao nhận thức về sự phát triển nông nghiệp tại vùng Đồng Tháp Mười trong giai đoạn 1987 – 1997, cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng định hướng và chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Ngoài ra, luận văn cũng làm rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới nông nghiệp, đồng thời thể hiện sự vận dụng sáng tạo của đồng chí Võ Văn Kiệt trong việc áp dụng đường lối đổi mới nông nghiệp vào thực tiễn tại Đồng Tháp Mười, và có thể làm tham khảo cho các khu vực tương đồng như Tứ giác Long Xuyên, Tây Nam sông Hậu, và Bán đảo Cà Mau.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 3 chương, 13 tiết.
NỘI DUNG
TRƯỚC NĂM 1987 1.1 Tổng quan về vùng Đồng Tháp Mười
Vùng Đồng Tháp Mười thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, được hình thành từ lâu nhưng chỉ chính thức xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX khi Tháp Mười trở thành căn cứ nghĩa quân chống thực dân Pháp (1864-1866) với tên Hán Việt là Thập Tháp Đây là một trong những địa danh nổi tiếng của Việt Nam, mang nhiều ý nghĩa quan trọng về địa lý và lịch sử Đồng Tháp Mười là một đồng bằng rộng lớn và trũng thấp, nằm ở hạ lưu sông Cửu Long, phía tả ngạn sông Tiền, giáp Campuchia với đường biên giới dài 185 km, phía Tây Nam giáp sông Tiền, và phía Đông, Đông Bắc giáp sông Vàm.
Cỏ Đông nằm dọc theo quốc lộ 1A, kéo dài khoảng 120 km từ Hồng Ngự (Đồng Tháp) đến Tân An (Long An) và khoảng 60 km từ Vĩnh Hưng (Long An) đến Cao Lãnh (Đồng Tháp) (Trần Bạch Đằng, 1996, tr.19).
Vùng Đồng Tháp Mười bao gồm 15 huyện, 1 thị xã và 7 xã, thuộc ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp Tổng diện tích tự nhiên của vùng này là 696.949 ha.
17,72% tổng diện tích tự nhiên của Đồng bằng sông Cửu Long (Trần Bạch Đằng, 1996, tr 21)
- Long An (299.452 ha, chiếm 43%): gồm các huyện Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Đức Huệ và 7 xã của huyện Thủ Thừa, Bến Lức.
KHÁI QUÁT VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI TRƯỚC NĂM 1987
Quá trình khai thác, phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười
Sau giải phóng, Chính phủ đã chỉ đạo khai hoang vùng Đồng Tháp Mười, với sự khảo sát và điều tra của lãnh đạo ba tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp vào năm 1976, tạo ra hệ thống bản đồ phục vụ cho việc hoạch định kế hoạch phát triển Vùng Đồng Tháp Mười có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế - xã hội, nhưng vẫn chưa được khai thác đúng mức Chương trình nghiên cứu tổng hợp Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 1978-1981 do Phó Giáo sư Nguyễn Văn Phổ lãnh đạo được xem là bước khởi đầu cho việc phục hồi nông nghiệp tại đây Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) của Đảng đã đề ra mục tiêu phát triển nông nghiệp toàn diện, nhằm cung cấp đủ lương thực, thực phẩm và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.
Sau ngày 30/4/1975, tỉnh Tiền Giang đã nhanh chóng triển khai kế hoạch khôi phục và cải tạo nền kinh tế, với trọng tâm là khai hoang phục hóa vùng Đồng Tháp Mười (Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, 1997, tr.1) Tỉnh đã khuyến khích người dân trở về quê cũ để cải tạo ruộng vườn, phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng vùng lúa hai vụ trên 45.000 ha dọc theo quốc lộ 1A và tỉnh lộ 24, đồng thời chuyển đổi vùng lúa nổi từ một vụ bấp bênh sang hai vụ ổn định Để thực hiện mục tiêu này, tỉnh đã thành lập 11 đơn vị Nông Lâm Trường và các trang trại như Nông trường Tân Lập, Nông trường Ấp Bắc, và Nông trường 3 tháng 2 (Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, 1997, tr.1-2) Năm 1977, tỉnh đã huy động hàng ngàn thanh niên, phụ nữ, bộ đội và công an tham gia đào kênh 500, kéo dài gần 20km từ xã Mỹ Phước Tây đến xã Phú Mỹ (huyện Tân Phước ngày nay).
