1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu trong tiếng hàn, đối chiếu với tiếng việt (trên cứ liệu lời thoại phim truyền hình)

178 26 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 178
Dung lượng 4,64 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (9)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (10)
    • 2.1. Các nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu (10)
    • 2.2. Các nghiên cứu về hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu (15)
  • 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (17)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (18)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu (19)
  • 6. Điểm mới của luận án (21)
  • 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn (21)
  • 8. Bố cục luận án (22)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN (24)
    • 1.1. Các vấn đề về ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm (24)
      • 1.1.1. Ẩn dụ ý niệm và các loại ẩn dụ ý niệm (24)
      • 1.1.2. Hoán dụ ý niệm và mối quan hệ với ẩn dụ ý niệm (0)
    • 1.2. Các vấn đề về cảm xúc yêu (32)
      • 1.2.1. Khái niệm cảm xúc yêu (32)
      • 1.2.2. Phản ứng tâm sinh lý và cơ sở nghiệm thân của ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu (33)
    • 1.3. Ngôn ngữ phim truyền hình và ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm trong lời thoại . 27 1.4. Các vấn đề về dịch (0)
      • 1.4.1. Khái niệm dịch và dịch phụ đề (36)
      • 1.4.2. Dịch ẩn dụ, hoán dụ và các chiến lược dịch ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm 31 1.5. Tiểu kết (0)
  • CHƯƠNG 2: ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC YÊU TRONG TIẾNG HÀN ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT (46)
    • 2.1. Dẫn nhập (46)
    • 2.2. Các mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu trong tiếng Hàn đối chiếu với tiếng Việt (47)
      • 2.2.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn SỰ GẮN KẾT CỦA HAI VẬT THỂ . 39 2.2.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn CĂN BỆNH (47)
      • 2.2.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn CUỘC HÀNH TRÌNH (62)
      • 2.2.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn CUỘC CHIẾN (72)
      • 2.2.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn SỰ SỞ HỮU (82)
      • 2.2.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn VẬT CHỨA (88)
      • 2.2.7. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn VẬT THỂ (95)
      • 2.2.8. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn SỨC MẠNH (100)
    • 2.3. Tiểu kiết (105)
  • CHƯƠNG 3: HOÁN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC YÊU TRONG TIẾNG HÀN ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT (107)
    • 3.1. Dẫn nhập (107)
    • 3.2. Các mô hình hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu trong tiếng Hàn đối chiếu với tiếng Việt (108)
      • 3.2.1. Hoán dụ ý niệm dựa trên PHẢN ỨNG SINH LÝ (108)
      • 3.2.2. Hoán dụ ý niệm dựa trên PHẢN ỨNG BIỂU LỘ (114)
      • 3.2.3. Hoán dụ ý niệm dựa trên PHẢN ỨNG HÀNH VI (120)
    • 3.3. Hiện tượng giao thoa giữa hoán dụ ý niệm và ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu (131)
      • 3.3.1. Ẩn dụ từ hoán dụ (132)
      • 3.3.2. Hoán dụ trong ẩn dụ (135)
    • 3.4. Tiểu kết (140)
  • CHƯƠNG 4: ỨNG DỤNG TRONG DỊCH PHIM TRUYỀN HÌNH (141)
    • 4.1. Khảo sát dịch ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu trong phụ đề phim truyền hình Hàn Quốc (141)
      • 4.1.1. Phương pháp và ngữ liệu khảo sát (141)
      • 4.1.2. Kết quả khảo sát dịch ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm (143)
        • 4.1.2.1. Mô hình dịch M→M, P→P (143)
        • 4.1.2.2. Mô hình dịch M→M, P→P’ (148)
        • 4.1.2.3. Mô hình dịch M→M’, P→P’ (151)
        • 4.1.2.4. Mô hình dịch M→D (153)
        • 4.1.2.5. Mụ hỡnh dịch M→ỉ, P→ỉ (155)
    • 4.2. Đề xuất quy trình dịch các ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu trong (158)
      • 4.2.1. Nhận diện và phân tích ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm (158)
      • 4.2.2. Chọn mô hình dịch (160)
      • 4.2.3. Dịch và hoàn thiện bản dịch (162)
    • 4.3. Tiểu kết (163)
  • KẾT LUẬN (164)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (168)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Các nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu

Nghiên cứu về biểu đạt cảm xúc qua ngôn ngữ thường liên quan đến ngôn ngữ học tri nhận và được tiếp cận từ góc độ liên ngành, bao gồm các lĩnh vực như văn hóa học, tâm lý học và y học.

