Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là hoạt động của Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định Luận văn tập trung làm rõ quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức và các hoạt động của Ủy ban này cho đến khi bàn giao nhiệm vụ cho Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn nghiên cứu và phân tích chính quyền quân quản ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954 – 1957, nhằm tìm hiểu tính chất và hoạt động của chính quyền này Bên cạnh đó, bài viết cũng so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai chính quyền quân quản được thành lập vào năm 1954 và 1975.
Về phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian của Thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định vào năm 1975 gần như tương đương với phạm vi hiện tại của thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài nghiên cứu này tập trung vào khoảng thời gian từ năm 1975, khi Trung ương Cục miền Nam ban hành các quyết định và nghị quyết nhằm thực hiện nhiệm vụ quân quản, cho đến tháng
Vào năm 1976, Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định đã chính thức chuyển giao công việc cho Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu sự kết thúc của chính quyền quân quản tại Sài Gòn – Gia Định.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện đề tài “Hoạt động của Ủy ban Quân quản Sài Gòn –
Gia Định (1975 – 1976)”, tác giả hướng đến các mục tiêu sau:
1 Thời điểm năm 1975, huyện Duyên Hải (nay là huyện Cần Giờ) thuộc tỉnh Biên Hòa Đến tháng
12 năm 1978, huyện Duyên Hải mới được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh
Chính quyền quân quản tại Sài Gòn – Gia Định sau ngày giải phóng có tính chất đặc biệt, nhằm đảm bảo an ninh trật tự và ổn định xã hội Đặc điểm của chính quyền này là sự can thiệp trực tiếp của quân đội vào các hoạt động quản lý nhà nước, nhằm nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế địa phương Việc thực hiện chính quyền quân quản là cần thiết để ngăn chặn những rối loạn có thể xảy ra, đồng thời tạo điều kiện cho việc chuyển giao quyền lực và xây dựng chính quyền mới.
Bài viết này tập trung vào việc phục dựng một cách hệ thống và toàn diện bối cảnh ra đời cũng như cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định.
Ủy ban Quân quản đã thực hiện nhiều hoạt động quan trọng trong các lĩnh vực tiếp quản, xây dựng và bảo vệ chính quyền, ổn định đời sống nhân dân, cũng như giải quyết hậu quả chiến tranh Bài viết sẽ phân tích những thành tựu và thách thức mà Ủy ban đã gặp phải, đồng thời làm rõ vai trò của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định trong việc bảo vệ và xây dựng chính quyền trong suốt quá trình hoạt động của tổ chức này.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã xác định hai phương pháp chính để triển khai đề tài, bao gồm phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử được áp dụng để nghiên cứu diễn biến cuộc chiến tranh Việt Nam từ năm 1973 đến 1975, đồng thời làm rõ quá trình chuẩn bị thành lập, hoạt động và kết thúc sứ mệnh của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định.
Phương pháp logic được áp dụng trong nghiên cứu nhằm phân tích và đánh giá các vấn đề đã xác định trong mục tiêu nghiên cứu Qua đó, bài viết sẽ làm rõ những đóng góp của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định trong suốt 8 tháng hoạt động.
Luận văn áp dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh để khám phá những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai chính quyền quân quản trong giai đoạn 1954 và 1975.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong giai đoạn 1975 – 1976, hoạt động của Ủy ban Quân quản tại Sài Gòn – Gia Định và Nam Bộ đã được ghi chép trong nhiều tài liệu lịch sử về lực lượng vũ trang nhân dân và Đảng bộ TP Hồ Chí Minh Những tài liệu này phản ánh chủ trương của Trung ương Đảng về việc thành lập và hoạt động của ủy ban quân quản tại các địa phương, cũng như bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị và quân sự sau ngày giải phóng miền Nam Một số công trình tiêu biểu đã làm rõ những vấn đề này.
Cuốn sách "Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961 – 1976)" do Hồ Sơn Đài biên soạn, xuất bản năm 2004 bởi Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trình bày hệ thống và đầy đủ hoạt động của Quân ủy – Bộ Chỉ huy Miền, cơ quan chủ chốt trong quân sự của Quân giải phóng tại chiến trường B2 Tác phẩm mang đến cái nhìn tổng quan về bối cảnh lịch sử và sự chỉ đạo của Trung ương Cục cùng Quân ủy Miền đối với các lực lượng vũ trang trong công tác quân quản và bảo vệ thành quả cách mạng sau ngày giải phóng, với trọng tâm là các hoạt động chỉ đạo và chỉ huy của Quân ủy.