Công Bình, Chủ tịch tỉnh Tiền Giang, cùng với đồng chí Nguyễn Công Bằng đã trực tiếp chỉ huy việc đào kênh 500 Sau đó, Tỉnh ủy quyết định tiếp tục đào kênh Trương Văn Sanh, cách kênh 500 khoảng 5km Hàng nghìn người đã được huy động để thực hiện công việc này, và chỉ sau một năm, kênh Trương Văn Sanh đã hoàn thành và chính thức đưa vào sử dụng.
Vào ngày 12/4/1977, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ I đã xác định phương hướng phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1977-1980, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển phong trào sản xuất phục vụ đời sống nhân dân Nhiệm vụ trọng tâm là tập trung phát triển nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, nhằm đảm bảo an ninh lương thực, ngăn ngừa đói và tạo dự trữ cho địa phương, đồng thời góp phần cân đối lương thực cho cả nước.
Năm 1977, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ I, Bí thư Tỉnh ủy Trần Anh Điền đã kêu gọi phát động phong trào cách mạng sâu rộng trong công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc động viên mọi người đóng góp sáng kiến và thi đua hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch nhà nước, với mục tiêu đạt “một triệu tấn thóc” Lời kêu gọi này đã thu hút đông đảo nhân dân lao động ở các thị trấn, thị xã, đặc biệt là ở vùng Đồng Tháp Mười.
Trong các chỉ thị, nghị quyết của các tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng
Tháp chú trọng vào việc phát triển vùng Đồng Tháp Mười thông qua nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, thủy lợi và khai hoang để xây dựng vùng kinh tế mới Đồng thời, cải thiện giao thông vận tải, bưu điện và hệ thống phân phối cũng được quan tâm nhằm nâng cao đời sống của người dân trong khu vực.
Công tác thủy lợi tại các tỉnh trong vùng Đồng Tháp Mười luôn được xem là nhiệm vụ hàng đầu, đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, phục vụ cho thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích canh tác, đặc biệt là đảm bảo nguồn nước tưới cho lúa hai vụ Các tỉnh đã tích cực đào mới các con kênh, điển hình như kênh Tứ Thường, Tân Hội Cơ, và Đường Thét tại Đồng Tháp; kênh Tân Thành - Lò Gạch và kênh 79 ở Long An; cùng với kênh Ranh nối giữa Trường Xuân và Kiến Tường Tỉnh Tiền Giang cũng chú trọng phát triển thủy lợi với các kênh như kênh 5, kênh 6 và các rạch trong khu vực Trạm bơm Tam Hiệp, được xây dựng năm 1979, là trạm bơm đầu tiên tại Đồng Tháp Mười, phục vụ tưới cho diện tích 6.500 ha Trong khi chờ hoàn thành kênh Hồng Ngự - Vĩnh Hưng, địa phương đã vận động người dân cải tạo hệ thống kênh mương hiện có để nâng cao hiệu quả thủy lợi.
Việc đào kênh ban đầu gặp nhiều khó khăn do lượng phèn quá cao, khiến nước có màu đỏ như nước cau đổ Lúa trồng luôn bị chết, và các sinh vật dưới sông như cá, ốc, cua cũng không thể sống nổi Ngay từ khi thực hiện chủ trương, người dân đã nhận thấy những thách thức này.
Ông Nguyễn Văn Cung, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Tháp Mười, đã chia sẻ trong cuộc phỏng vấn vào ngày 13/02/2015 rằng việc phục hóa và khai hoang vùng Đồng Tháp Mười, bao gồm ba tỉnh Long An, Tiền Giang, và Đồng Tháp, nhằm mục tiêu tạo ra khối lượng lương thực lớn Điều này không chỉ giúp xóa đói cho nhân dân trong vùng mà còn góp phần giải quyết những khó khăn chung về lương thực của cả nước.
Trong giai đoạn 1976 - 1979, khi các kênh chưa được thông tuyến và nguồn nước ngọt chưa xuất hiện, tình trạng nước phèn nghiêm trọng đã xảy ra, gây thiệt hại cho sinh vật và khiến người dân phải tìm nơi khác để sinh sống Lãnh đạo các tỉnh đã trăn trở về việc có nên tiếp tục đào kênh hay không, đồng thời đặt ra câu hỏi về việc chuyển đổi cây trồng, từ việc tiếp tục trồng lúa sang trồng tràm, lác hay cây khóm Một số ý kiến cho rằng vùng sâu Đồng Tháp Mười nên trở lại với việc trồng lúa mùa nổi như trước đây.