Các nghiên cứu về ADYN cảm xúc đã diễn ra sôi nổi từ những năm cuối thế kỷ 20, khi ngôn ngữ học tri nhận thu hút sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học Nhiều tác giả nổi bật như Lakoff & Johnson (1980), Lakoff & Kửvecses (1987), và Kửvecses (1986, 1988, 1990a, 1990b, 2000) đã có những đóng góp quan trọng Ngoài ra, Gibbs (1994), Urgerer, F & H Schmid (1996), Niemeier, S & R Dirven (1997), và Ning Yu (1998) cũng là những nghiên cứu đáng chú ý trong lĩnh vực này.

Mặc dù chưa đi sâu vào nghiên cứu cảm xúc, quan điểm của Lakoff & Johnson (1980) về ADYN đã đưa ra những ví dụ tiêu biểu liên quan đến cảm xúc, như hình ảnh "TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH" (LOVE IS A JOURNEY), giúp làm nổi bật cách mà ngôn ngữ phản ánh và hình thành cảm xúc trong đời sống con người.

Sự mất trí trong tình yêu, hay còn gọi là "Love is Insanity," được xem là nền tảng cho các nghiên cứu về cảm xúc, đặc biệt là cảm xúc yêu Các tác giả đã mở ra những khía cạnh sâu sắc về tình yêu, giúp hiểu rõ hơn về bản chất và ảnh hưởng của nó đối với tâm lý con người.

Tác giả Kửvecses đã tiến hành nhiều nghiên cứu về khái niệm cảm xúc, đặc biệt là tình yêu, trong các công trình của mình từ năm 1986 đến 2000 Ông cho rằng, mặc dù cảm xúc và tình yêu có cấu trúc khái niệm phức tạp, nhưng chúng có thể được lý giải thông qua một mô hình lý tưởng qua các biểu thức ngôn ngữ Những nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp cái nhìn ngôn ngữ học về cảm xúc, đặc biệt thông qua hệ thống các từ chỉ cảm xúc và hình ảnh.

Nghiên cứu của Ning Yu (2009) về khái niệm "tim" hay "xīn (tâm)" trong tiếng Trung phản ánh sự khác biệt cơ bản trong cách tiếp cận tri nhận giữa văn hóa Trung Quốc và phương Tây Nghiên cứu này dựa trên khảo sát về ý niệm này, cho thấy cách mà người Trung Quốc hiểu và cảm nhận về tâm lý và cảm xúc khác biệt so với quan điểm phương Tây.

Khái niệm "tim" trong tư duy người Trung Quốc, theo Ning Yu (2009), là một ý niệm trung tâm, kết hợp cả cảm xúc và lý trí, khác biệt với quan điểm nhị nguyên của phương Tây Điều này giúp giải thích nhiều tương đồng và khác biệt văn hóa giữa phương Đông và phương Tây Tại Hàn Quốc, nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận và biểu hiện cảm xúc đã bắt đầu từ sớm, nhưng chỉ thật sự đa dạng từ những năm 2000, với các nghiên cứu tiêu biểu về cảm xúc yêu như của Kim Hyang-suk (2001), Lim Ji-ryong (2005a), và Na Ik-ju.

Kim Hyang-suk (2001) đã nghiên cứu các thành ngữ thể hiện cảm xúc trong tiếng Hàn, đặc biệt là liên quan đến tình yêu Khác với Na Ik-ju (2000), tác giả phân tích các miền nguồn của tình yêu như BÁU VẬT, SỰ RUNG ĐỘNG, NỖI NHỚ và SỰ THA THỨ, từ đó tiếp tục khai thác các miền nguồn cấp thấp hơn Ngoài ra, tác giả chú trọng đến mối liên hệ giữa các bộ phận cơ thể và cảm xúc, phân loại thành ngữ thành nhóm sử dụng bộ phận bên ngoài như tai, mắt và nhóm sử dụng bộ phận bên trong như lồng ngực, tim Theo thống kê, mắt chiếm 72% trong các thành ngữ thể hiện tình yêu, tuy nhiên, tác giả cũng nhận định rằng không có bộ phận cơ thể nào chỉ dành riêng để diễn tả tình yêu.

Lim Ji-ryong (2005a) nghiên cứu cách người Hàn Quốc hình thành ý niệm về tình yêu thông qua hai hình thức tư duy: hoán dụ và ẩn dụ Trong tư duy ẩn dụ, tác giả trình bày

Bài viết đề cập đến 10 miền nguồn tư duy cho tình yêu, bao gồm CHẤT LỎNG TRONG VẬT CHỨA, KẺ ĐỊCH, ĐỒ VẬT, THỰC VẬT, THỨC ĂN – RƯỢU, NƯỚC BIỂN, LỬA, SỢI DÂY, QUẢ BÓNG BAY, và TÒA NHÀ Tác giả chỉ ra rằng hai hiện tượng HDYN và ADYN trong tình yêu có mối liên hệ chặt chẽ với phản ứng sinh lý và kinh nghiệm sống HDYN đại diện cho tình yêu giữa hai người khác giới, trong khi ADYN phản ánh các dạng tình yêu tổng quát hơn Mặc dù bài viết mang tính liệt kê và thiếu phân tích sâu về đặc thù tri nhận của người Hàn, khung nghiên cứu của Lim Ji-ryong (2005) vẫn được coi là chuẩn mực cho nhiều nghiên cứu cảm xúc tại Hàn Quốc.