Bộ Chỉ huy Miền đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo lực lượng vũ trang tại các tỉnh, thành ở Nam Bộ, mà không tập trung vào hoạt động của hệ thống ủy ban quân quản ở các cấp.
Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) từ năm 1974 đến 2004, do Hồ Sơn Đài chủ biên và xuất bản bởi nhà xuất bản Quân đội nhân dân, mô tả các hoạt động của Quân đoàn 4, một trong những lực lượng chủ lực trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 nhằm giải phóng Sài Gòn Sau chiến dịch thành công, Quân đoàn 4 tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ quân quản, duy trì trật tự an ninh và bảo vệ các cơ sở kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự cũng như các tuyến giao thông tại Sài Gòn.
Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945 – 2010) do Hồ Sơn Đài chủ biên, xuất bản năm 2010, cung cấp cái nhìn tổng quát về hoạt động của lực lượng vũ trang tại miền Đông Nam Bộ qua các thời kỳ Tác phẩm đặc biệt nhấn mạnh giai đoạn quân quản sau ngày giải phóng miền Nam, nêu rõ chủ trương thành lập và nhiệm vụ của ủy ban quân quản tại các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là tại thành phố Sài Gòn - Gia Định Ngoài ra, tác phẩm cũng đề cập đến việc tiếp quản các căn cứ quân sự của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và các hoạt động truy quét tàn quân nhằm bảo vệ chính quyền cách mạng trong khu vực Quân khu 7.
Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, tập II (1954 – 1975), được xuất bản bởi nhà xuất bản Chính trị quốc gia vào năm 2010, là một công trình nghiên cứu sâu sắc về quá trình kháng chiến của nhân dân Nam Bộ, đặc biệt là Sài Gòn – Gia Định Tác phẩm này cung cấp cái nhìn tổng quan về bối cảnh và các hoạt động của quân và dân Sài Gòn – Gia Định từ sau Hiệp định Paris cho đến khi chiến dịch Hồ Chí Minh đạt được thắng lợi hoàn toàn.
Lịch sử lực lượng võ trang thành phố Hồ Chí Minh (1945 – 2015), Trần Phấn
Tác phẩm do Chấn chủ biên, nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành năm 2015, ghi lại đầy đủ các hoạt động của lực lượng vũ trang Thành phố Sài Gòn – Gia Định trong giai đoạn 1975 – 1976 Nội dung chính của tác phẩm tập trung vào việc truy quét tàn quân Việt Nam Cộng hòa, trấn áp các lực lượng chống đối nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, cùng với việc xây dựng lực lượng quần chúng và tham gia lao động sản xuất để tự túc lương thực, thực phẩm Tuy nhiên, tác phẩm chủ yếu nhấn mạnh các hoạt động của lực lượng vũ trang thành phố và chưa phản ánh đầy đủ các hoạt động của hệ thống ủy ban quân quản các cấp.
Dinh Độc Lập lịch sử và biến động, Hồ Sơn Đài chủ biên, nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia Sự thật, xuất bản năm 2018, khám phá các hoạt động chủ yếu của Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định tại Dinh Độc Lập, nơi đã trở thành trụ sở chính của Ủy ban này sau khi Dương Văn Minh đầu hàng.
Tác phẩm này tập trung vào lịch sử của Dinh Độc Lập, đặc biệt là các sự kiện quan trọng liên quan đến địa danh này, bao gồm Hội nghị Hiệp thương thống nhất đất nước diễn ra vào tháng 11 năm 1975 tại Dinh Độc Lập.
Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969 – 1976),
Nguyễn Đình Thống chủ biên, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm
Bài viết năm 2019 cung cấp một cái nhìn tổng quát và chi tiết về các chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn 1975 Đây là thời điểm quan trọng khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc và Chính phủ cách mạng thực hiện nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo hệ thống chính quyền quân quản ở miền Nam, nhằm xây dựng chính quyền cách mạng và tiến tới thống nhất đất nước.