Việc xử lý phèn ở Đồng Tháp Mười đang trở thành vấn đề cấp bách và khó khăn, với nhiều biện pháp được đề xuất như sử dụng nước ngọt để ém phèn, đào kênh tránh các ổ phèn, cắt mao dẫn phèn bằng phương pháp cày ải và bón phân hợp lý Ngoài ra, việc áp dụng vôi và phân Apatit để xử lý phèn, cũng như lựa chọn giống cây chịu phèn là những giải pháp quan trọng cần được thực hiện.
Giai đoạn 1975-1979, công tác khai hoang, phục hóa vùng Đồng Tháp Mười đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, với hàng loạt tuyến kênh được khai thông, tạo điều kiện cho việc “dẫn thủy nhập điền” và phát triển nông nghiệp Tuy nhiên, nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan đã khiến cho các mục tiêu đề ra không được thực hiện đúng tiến độ.
Chiến tranh biên giới Tây Nam từ 1977 đến 1979 đã gây ra nhiều thiệt hại cho dân thường, khiến họ phải rời bỏ quê hương và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp Nhiều người di cư, trong khi ruộng vườn bị bỏ hoang do bom mìn chưa được rà phá, gây khó khăn trong việc khôi phục diện tích sản xuất.
Lũ lụt năm 1978 đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, đặc biệt là mùa màng Tại tiểu vùng Đồng Tháp Mười, hơn 100.000 ha lúa Hè Thu và lúa mùa bị cuốn trôi, dẫn đến việc mất trắng 250.000 tấn lúa Bên cạnh đó, sự xuất hiện của sâu rầy đã gây thêm thiệt hại đáng kể cho nông nghiệp, khiến nạn đói lan rộng trong khu vực.
Trong những năm đầu giải phóng, các tỉnh phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách như tổ chức lại bộ máy chính quyền, giải quyết lương thực thực phẩm và tư tưởng Sự thiếu hụt nhân lực có trình độ học vấn và chuyên môn đã dẫn đến việc chưa có những nghiên cứu tổng quan về địa chất, dân cư và xã hội Hơn nữa, địa giới hành chính giữa các tỉnh vẫn chưa được thống nhất rõ ràng.
Bước đầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp vùng Đồng Tháp Mười và những đóng góp của đồng chí Võ Văn Kiệt (1979 - 1987)
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, khiến đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn và nhu cầu thiết yếu không được đáp ứng Sản xuất công nghiệp đình trệ do thiếu nguyên liệu, trong khi mô hình kinh tế tập thể cũ trong nông nghiệp không còn thu hút nông dân, dẫn đến sức sản xuất nông nghiệp bị kìm hãm và đời sống của người dân ngày càng khó khăn hơn.
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng đưa ra các chính sách nhằm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân Tháng 8/1979, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa 4) đã thông qua Nghị quyết tìm kiếm giải pháp “làm cho sản xuất bung ra” Tiếp theo, tháng 9/1979, Hội nghị Trung ương 6 mở ra chủ trương đột phá đầu tiên Chỉ thị 100 (ngày 13/1/1981) của Ban Bí thư đã quy định “Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” Về mặt Nhà nước, Quyết định 418/CP (29/11/1979) đã được ban hành để xây dựng nông trường lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, cùng với Nghị định số 148 (7/4/1981) về phát triển nông nghiệp khu vực này Trong giai đoạn 1981-1985, đặc biệt từ giữa năm 1987 theo Chỉ thị 74/CT, các chính sách đã thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười.
1988 - 1990” của Chính phủ, nhờ có những chỉ thị mang tính đột phá mà diện mạo của vùng Đồng Tháp Mười đã có bước chuyển rõ rệt
Nghị quyết Trung ương 6 (khóa 4) năm 1979 đánh dấu bước khởi đầu quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển Sau khi nghị quyết ra đời, các địa phương đã khuyến khích xã viên khai hoang và thực hiện chế độ “ba khoán” nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế Tình hình khoán chui trong sản xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng, dẫn đến việc Ban Bí thư Trung ương tổng kết và ban hành Chỉ thị 100 CT/TW ngày 13/01/1981, chính thức thực hiện chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp Chỉ thị 100 là bước đột phá trong đổi mới sản xuất nông nghiệp, cho phép xã viên đầu tư vốn và lao động trên đất hợp tác xã, hưởng trọn phần vượt khoán Phong trào “Khoán 100” nhanh chóng lan rộng, phù hợp với nguyện vọng của hộ xã viên, ngăn chặn sự sa sút và tạo đà phát triển cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là tại vùng Đồng Tháp Mười Ngay sau đó, vào tháng 01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Thông tri số 138/TT-TW, mở rộng áp dụng khoán sản phẩm trong hợp tác xã và tập đoàn sản xuất ở các tỉnh phía Nam.