Na Ik-ju (2008) đã phân tích khái niệm tình yêu trong tiếng Hàn bằng cách so sánh với tiếng Anh, tập trung vào các mô hình miền nguồn Bên cạnh những miền nguồn phổ biến như SỰ GẮN KẾT CỦA HAI VẬT THỂ, CUỘC CHIẾN, CUỘC HÀNH TRÌNH, CĂN BỆNH, và SỨC MẠNH, tác giả còn giới thiệu các miền nguồn độc đáo như NGƯỜI YÊU LÀ THỨC ĂN, mở rộng cách hiểu về tình yêu trong văn hóa Hàn Quốc.

Trong bài viết này, chúng ta khám phá hình ảnh "chim câu" trong văn hóa Việt Nam, nơi người yêu được ví như một vị thần Tương tự, trong tiếng Anh, có những hình ảnh so sánh như "người yêu là chim" hay "người yêu là chủ nhân" Nghiên cứu của Na Ik-ju (2000) chỉ dừng lại ở việc đưa ra ví dụ để minh họa cho các miền nguồn mà chưa có sự phân tích và căn cứ khoa học đầy đủ cho quan điểm của mình.

Kim Tae-heon (2008) so sánh ca từ tình yêu trong tiếng Anh và tiếng Hàn, nhấn mạnh vai trò văn hóa trong việc hình thành tư duy ẩn dụ Tác giả chỉ ra rằng ca khúc tiếng Anh thường tập trung vào khía cạnh tích cực của tình yêu, trong khi ca khúc tiếng Hàn lại thể hiện xu hướng tiêu cực hơn Sự khác biệt này liên quan đến giá trị quan, chế độ, lịch sử và truyền thống văn hóa Đặc biệt, miền nguồn SỰ XA CÁCH VỀ THỂ XÁC được xem là trung tâm trong ca từ tiếng Hàn, phản ánh niềm tin vào tình yêu gắn liền với tính bảo thủ và ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong quan điểm truyền thống về tình yêu của người Hàn.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để so sánh các biểu hiện cảm xúc trong thơ ca và ca từ giữa các ngôn ngữ khác nhau, như nghiên cứu của No Jin-seo (2007) về ADYN trong thơ tiếng Anh và tiếng Hàn, Kwon Yeon-jin (2014) về ẩn dụ tình yêu trong ca từ, và Uemura Mayumi (2018) về biểu hiện tình yêu của người Hàn và Nhật Tại Việt Nam, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Quỳnh Anh (2013) đã so sánh các thành ngữ biểu thị cảm xúc sử dụng bộ phận thân thể trong tiếng Hàn và tiếng Việt, tập trung vào năm cảm xúc chính: giận, vui, buồn, ghét, và sợ Các nghiên cứu về cảm xúc yêu ở Hàn Quốc chủ yếu dựa vào ngữ liệu ca từ, trong khi các nghiên cứu đối chiếu thường tập trung vào tiếng Anh, Nhật và Trung Trong khoảng 10 năm qua, tại Việt Nam, lĩnh vực nghiên cứu cảm xúc từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, đặc biệt là ADYN cảm xúc, đã bắt đầu thu hút sự chú ý, với một số luận án tiến sĩ tiêu biểu như của Ly Lan (2010), Trần Thế Phi (2016), và Trần Văn Nam (2017).

Ly Lan (2010) khảo sát ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của nhóm từ biểu đạt tình cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt, tập trung vào bốn tình cảm chính: vui, yêu, sợ và giận, qua hai phương diện là quá trình ý niệm hóa và cơ sở nghiệm thân Luận án của bà hệ thống hóa các cơ sở tri nhận và ý niệm miền nguồn một cách đa chiều, sử dụng ngữ liệu làm ví dụ minh họa Trong khi đó, Trần Thế Phi (2016) nghiên cứu ADYN cảm xúc qua thành ngữ tiếng Việt biểu thị năm loại cảm xúc: vui, buồn, giận, sợ, yêu, và so sánh với thành ngữ tiếng Anh Ông chú trọng vào việc thống kê và phân tích ngữ liệu, đồng thời tìm kiếm lý giải từ khác biệt văn hóa Đặc biệt, luận án của ông phân tích cảm xúc yêu qua các miền nguồn như SỰ HỢP NHẤT, CÁC THÀNH PHẦN, PHÉP THUẬT, THỨC ĂN NGON MIỆNG, ĐIÊN RỒ, LỬA, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu trong một chương của luận án.