Cuốn sách "Giải phóng" của Tiziano Terzani, do Viện Nghiên cứu Phát triển Phương Đông chi nhánh Hà Nội biên soạn và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phát hành năm 2019, ghi lại những trải nghiệm của tác giả, một nhà báo người Ý, trong những ngày cuối cùng trước khi Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975 Tiziano đã quyết định ở lại thành phố, trở thành nhân chứng cho sự kiện lịch sử này và mô tả bầu không khí tại Sài Gòn trong ba tháng đầu dưới chế độ quân quản Tác phẩm mang đến cái nhìn sâu sắc về xã hội Sài Gòn thời điểm đó từ góc độ của một người quan sát, cung cấp nhiều thông tin quý giá về sự kiện lịch sử.
Ngoài các công trình đã đề cập, còn nhiều tài liệu liên quan đến lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh và các quận huyện Tuy nhiên, hoạt động của ủy ban quân quản chỉ được nêu ra trong bối cảnh chung mà chưa làm rõ mục đích và ý nghĩa của việc thành lập ủy ban này Đặc biệt, các hoạt động của ủy ban quân quản tại Sài Gòn – Gia Định đã góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình thành phố sau ngày giải phóng cho đến khi chuyển giao cho Ủy ban nhân dân cách mạng Những tư liệu và đánh giá từ các công trình trước đó cung cấp cơ sở khoa học để tác giả hoàn thiện đề tài "Hoạt động của Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định (1975 – 1976)".
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài gồm các nội dung chính sau đây:
Chương một: Những vấn đề chung về chính quyền quân quản và đặc điểm chiến trường Sài Gòn – Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)
Chương hai: Quá trình thành lập Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định Chương ba: Hoạt động của chính quyền Quân quản tại Sài Gòn – Gia Định
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH QUYỀN QUÂN QUẢN VÀ ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRƯỜNG SÀI GÒN – GIA ĐỊNH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954 – 1975)
Những vấn đề chung về chính quyền quân quản
1.1.1 Khái niệm về quân quản và chính quyền quân quản
Hòa bình và chiến tranh là hai trạng thái đối lập trong xã hội, với giai đoạn chuyển tiếp khi một quốc gia rơi vào tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, dẫn đến việc thi hành thiết quân luật Thiết quân luật mở rộng quyền hạn của các tổ chức quân sự sang lĩnh vực dân sự, cho phép họ quản lý nhà nước về quốc phòng nhằm bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia Nhiều quốc gia đã áp dụng thiết quân luật để xử lý kịp thời các tình huống khẩn cấp, giữ vững an ninh chính trị và ngăn ngừa nội chiến Khi tình hình an ninh tại địa phương bị đe dọa nghiêm trọng và chính quyền dân sự không đủ khả năng quản lý, việc thành lập ủy ban quân quản và áp dụng biện pháp đặc biệt là cần thiết để ổn định tình hình.
Theo Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (2004):
Quân quản là hình thức tổ chức và quản lý xã hội tạm thời theo quy chế quân sự tại các khu vực mới chiếm, như thành phố và trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng Hệ thống cơ quan quân quản, bao gồm các ủy ban quân quản, thay thế cho chính quyền địa phương trong việc điều hành và quản lý toàn bộ công việc của khu vực.
Chế độ quân quản là quy chế quân sự nhằm quản lý các khu vực mới chiếm được của đối phương, thường áp dụng tại các thành phố và trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng trong thời gian chiến tranh hoặc ngay sau khi chiến tranh kết thúc Hệ thống cơ quan quân quản (ủy ban quân quản) thay thế chính quyền cũ để điều hành mọi hoạt động trong khu vực Thời gian duy trì chế độ quân quản phụ thuộc vào tình hình cụ thể và mục đích của lực lượng chiếm đóng, với tính chất tiến bộ hay phản động dựa trên bản chất của lực lượng này Tại Việt Nam, chế độ quân quản đã được thực hiện ngắn hạn ở một số địa phương như Hà Nội, Hải Phòng vào năm 1954 và Sài Gòn, Huế vào năm 1975.
Nguyễn Cửu Việt (2010) cho rằng chính quyền quân quản là một mô hình tổ chức chính quyền địa phương tập quyền, phổ biến ở nhiều quốc gia Trong lịch sử hiện đại, chính quyền quân quản thường xuất hiện trong giai đoạn chuyển tiếp ở các nước mới giải phóng, chờ thành lập chính quyền mới Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, mô hình này lan rộng khắp châu Âu và cũng đã xuất hiện ở một số nước đang phát triển, như ở châu Phi Tại Myanma, chính quyền quân quản đã kéo dài nhiều năm cho đến gần đây, trong khi ở Thái Lan, mô hình này tồn tại đến năm 2019 sau cuộc đảo chính năm 2014, trước khi chính phủ mới được thành lập.