Theo Quyết định số 418/CP ngày 29/11/1979 của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp cùng Ty Nông nghiệp các tỉnh đã tổ chức đoàn công tác vào quý IV năm 1980 để triển khai phương án quy hoạch thử nghiệm “vùng khai hoang chuyên canh lúa Tháp Mười” tại 18 xã thuộc 3 huyện Hồng Ngự, Tam Nông, Cao Lãnh của tỉnh Đồng Tháp Đoàn công tác bao gồm lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ từ các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, thủy lợi, xây dựng, ủy ban kế hoạch, ban phân vùng kinh tế Đến giữa tháng 12/1980, phương án này đã được Tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp cùng một số cán bộ các ngành ở Trung ương và địa phương nhất trí thông qua.
Đảng bộ 3 tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp đã chủ trương phục hóa, khai hoang vùng Đồng Tháp Mười nhằm tạo ra nguồn lương thực lớn để xóa đói cho nhân dân và giải quyết vấn đề lương thực chung của cả nước Tuy nhiên, sản lượng lương thực thu được không đạt yêu cầu, trong khi nguồn vốn và vật tư từ nhà nước ngày càng giảm Do đó, các tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu phương hướng khai thác phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, nhằm đạt hiệu quả kinh tế tốt nhất cho từng tỉnh.
Thời kỳ này, vùng Đồng Tháp Mười đối mặt với vấn đề nghiêm trọng về xử lý đất phèn, khi nhiều tuyến kênh chưa hoàn chỉnh và nguồn nước ngọt chưa đủ Các chuyên gia quốc tế đã chỉ ra rằng việc can thiệp vào đất phèn là rất khó khăn, như Tiến sĩ Melforw từ Hà Lan đã tiết lộ rằng xử lý một héc-ta đất phèn tốn tới một triệu USD Năm 1981, các giáo sư Liên Xô cũng đã khẳng định đất phèn ở đây không thể trồng lúa Mặc dù tỉnh Đồng Tháp đã có những nỗ lực cải tạo và thành lập các tập đoàn sản xuất, diện tích hoang hóa vẫn lên tới 320.000ha, trong khi năng suất lúa bình quân giảm từ 2,33 tấn/ha (1976) xuống 2,03 tấn/ha (1980) Đến năm 1981, tỉnh Đồng Tháp đã triển khai đề án nghiên cứu về địa chất và thổ nhưỡng để khai thác hiệu quả vùng Đồng Tháp Mười, mời nhiều chuyên gia trong và ngoài nước tham gia phân tích các yếu tố liên quan đến đất đai và khí hậu.
Vào cuối tháng 9/1981, Chính phủ tổ chức hội nghị khoa học về lương thực tại Long An, phân chia Đồng bằng sông Cửu Long thành 6 vùng để nghiên cứu và khai thác Vùng Đồng Tháp Mười được xếp thứ 6, với định hướng phát triển tập trung vào những vùng đất phì nhiêu, tiếp theo là vùng U Minh Hội nghị thống nhất rằng Đồng Tháp Mười không chỉ giới hạn trong việc trồng lúa mà còn cần phát triển đa dạng các hướng khác.
Trong giai đoạn 1980-1981, các Ty Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Công nghiệp và Ủy ban kế hoạch Nhà nước đã tiến hành nghiên cứu khai thác và xây dựng, nhưng chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu thực trạng địa chất và thổ nhưỡng, đặc biệt là vấn đề đất phèn Các đề án và bản quy hoạch chủ yếu nhằm xác định nguyên nhân và yếu tố liên quan đến đất phèn để bố trí cây trồng và vật nuôi phù hợp với từng vùng Tuy nhiên, chưa có phương pháp xử lý và cải tạo đất phèn một cách cơ bản cho diện tích 164.280ha của vùng Đồng Tháp Mười, nhằm biến nơi đây thành vùng đất ít tốn kém hơn.