Các nghiên cứu về hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu

So với ADYN, nghiên cứu về HDYN còn hạn chế hơn Mặc dù có một số tác giả tập trung vào HDYN, nhưng thường thì HDYN chỉ được đề cập như một hiện tượng phụ trong các nghiên cứu về ADYN.

Nghiên cứu của Lakoff & Johnson (1980) đã đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi nhận thức về hoán dụ, cho thấy rằng hoán dụ không chỉ đơn thuần là ngôn ngữ mà còn là cấu trúc tư duy, thái độ và hành vi của con người.

Theo quan điểm của Koevecses (1986, 2010) và Radden & Kửvecses (1999), hoán dụ được phân biệt rõ ràng với hoán dụ theo cách hiểu truyền thống Họ xem hoán dụ không chỉ là một hiện tượng ý niệm mà còn là một quá trình tri nhận, hình thành trong mô hình tri nhận lý tưởng (ICM - Idealized Cognitive Model).

Nghiên cứu của Goossens (1990) tập trung vào sự tương tác giữa ẩn dụ và hoán dụ, phân tích hệ thống các biểu thức tương tác trong hai trường hợp chính: ẩn dụ từ hoán dụ và hoán dụ trong ẩn dụ.

Theo Barcelona (2000), hoán dụ là sự chiếu xạ giữa hai miền tri nhận, trong đó miền nguồn cung cấp tiếp cận tâm lý cho miền đích Định nghĩa này không chỉ kế thừa những ưu điểm của các định nghĩa trước mà còn nhấn mạnh vai trò tri nhận và khái niệm tiếp cận tâm lý trong hoán dụ, đồng thời chỉ ra rằng hoán dụ không nhất thiết phải có chức năng chỉ thị Tại Hàn Quốc, nghiên cứu về hoán dụ cảm xúc tiêu biểu được thực hiện bởi Lim Ji-ryong qua các công trình từ năm 1999 đến 2005.

Phản ứng cơ thể liên quan đến cảm xúc của người Hàn được hệ thống hóa bởi Lim Ji-ryong (2005a), với các biểu hiện từ các bộ phận bên trong và bên ngoài cơ thể Nghiên cứu dựa trên kho ngữ liệu điện tử và tác phẩm tiểu thuyết, chỉ ra rằng cảm xúc yêu thường đi kèm với các hiện tượng sinh lý như tăng thân nhiệt, nhịp tim nhanh, hoạt động mạnh của hệ tuần hoàn, run rẩy, co rút, tê liệt, tiết nước bọt, và rối loạn ngôn ngữ hay hô hấp Lim Ji-ryong (2005b) cũng khảo sát các phản ứng màu sắc của cơ thể liên quan đến cảm xúc, sử dụng chủ yếu trích dẫn từ văn học Mặc dù các nghiên cứu của ông về ADYN và HDYN vẫn còn thiếu phân tích từ nhiều góc độ như văn hóa và xã hội, nhưng khung nghiên cứu của ông đã trở thành nền tảng cho nhiều nghiên cứu cảm xúc sau này.

Các nghiên cứu về hoán dụ cảm xúc chủ yếu tập trung ở quy mô luận văn thạc sĩ, phần lớn so sánh với ngôn ngữ khác như tiếng Trung, Nhật và Anh Nội dung các nghiên cứu thường xoay quanh các cách biểu đạt hoán dụ liên quan đến bộ phận cơ thể hoặc màu sắc biểu hiện cảm xúc Tại Việt Nam, nghiên cứu về hoán dụ cảm xúc còn hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực tình yêu, thường chỉ được đề cập như một phần trong nghiên cứu về ẩn dụ.

Theo nghiên cứu của Ly Lan (2010), Trần Bá Tiến (2012) và Trần Trung Hiếu (2015), số lượng các biểu thức ngữ nghĩa không ngừng (BTNN) dựa trên tư duy HDYN chỉ chiếm khoảng 1/3 so với các BTNN dựa trên tư duy ADYN trong cả tiếng Hàn và tiếng Việt.

Ly Lan (2010) đã nghiên cứu về hình thức diễn đạt cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng Anh, coi đây là một phương thức quan trọng trong việc hình thành ý niệm về các cảm xúc như hạnh phúc, yêu, sợ và giận Nghiên cứu chỉ ra rằng mỗi loại cảm xúc có xu hướng diễn đạt theo một cách riêng biệt; cụ thể, cảm xúc sợ thường liên quan đến hoán dụ, trong khi cảm xúc giận có thể có cả hai xu hướng, còn hạnh phúc và tình yêu chủ yếu được thể hiện qua ẩn dụ.