Chính quyền quân quản là một hình thức tổ chức hành chính nhà nước do cơ quan quân sự điều hành, nhằm đảm bảo trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia Loại chính quyền này thường xuất hiện trong giai đoạn chuyển tiếp từ chiến tranh sang hòa bình hoặc khi có bất ổn xã hội mà chính quyền dân sự không giải quyết được Thời gian tồn tại của chính quyền quân sự phụ thuộc vào mức độ ổn định xã hội của mỗi quốc gia trong thời điểm đó.
Việt Nam hiện đại chứng kiến sự thiết lập chế độ quân quản bởi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc vào năm 1954 và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Nam vào năm 1975 Đây là giai đoạn đánh dấu sự kết thúc của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc.
Mỹ xâm lược, đưa đất nước chuyển trạng thái từ chiến tranh sang hòa bình
1.1.2 Chế độ quân quản ở Việt Nam năm 1954
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954, với điểm nhấn là chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, đã buộc Chính phủ Pháp ký Hiệp định Genève, chấm dứt chiến tranh và khôi phục hòa bình tại Đông Dương vào ngày 20 tháng 7 năm 1954 Hiệp định này công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia, đồng thời yêu cầu rút quân đội nước ngoài và tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước Để chuẩn bị cho việc tiếp quản chính quyền, ngày 3 tháng 7 năm 1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị về việc bảo hộ các thành phố mới giải phóng, nhấn mạnh phương châm giữ gìn, ổn định và phát triển các thành phố nhằm hỗ trợ kháng chiến và thúc đẩy kinh tế vùng tự do, không áp dụng phương châm tiêu thổ hay phá hoại.
Theo chỉ thị này, chính sách của Đảng đối với các thành phố mới thu hồi tập trung vào các điểm chính sau đây:
1 Ổn định lòng dân: Tuyên truyền cho nhân dân hiểu vì sao địch phải rút quân, nhấn mạnh đó là một thắng lợi của ta, làm cho mọi người tin tưởng vào chính phủ và quân đội ta
2 Phục hồi trật tự cách mạng: Trước hết phải phục hồi các nhà máy đèn, máy nước, ty bưu điện và các việc công cộng khác trong thành phố (chú ý công tác vệ sinh công cộng)
3 Đối với những nhân viên của địch, ngụy: Giao nhiệm vụ cho các nhân viên của nguỵ quyền cũ, cảnh sát cũ giữ nguyên chức vụ của họ, kêu gọi họ phục tùng mệnh lệnh của Chính phủ dân chủ cộng hòa mà đại diện tại chỗ là Ủy ban quân chính, phụ trách giữ gìn các tài liệu, hồ sơ, vật liệu, của cải của các cơ quan để cho việc tiếp nhận, xử lý và tuyển dụng Ta chỉ tập trung lực lượng đánh vào những tên hiện đang hoạt động chống cách mạng, chống kháng chiến
4 Thu đổi và bài trừ tiền địch và tiền bù nhìn: Trong một thời gian sẽ thi hành phương pháp đặt một tỷ giá nhất định giữa tiền ta và tiền địch để thu đổi, làm cho tiền địch dần dần sụt giá, tiền Việt Nam hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường, hoàn toàn quét sạch tiền địch và tiền bù nhìn
5 Khôi phục các nghề nghiệp và công ăn việc làm cho mọi người: Sau khi trật tự đã tương đối ổn định, phải tổ chức nhanh chóng và cụ thể việc khôi phục các nghề nghiệp, khôi phục công ăn việc làm, mở lại trường học và giải quyết cho ổn vấn đề lương bổng của các công chức và giáo viên
6 Tạm thời chưa thay đổi chế độ giáo dục và chương trình giáo dục: Sau khi mở lại trường học, chế độ giáo dục, chương trình, tài liệu giáo khoa tạm thời không thay đổi, chỉ xoá bỏ những bài mục phản động
7 Bảo hộ tự do tín ngưỡng: Bảo hộ tự do tín ngưỡng của các tôn giáo, không xâm phạm đến tài sản, công trình kiến trúc của các tôn giáo và bảo hộ tính mạng, tài sản của những người tu hành
8 Bảo hộ tính mạng, tài sản của ngoại kiều: Bảo hộ tính mạng, tài sản của kiều dân ngoại quốc (gồm cả kiều dân Pháp), nhưng đối với bọn không tuân theo pháp luật của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hiện đang tiến hành hoạt động chống cách mạng và kháng chiến, đều phải trừng trị theo pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ĐCS, 2001, tr 147-150)