Vào năm 1981, với tinh thần “Tiến công vào Đồng Tháp Mười”, ba tỉnh đã đề ra chương trình cụ thể để khai thác vùng Đồng Tháp Mười Tỉnh Đồng Tháp đã trình bày đề án “Phương hướng khai thác vùng Đồng Tháp Mười phần thuộc tỉnh Đồng Tháp” tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I (1977), xác định nhiệm vụ phát triển thủy lợi, nông nghiệp, hoa màu, cây công nghiệp, chăn nuôi và nghề cá nhằm đảm bảo an ninh lương thực và cải thiện đời sống nhân dân (Văn phòng Tỉnh ủy Đồng Tháp, 1985) Từ 1977 đến 1985, tỉnh Đồng Tháp đã mobilized 40.388 người tham gia khai phá và phát triển nông nghiệp, trong đó lực lượng chủ yếu là thanh niên xung phong và quân đội, đồng thời đã khai hoang được 44.479 ha, trong đó giai đoạn 1981 – 1985 là 14.702 ha và thành lập 872 tập đoàn.
Tiền Giang đang triển khai chương trình “Khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng vùng lúa 2 vụ, cải tạo vùng lúa nổi” Năm 1978, Đảng bộ tỉnh Tiền Giang đã ra Nghị quyết khai thác vùng Đồng Tháp Mười Ủy ban nhân dân tỉnh đã cụ thể hóa chủ trương của Tỉnh ủy, nhấn mạnh rằng để khai hoang hiệu quả vùng Đồng Tháp Mười, cần giải quyết ba yếu tố quan trọng: có nước ngọt để rửa phèn, có lũ để tháo chua, và có phù sa để bồi bổ đất ngăn mặn.
Trong giai đoạn 1978 – 1980, tỉnh Tiền Giang đã thực hiện nhiều chủ trương quan trọng, bao gồm việc vận động nhân dân trở về quê để phục hồi ruộng vườn và phát triển sản xuất Phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” cùng với “Trung ương và địa phương cùng lo” đã mang lại kết quả đáng kể, như việc sắp xếp lại dân cư cho 4.500 hộ với 17.000 nhân khẩu, góp phần hình thành 2 xã mới là Mỹ Tân và Tân Hòa Tây Những nỗ lực và kinh nghiệm của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang trong việc khai thác vùng Đồng Tháp Mười đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong tình hình kinh tế xã hội của khu vực này trong 10 năm đầu sau giải phóng.
Long An đang triển khai “Chương trình lấp kín Đồng Tháp Mười” nhằm khai thác tiềm năng của vùng đất phèn chiếm 69,8% diện tích Với quyết tâm “đánh thức vùng đất chết”, tỉnh đã xác định đây là chương trình trọng điểm cần đầu tư tài chính lớn Để thực hiện, Long An tập trung vốn xây dựng cơ sở hạ tầng cho các huyện mới, bao gồm đường giao thông, thủy lợi, và hệ thống tiêu úng, đồng thời đẩy mạnh thâm canh lúa Ngoài ngân sách tỉnh, nguồn vốn kinh tế mới cũng được huy động để cải tạo đất và đào kênh Từ năm 1976 đến 1986, đã có 4.628 hộ di dân vào Đồng Tháp Mười, góp phần nâng dân số vùng lên 1.296.000 người Long An cũng đã thành lập nhiều đoàn kinh tế và xây dựng kinh tế thanh niên để hỗ trợ cho quá trình này.
Tính đến năm 1987, mật độ dân số trung bình đạt 206 người/km², với Long An có 90 người/km², Đồng Tháp 280 người/km² và Tiền Giang 406 người/km² Diện tích đất hoang hóa đã giảm từ 334.268 ha vào năm 1976 xuống còn 153.000 ha vào năm 1987, cho thấy đã khai hoang được 191.268 ha trong vòng 12 năm (Ngô Văn Bé, 2006, tr.137-138).
Phương án xác định quy mô vùng Đồng Tháp Mười là 113.600ha, chiếm gần 50% diện tích toàn vùng Đến năm 1982, khu vực này đã xây dựng được 27 nông trường quốc doanh Các nông trường chủ yếu tập trung vào trồng lúa mùa trong ngắn hạn, với mục tiêu lâu dài là trồng lúa Đông Xuân, bên cạnh việc phát triển một số cây nông nghiệp hàng năm và chăn nuôi gia cầm.
Các tỉnh đang xem xét lại quy hoạch và triển khai “Vùng lúa Tháp Mười” do nhận thấy phương án hiện tại không hợp lý và hiệu quả thấp Dựa trên tinh thần tự chủ và kinh nghiệm tích lũy, các tỉnh cần nghiên cứu lại phương hướng khai thác vùng Đồng Tháp Mười để đạt hiệu quả cao nhất.