Trần Bá Tiến (2012) đã nghiên cứu đặc điểm hoán dụ tri nhận của thành ngữ thể hiện các cảm xúc như giận dữ, vui, buồn, xấu hổ và sợ hãi trong tiếng Anh và tiếng Việt Ông chỉ ra những khác biệt đáng chú ý giữa hai ngôn ngữ và đưa ra các lý giải từ góc độ văn hóa về cách mà tiếng Anh và tiếng Việt sử dụng tư duy hoán dụ để diễn đạt cảm xúc.

Trần Trung Hiếu (2015) đã nghiên cứu tính nghiệm thân của các ý niệm cảm xúc trong cấu trúc “X (Vị từ) + bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt, từ góc độ ADYN và HDYN Nghiên cứu tập trung vào các HDYN cảm xúc tiêu biểu, bao gồm đặc điểm cụ thể của cảm xúc, nguyên nhân gây ra cảm xúc, kết quả của cảm xúc và trạng thái của cảm xúc.

Trong 10 đến 20 năm qua, nghiên cứu về cảm xúc tại Hàn Quốc và Việt Nam chủ yếu tập trung vào ẩn dụ ý niệm và thường tổng hợp các cảm xúc mà chưa đi sâu vào một cảm xúc cụ thể Các nghiên cứu hiện có chủ yếu dựa vào ngữ liệu như thành ngữ, ca từ và tác phẩm văn học Tại Việt Nam, các nghiên cứu đối chiếu chủ yếu là Việt – Anh, trong khi Hàn Quốc thực hiện các nghiên cứu Hàn – Trung, Hàn – Nhật và Hàn – Anh Do đó, việc nghiên cứu cách biểu đạt cảm xúc yêu qua lời thoại phim truyền hình trong bối cảnh Hàn – Việt vẫn còn là một lĩnh vực chưa được khai thác.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

5.1 Phương pháp nghiên cứu Để phục vụ cho việc nghiên cứu, luận án có sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp miêu tả và phân tích là phương pháp chủ đạo trong luận án này, tập trung vào việc thống kê và phân loại ngữ liệu thành các hệ thống ý niệm Luận án mô tả chi tiết các mô hình ADYN và HDYN, xác định cấu trúc ý niệm qua sự chiếu xạ giữa miền nguồn và miền đích, đồng thời phân tích đặc trưng của các mô hình này liên quan đến cảm xúc yêu trong tiếng Hàn Ngoài ra, luận án còn xem xét các biểu thức ẩn dụ có giao thoa với hoán dụ, nghiên cứu vai trò của tư duy hoán dụ và mối quan hệ giữa hoán dụ và ẩn dụ trong các biểu thức này.

Luận án áp dụng phương pháp này để mô tả và phân tích các mô hình dịch mà người dịch sử dụng, đồng thời nêu rõ những vấn đề thường gặp khi dịch các biểu thức ADYN và HDYN liên quan đến cảm xúc yêu trong lời thoại của phim truyền hình Hàn Quốc sang tiếng Việt.

Phương pháp này nhằm xác định sự tương đồng và khác biệt trong cách biểu đạt cảm xúc yêu của người Hàn và người Việt, làm nổi bật tính phổ quát và đặc thù trong tư duy ngôn ngữ Luận án tập trung vào nghiên cứu liên ngành, kết hợp các kết quả từ tâm lý, y học, văn hóa, xã hội, địa lý và lịch sử của Hàn Quốc và Việt Nam để giải thích những đặc trưng trong cách thể hiện tình yêu của người Hàn.

5.1.3 Phương pháp thống kê ngôn ngữ học

Luận án áp dụng phương pháp thống kê ngôn ngữ học, bao gồm cả thống kê định lượng và định tính, nhằm phân tích và so sánh ngữ liệu để làm nổi bật đặc điểm của các ADYN và HDYN trong lời thoại phim truyền hình Đồng thời, nghiên cứu cũng làm rõ các mô hình dịch ADYN và HDYN được sử dụng trong việc dịch phụ đề tiếng Việt cho các bộ phim Hàn Quốc.

Nguồn dữ liệu cho chương 2 và 3 của luận án bao gồm lời thoại từ hai bộ phim truyền hình Hàn Quốc được sản xuất trong 15 năm qua, trong đó có bộ phim “가문의 영광 (Vinh quang gia tộc)” với 54 tập, được ký hiệu là H1.