Đặc điểm chiến trường Sài Gòn – Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)
1.2.1 Khái niệm, phạm vi chiến trường Sài Gòn – Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ
Theo định nghĩa của Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (2004):
Chiến trường là nơi diễn ra xung đột vũ trang giữa các bên tham chiến, có thể ở trên bộ, trên biển, trên không, hoặc ở nhiều khu vực của một hoặc nhiều quốc gia Tùy thuộc vào quy mô và vai trò, chiến trường có thể được phân loại thành chiến trường chiến tranh và chiến trường tác chiến, cũng như chiến trường trong nước và quốc tế Luật quốc tế ngày càng thu hẹp phạm vi chiến tranh, cấm các bên xung đột biến khu vực thuộc quốc gia trung lập thành chiến trường.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Quân ủy Trung ương đã phân chia miền Nam và miền Bắc thành các chiến trường khác nhau Chiến trường A bao gồm miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc, trong khi chiến trường B bao gồm miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào Năm 1961, chiến trường B được chia thành B1 (các tỉnh thuộc Liên khu 5) và B2 (các tỉnh thuộc Nam bộ và cực Nam Trung bộ) Năm 1964, chiến trường B3 được thành lập tại mặt trận Tây Nguyên, tiếp theo là B4 (Quân khu Trị-Thiên) và B5 (mặt trận đường 9 – Nam Lào) vào năm 1966.
Sài Gòn – Gia Định, nằm ở miền Đông Nam Bộ, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong chiến trường B2, là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và là đại bản doanh của Mỹ cùng các đồng minh Khu vực này được coi là hậu cứ an toàn cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa Đồng thời, Sài Gòn – Gia Định cũng là tên gọi chung cho Đô Thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định dưới chế độ này Các căn cứ kháng chiến tại Sài Gòn – Gia Định đã trở thành điểm tựa cho phong trào đấu tranh cách mạng, góp phần vào những thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 143-NV để thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ ở miền Nam Theo đó, đổi tên Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn Toàn Đô thành chia thành 7 quận, dưới quận là các phường, dưới phường là các khóm Đến ngày 27 tháng 3 năm 1959, bằng Nghị định số 110-NV của Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa đã chia Đô thành Sài Gòn thành 8 quận, và theo nghị định số 504-BNV/NC/8 ngày 22 tháng 04 năm 1959, 8 quận này tiếp tục được phân chia thành 41 phường trực thuộc (Trần Văn Giàu & Trần Bạch Đằng cb, 1987, tr 230-231)
Theo sắc lệnh số 227/QP ngày 9 tháng 12 năm 1965, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã phân chia lãnh thổ thành 4 vùng chiến thuật, trong đó Đô thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định và Đặc khu Côn Sơn được đặt dưới sự bảo vệ của Quân khu Thủ đô Sau đó, Việt Nam Cộng hòa thực hiện một số điều chỉnh về địa giới hành chính của Đô thành Sài Gòn, khiến cho Sài Gòn gồm 11 quận, với diện tích khoảng 71 km² và dân số khoảng.
Vào ngày 30 tháng 08 năm 1957, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tách ba tổng Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung và Long Tuy Hạ của quận Hóc Môn để thành lập quận Củ Chi thuộc tỉnh Bình Dương Đến cuối năm 1962, tỉnh Gia Định có 6 quận và 11 tổng Ngày 17 tháng 11 năm 1965, hai quận Quảng Xuyên và Cần Giờ được chuyển từ tỉnh Biên Hòa về Gia Định Từ năm 1972, tỉnh Gia Định bao gồm Đô thành Sài Gòn với diện tích 1.499 km² và dân số 1.282.033 người, được chia thành 8 quận và 73 xã.
Để phù hợp với tình hình mới trong chỉ đạo cách mạng, Xứ ủy Nam bộ đã điều chỉnh tổ chức hành chính - quân sự Vào tháng 9 năm 1954, Xứ ủy đã thành lập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, trước đó được gọi là Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, do Trung ương Cục miền Nam thành lập vào tháng 8 năm 1954.
Vào năm 1950, khu vực Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn thuộc về địa giới hành chính của Quốc gia Việt Nam Đến cuối năm 1959 và đầu năm 1960, Xứ ủy Nam bộ đã quyết định sáp nhập tỉnh Gia Định vào Khu Sài Gòn – Chợ Lớn, và đổi tên thành Khu Sài Gòn – Gia Định.
Tháng 5 năm 1961, Quân khu Sài Gòn – Gia Định cũng được thành lập Từ tháng
Từ năm 1967 đến tháng 8 năm 1968, Trung ương Cục miền Nam đã thành lập Khu trọng điểm, bao gồm Khu Sài Gòn – Gia Định và các vùng phụ cận, được chia thành 6 Phân khu Sau Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, khu vực này được tổ chức lại và đổi tên thành Thành phố Sài Gòn – Gia Định, bao gồm nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn cùng các quận, huyện vùng ven như Củ Chi, Nhà Bè, Bình Chánh, Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn và Thủ Đức Địa giới của khu vực này cơ bản giữ nguyên so với thời kỳ trước.
1960 - 1967 Giai đoạn 1968 - 1975, tổ chức chiến trường ở Sài Gòn – Gia Định về cơ bản không có gì thay đổi thêm (Nguyễn Thị Phượng, 2019, tr 33-34)
Như vậy, Sài Gòn - Gia Định là vùng chiến trường tương ứng với phần lớn diện tích của Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay
1.2.2 Đặc điểm chiến trường Sài Gòn – Gia Định
Chiến trường Sài Gòn – Gia Định nằm ở vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, với địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây Vùng cao chủ yếu ở phía Bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, có độ cao trung bình 10-25 m, xen kẽ những đồi gò cao tới 32 m như đồi Long Bình Ngược lại, vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và Đông Nam thành phố có độ cao trung bình dưới 1m, cao nhất 2m Vùng trung bình, bao gồm khu vực trung tâm thành phố và các quận 2, Thủ Đức, quận 12, cùng huyện Hóc Môn, có độ cao trung bình 5-10 m Tổng thể, thành phố Sài Gòn – Gia Định nằm ở vị trí trung tâm giữa đồng bằng Sông Cửu Long và các vùng lân cận.
Khu vực Gia Định, bao phủ phần lớn vùng bán bình nguyên phía bắc và đông bắc Sài Gòn, nổi bật với những cánh rừng nguyên sinh đa dạng về thảm thực vật và động vật đặc trưng của miền Châu Á nhiệt đới Phía đông nam Sài Gòn, gần biển, là khu rừng ngập mặn phong phú Bên cạnh đó, khu vực này còn có các trảng cây thấp như dầu, ngành ngạnh, le, khộp, cùng với một diện tích cao su lớn ở phía bắc Rừng miền Đông, mặc dù không dày đặc, nhưng kéo dài liên tục từ phía bắc Tây Ninh và sông.
Bé cũ nằm dọc biên giới Campuchia và gần vùng ven biển Đông, được bảo vệ bởi dãy Trường Sơn Từ các căn cứ như Dương Minh Châu và Chiến khu Đ, lực lượng có thể nhanh chóng tiến vào trung tâm Sài Gòn với thế trận vững chắc và liên hoàn.
"Căn cứ lòng dân" trong nội đô là một hệ thống căn cứ lõm với địa hình thiên nhiên đa dạng, tạo điều kiện tiếp cận Thành phố Những "căn cứ vệ tinh" và lõm du kích này hình thành thế trận bao vây, áp sát Sài Gòn, bao gồm các khu vực như đồn điền cao su, Rừng Sác, rừng Bời Lời, Củ Chi, tam giác An Điền - An Tây - An Thành, cùng với các lõm rừng Hắc Dịch và Bưng Sáu Xã quận.
9, lòng chảo Nhơn Trạch, Vườn Thơm Bà Vụ những vườn cây ăn trái của Bình Chánh, Thạnh Lộc, An Phú Đông (BTL TP.HCM, 2015, tr 13)
Thành phố Sài Gòn - Gia Định, tọa lạc ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, nổi bật với mạng lưới sông ngòi và kênh rạch phong phú Sông Ðồng Nai, bắt nguồn từ cao nguyên Langbiang (Ðà Lạt), kết hợp với nhiều dòng sông khác, tạo nên một hệ thống thủy văn đa dạng và phong phú.
QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ỦY BAN QUÂN QUẢN SÀI GÒN –
Bối cảnh thành lập hệ thống ủy ban quân quản ở miền Nam
2.1.1 Tình hình miền Nam từ sau Hiệp định Paris đến trước chiến dịch
Sau Hiệp định Paris năm 1973, miền Nam Việt Nam xuất hiện hai vùng kiểm soát với hai quân đội và hai chính quyền khác nhau Lực lượng vũ trang cách mạng đã duy trì sự hiện diện vững chắc tại các khu vực chiến lược quan trọng, đồng thời nâng cao uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trên trường quốc tế.
Báo cáo trước Quốc hội ngày 24 tháng 12 năm 1974, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết:
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa không chỉ không thực thi nghiêm túc Hiệp định Paris mà còn tiến hành nhiều hoạt động phá hoại, với quân đội Sài Gòn liên tục thực hiện các cuộc hành quân lấn chiếm Họ triển khai kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” để tiếp tục cuộc chiến tranh ở miền Nam, coi các xã ấp là địa bàn chiến tranh chính Mục tiêu của họ là “bình định” nhằm tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Việt Cộng, củng cố vùng kiểm soát và lấn chiếm các khu vực giải phóng Đồng thời, họ thực hiện bao vây kinh tế, cho không quân và biệt kích hoạt động sâu vào vùng giải phóng để làm suy yếu lực lượng cách mạng, với mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ hoàn toàn các vùng giải phóng và duy trì một chính quyền và quân đội duy nhất tại miền Nam.
Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đã công bố “Chính sách và chương trình tái thiết và phát triển quốc gia”, nhằm phủ nhận các thỏa thuận đã ký kết tại Paris Kế hoạch phát triển quốc gia giai đoạn 1973 – 1980 đã được hình thành và vào ngày 20 tháng 5 năm 1973, Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố chương trình này.
Quá trình "tái thiết và phát triển quốc gia" diễn ra từ năm 1973 đến 1980, chia thành ba giai đoạn chính Giai đoạn 1973 - 1974 tập trung vào việc bình thường hóa đời sống và phục hồi các hoạt động sản xuất Tiếp theo, giai đoạn 1975 - 1976 nhằm củng cố và nâng cao nhịp độ phát triển kinh tế quốc gia Cuối cùng, từ 1977 đến 1980, nền kinh tế đạt trạng thái phát triển tự lực Để thực hiện chương trình này, "Hội đồng chỉ đạo phục hồi, tái thiết và phát triển quốc gia" ước tính cần nhiều ngoại viện để hỗ trợ cho công cuộc tái thiết trong giai đoạn hậu chiến, với nhu cầu ngoại viện thuần tăng từ 573 triệu SDR năm 1974 lên 626 triệu SDR năm 1983, và giảm xuống 374 triệu SDR vào năm 1990.
Sau vụ bê bối Watergate, tình hình chính trị Mỹ trở nên tồi tệ, buộc Tổng thống Richard Nixon phải từ chức Đồng thời, viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa cũng giảm mạnh, từ 1.614 triệu USD trong năm 1972-1973 xuống còn 1.026 triệu USD.
1973-1974 và 701 triệu USD năm 1974-1975 (Hồ Sĩ Khoách cb, 1998, tr.275)
SDR, hay Quyền rút vốn đặc biệt, là một loại tiền dự trữ quốc tế do Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) thiết lập vào năm 1969 Thông qua SDR, các quốc gia thành viên có khả năng tăng cường dự trữ ngoại hối của mình, cho phép họ vay mượn hoặc trao đổi với các quốc gia khác để nhận "ngoại tệ tự do sử dụng", phục vụ cho nhu cầu dự trữ ngoại hối quốc gia.
Vụ bê bối chính trị nổi tiếng liên quan đến Tổng thống Mỹ Richard Nixon diễn ra vào năm 1972, khi ông bị phát hiện nghe lén đối thủ Sự việc này đã được tờ Washington Post phanh phui và dẫn đến việc Nixon buộc phải từ chức vào năm 1974.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cam kết nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định Paris, đồng thời đấu tranh buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng phải tuân thủ Họ chủ trương hòa bình, độc lập, dân chủ, hòa giải và hòa hợp dân tộc, nhưng cũng kiên quyết trừng trị những hành động chiến tranh từ quân đội Sài Gòn.