Bộ phim "Ngôi nhà hạnh phúc" (16 tập) đã được Việt Nam sản xuất lại với nhiều phiên bản, trong đó nổi bật là "Cầu vồng tình yêu" (85 tập) Các bộ phim này được xây dựng dựa trên kịch bản gốc của các bộ phim Hàn Quốc nổi tiếng, mang đến cho khán giả những câu chuyện cảm động và ý nghĩa.

“Ngôi nhà hạnh phúc” (26 tập) (ký hiệu V2) là bộ phim nổi bật về tình yêu và cuộc sống, đặc biệt là “가문의 영광 (Vinh quang gia tộc)”, xoay quanh chuyện tình của 5 cặp đôi trong hai gia đình với nhiều độ tuổi khác nhau, từ trẻ đến trung niên Phim mang đến nguồn tư liệu phong phú về cách biểu đạt tình yêu đa dạng của nhiều thế hệ người Hàn Quốc.

Nguồn ngữ liệu chính cho chương 4 của luận án là phụ đề của hai bộ phim truyền hình Hàn Quốc “함부로 애틋하게 (Yêu không kiểm soát)” với 20 tập (ký hiệu H3) và “공항 가는 길 (Chờ em nơi phi trường)” với 16 tập (ký hiệu H4) phát sóng trên KBS 2 và dịch trên kênh HTV2 của đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo phụ đề của bộ phim “가문의 영광 (Vinh quang gia tộc)” với 54 tập.

“풀하우스(Ngôi nhà hạnh phúc)” (16 tập) là các bộ phim được dịch bởi các kênh online.

Điểm mới của luận án

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về ADYN và HDYN cảm xúc yêu trong lời thoại phim truyền hình Hàn Quốc, đối chiếu với tiếng Việt

Khác với các nghiên cứu sử dụng thành ngữ, tác phẩm văn học hay văn bản báo chí làm ngữ liệu, luận án này tập trung vào lời thoại trong phim truyền hình, một dạng diễn ngôn hội thoại gần gũi với ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày.

Nghiên cứu về các biểu thức ADYN trong cảm xúc yêu, đặc biệt là cơ chế hoán dụ và sự giao thoa giữa ADYN và HDYN, vẫn chưa được khai thác sâu trong các nghiên cứu về cảm xúc nói chung và cảm xúc yêu nói riêng.

Luận án tập trung vào việc ứng dụng trong lĩnh vực dịch phụ đề phim truyền hình Hàn – Việt, một lĩnh vực nghiên cứu đang cần thiết nhưng vẫn chưa được khai thác đầy đủ tại cả Hàn Quốc và Việt Nam.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Nghiên cứu hệ thống ADYN và HDYN cảm xúc yêu trong lời thoại phim truyền hình tiếng Hàn và tiếng Việt là một lĩnh vực còn ít được chú ý ở cả Hàn Quốc và Việt Nam Việc khám phá sự tương đồng và khác biệt trong cách diễn đạt cảm xúc yêu thương qua ngôn ngữ sẽ góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về văn hóa và giao tiếp giữa hai nước.

Nghiên cứu đặc trưng của ADYN và HDYN trong ngữ liệu lời thoại phim truyền hình giúp làm rõ tư duy ngôn ngữ dân tộc của Hàn Quốc và Việt Nam Việc phân tích này không chỉ góp phần vào việc hiểu biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ mà còn thể hiện những nét văn hóa đặc trưng của hai quốc gia.

Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc dịch ADYN và HDYN từ tiếng Hàn sang tiếng Việt, bài viết này đề xuất một quy trình dịch cụ thể nhằm tối ưu hóa quá trình chuyển ngữ cho các đoạn hội thoại cảm xúc trong phim truyền hình Hàn Quốc.

Cung cấp ngữ liệu chất lượng là rất quan trọng để nghiên cứu và biên soạn tài liệu dạy học tiếng Hàn cho người Việt, cũng như tiếng Việt cho người Hàn Đặc biệt, việc chú trọng vào môn dịch sẽ giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập giữa hai ngôn ngữ.

- Làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu về sau, liên quan đến vấn đề ADYN và HDYN cảm xúc

Bài viết này nhằm tìm hiểu sâu sắc về ngôn ngữ và văn hóa của hai dân tộc Hàn Quốc và Việt Nam, đồng thời góp phần gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa độc đáo của mỗi dân tộc.

Bố cục luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương:

Chương 1 của luận án tập trung vào cơ sở lý luận, trình bày các vấn đề lý thuyết liên quan đến ADYN và HDYN, cảm xúc yêu, ngôn ngữ trong phim truyền hình, cũng như các khía cạnh của dịch thuật, đặc biệt là dịch ADYN và HDYN.