Vẫn theo báo cáo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1974):
Với tinh thần tự kiềm chế, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã chủ trương đánh trả địch tại những khu vực chúng lấn chiếm Những nơi thực hiện nghiêm túc chủ trương này đã giữ vững được vùng giải phóng và buộc địch phải lùi bước Ngược lại, ở những nơi chưa quán triệt đầy đủ, sự chần chừ trong việc phản công đã tạo điều kiện cho địch thực hiện ý đồ Trước tình hình chiến tranh của Mỹ - ngụy ngày càng nghiêm trọng, vào ngày 15 tháng 10 năm 1973, Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã ra lệnh kiên quyết trừng trị các hành động của địch, không chỉ ở những nơi chúng lấn chiếm mà còn tại các căn cứ xuất phát của chúng Quyền trừng trị được thực hiện linh hoạt, nhằm tiêu diệt lực lượng chủ lực của địch và phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương trong việc đánh phá các hoạt động "bình định".
Trong giai đoạn 1973 - 1974, quân Giải phóng và nhân dân miền Nam đã thành công trong việc đánh bại nhiều cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn, từ đó giữ vững và mở rộng vùng giải phóng Quân đội Sài Gòn buộc phải chuyển sang thế phòng ngự, co cụm về các khu đô thị và tuyến đường quan trọng Lực lượng vũ trang miền Nam không chỉ giữ quyền chủ động trên chiến trường mà còn thực hiện các chiến dịch lớn, giải phóng nhiều vùng đất rộng và đông dân, cả ở đồng bằng lẫn thành phố.
Đến cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam có nhiều chuyển biến tích cực cho lực lượng cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam Lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, với sự ra đời của các binh đoàn chủ lực đa dạng Mạng lưới đường vận tải chiến lược dài hơn 20.000km đã được thiết lập, đảm bảo vận chuyển lương thực, vũ khí và trang thiết bị cần thiết cho cuộc chiến Đồng thời, phong trào đấu tranh chính trị tại các đô thị miền Nam mạnh mẽ lên tiếng đòi hỏi lật đổ chế độ Nguyễn Văn Thiệu và kêu gọi hòa bình, độc lập, dân chủ và phát triển dân sinh.
Vào tháng 10 năm 1974 và tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp để xác định mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, với khả năng giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975 nếu có thời cơ Trong thời gian này, Quân Giải phóng miền Nam đã đạt nhiều thắng lợi lớn trong đợt hoạt động mùa khô 1974 – 1975 Đặc biệt, ngày 6 tháng 1 năm 1975, chiến dịch đường 14 Phước Long đã thành công, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, tỉnh đầu tiên ở miền Nam được giải phóng, chỉ cách Sài Gòn chưa đầy 100km, trong khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa không đủ khả năng tái chiếm.
Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) được thành lập vào ngày 24 tháng 10 năm 1973, tiếp theo là Quân đoàn 2 vào ngày 17 tháng 5 năm 1974, và Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) vào ngày 20 tháng 7 năm 1974 Cuối cùng, Quân đoàn 3 được thành lập vào ngày 27 tháng 3 năm 1975.
Nguyễn Văn Thiệu nhận định rằng việc tăng viện cho Phước Long cần phải lấy từ những nơi khác, nhưng các địa điểm này cũng đang bị cộng sản chuẩn bị tấn công vào năm 1975 Do đó, ông quyết định không tăng viện cho Phước Long hay cố gắng chiếm lại tỉnh này vì chi phí quá cao và không có quân dự bị cũng như máy bay Tướng Cao Văn Viên đã cảnh báo rằng đây là khởi đầu của một nguy cơ lớn, khi cộng sản đang hướng tới việc chinh phục miền Nam hoàn toàn bằng quân sự.
Nhà báo Tiziano Terzani (2019) cho rằng Nguyễn Văn Thiệu có thể đã để quận này thất thủ như một cách hăm dọa Mỹ, nhằm truyền đạt thông điệp rằng nếu không nhận được thêm viện trợ tài chính, tình hình sẽ trở nên tồi tệ Tuy nhiên, chiến thuật hăm dọa này của Thiệu đã không mang lại hiệu quả như mong đợi (tr 36-37).