Chương 2 Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu trong tiếng Hàn đối chiếu với tiếng

Luận án phân loại các biểu thức ADYN từ nguồn ngữ liệu thành tám miền nguồn trong tiếng Hàn và tiếng Việt, bao gồm: sự gắn kết của hai vật thể, cuộc chiến, căn bệnh, cuộc hành trình, sự sở hữu, vật chứa, vật thể và sức mạnh Nghiên cứu phân tích kết quả khảo sát từng miền nguồn dựa trên ngữ liệu thu thập, xác định tỷ lệ xuất hiện để đánh giá mức độ thông dụng của từng miền trong mỗi ngôn ngữ Bên cạnh đó, luận án miêu tả và phân tích các miền nguồn, so sánh và giải thích sự tương đồng cũng như khác biệt, từ đó rút ra những đặc điểm mang tính phổ quát hoặc đặc thù trong từng miền nguồn.

Chương 3 của luận án tập trung vào việc so sánh hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu trong tiếng Hàn và tiếng Việt Các biểu thức hoán dụ được thu thập và phân loại thành ba mô hình chính trong cả hai ngôn ngữ, với một trong số đó là phản ứng sinh.

Lý đại diện cảm xúc yêu, phản ứng biểu lộ và hành vi đại diện cảm xúc yêu là những khía cạnh quan trọng trong nghiên cứu tâm lý học Luận án này xác định tỷ lệ xuất hiện của từng mô hình để phân tích mức độ thông dụng trong các ngôn ngữ khác nhau Bài viết sẽ miêu tả, phân tích và khái quát các đặc điểm của từng mô hình, đồng thời so sánh và lý giải sự tương đồng hoặc khác biệt giữa chúng, từ đó rút ra những đặc điểm mang tính phổ quát hoặc đặc thù trong từng mô hình.

Trong chương 3, luận án nghiên cứu các biểu thức ADYN và mối liên hệ với tư duy hoán dụ, phân loại chúng thành hai loại giao thoa chính: ẩn dụ từ hoán dụ và hoán dụ trong ẩn dụ Luận án phân tích tính hoán dụ trong từng loại, làm rõ vai trò và ranh giới giữa hoán dụ và ẩn dụ Ngoài ra, luận án xác định tần số xuất hiện, phân tích đặc điểm của từng mô hình giao thoa và so sánh giữa tiếng Hàn và tiếng Việt, từ đó rút ra tính phổ quát hoặc đặc thù của hiện tượng tư duy này trong tiếng Hàn.

Chương 4 của luận án khảo sát bản dịch phụ đề phim Hàn từ tiếng Hàn sang tiếng Việt, tập trung vào việc nhận diện phương thức dịch và phân tích các mô hình dịch phổ biến liên quan đến ADYN và HDYN trong bối cảnh cảm xúc yêu Đồng thời, chương cũng khái quát hóa những vấn đề thường gặp trong quá trình dịch các biểu thức này.

Dựa trên phân tích từ các chương 2, 3 và 4, luận án này đề xuất một quy trình dịch cho ADYN và HDYN trong việc chuyển thể cảm xúc yêu từ phim truyền hình Hàn Quốc sang tiếng Việt, đồng thời phân tích từng công đoạn và minh họa bằng những ví dụ cụ thể.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Các vấn đề về ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm

1.1.1 Ẩn dụ ý niệm và các loại ẩn dụ ý niệm

Theo quan điểm tiền tri nhận, ẩn dụ được nghiên cứu trên bình diện ngôn từ, với chức năng và phạm vi sử dụng xác định qua vai trò của phép tu từ trong văn học và thơ ca Aristotle được coi là người đầu tiên bàn về khái niệm ẩn dụ ngôn từ, với định nghĩa kinh điển trong hai tác phẩm “Rhetoric” và “Poetics” Ông cho rằng ẩn dụ là phương thức chuyển tên gọi giữa các chủng loại khác nhau, dựa trên nguyên tắc tương suy.

Quan điểm của Aristotle về ẩn dụ đã dominantly ảnh hưởng đến nghiên cứu trong lĩnh vực này cho đến cuối thế kỷ 20, khi Johnson và Lakoff giới thiệu một cách tiếp cận mới trong tác phẩm “Metaphors We Live By” (1980) Họ phân biệt giữa ẩn dụ ngôn từ và ẩn dụ ý niệm, nhấn mạnh rằng ẩn dụ không chỉ là thuộc tính ngôn ngữ mà còn là thuộc tính của tư duy Theo đó, ẩn dụ trở thành một công cụ tư duy, giúp con người cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng thông qua các ý niệm quen thuộc trong văn hóa và tri thức Các tác giả đã cung cấp nhiều ví dụ cho thấy ẩn dụ hiện diện trong các cuộc hội thoại hàng ngày, chứng minh vai trò của nó trong cơ chế tư duy của con người.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường gặp nhiều biểu tượng ẩn dụ trong các cuộc hội thoại Để diễn đạt những khái niệm trừu tượng như cảm xúc, chúng ta thường dựa vào những trải nghiệm cụ thể, ví dụ như việc mô tả cơn giận với hình ảnh "cơn giận bốc lên ngùn ngụt".

Tình yêu của họ đã đi đến hồi kết, để lại nỗi buồn sâu thẳm trong lòng tôi Những cảm xúc mạnh mẽ như giận dữ được ví như ngọn lửa, trong khi tình yêu lại được xem như một cuộc hành trình đầy trải nghiệm Nỗi buồn không chỉ là cảm xúc mà còn là nỗi đau về thể xác, tất cả những điều này đều phản ánh những ADYN mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống.

ADYN được hình thành khi một miền ý niệm được hiểu thông qua một miền ý niệm khác, bao gồm miền nguồn (source domain) và miền đích (target domain) Miền nguồn, với các biểu đạt mang tính ẩn dụ, giúp chúng ta hiểu miền đích Mỗi miền nguồn là một hệ thống kinh nghiệm có tổ chức, đóng vai trò làm căn cứ để hiểu miền đích (Kửvecses, 2010, tr.4) Ví dụ, các miền nguồn cụ thể như LỬA, CUỘC HÀNH TRÌNH, và ĐAU ĐỚN VỀ THỂ XÁC được liên kết với các miền đích trừu tượng như GIẬN DỮ, YÊU, và BUỒN.

Theo Kửvecses (2010, tr.33-46), có nhiều cách phân loại ẩn dụ (ADYN), trong đó bốn cách phân loại quan trọng từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận bao gồm: 1) Phân loại theo tính quy ước, chia thành ẩn dụ quy ước cho các biểu thức ổn định và ẩn dụ phi quy ước cho các biểu thức mới mẻ; 2) Phân loại theo chức năng, bao gồm ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể và ẩn dụ định hướng, mỗi loại đều có chức năng riêng; 3) Phân loại theo bản chất, với ẩn dụ dựa trên tri thức cơ bản và ẩn dụ dựa trên lược đồ hình ảnh; 4) Phân loại theo mức độ tổng quát, phân chia thành ẩn dụ tổng quát cao và ẩn dụ cụ thể.

Chúng tôi chọn quan điểm phân loại theo chức năng tri nhận như một phương thức tư duy (Kửvecses, 2010, tr.37-40) Tuy nhiên, sự phân loại này chỉ mang tính tương đối, vì theo Kửvecses, các loại ADYN có thể trùng lặp trong nhiều trường hợp Dữ liệu khảo sát cho thấy cơ chế ẩn dụ liên quan đến cảm xúc yêu chủ yếu dựa vào ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể, do đó chúng tôi sẽ tập trung phân tích hai loại ADYN này.

Ẩn dụ cấu trúc (Structural Metaphors) là loại ẩn dụ có chức năng tri nhận, giúp chúng ta hiểu nghĩa của miền đích thông qua hệ thống cấu trúc tri thức của miền nguồn, nhờ vào sự chiếu xạ giữa các thành tố cấu trúc của hai miền (Kửvecses, 2010) Điều này có nghĩa là chúng ta sử dụng một ý niệm đã được cấu trúc rõ ràng ở mức độ cao để cấu trúc hóa một ý niệm khác (Lakoff & Johnson, 1980).

Trong thế giới đa dạng của cảm xúc, con người thường sử dụng những khái niệm cụ thể để hiểu và tổ chức các trải nghiệm nội tâm phức tạp Nhiều cách diễn đạt về tình yêu, như "Tình yêu là cuộc hành trình" hay "Tình yêu là căn bệnh", cho thấy sự phong phú trong cách mà chúng ta cảm nhận và thể hiện tình yêu.

LÀ CUỘC CHIẾN đều là ẩn dụ cấu trúc

Khám phá hình ảnh ẩn dụ trong ADYN của Lakoff và Johnson, chúng ta thấy rằng "Tình yêu là cuộc hành trình" thể hiện rõ ràng qua câu nói "Chúng ta không đi tới đâu cả" Câu này không chỉ đề cập đến việc thiếu một đích đến cụ thể trong mối quan hệ, mà còn phản ánh ba yếu tố quan trọng: người tham gia, chuyến đi và đích đến Trong ngữ cảnh tình cảm, "chúng ta" ám chỉ những người yêu nhau, "chuyến đi" đại diện cho những trải nghiệm trong mối quan hệ, và "cái đích" chính là mục tiêu của tình yêu Điều này cho thấy rằng, mặc dù không có một đích đến rõ ràng, nhưng hành trình tình yêu vẫn đầy ý nghĩa và giá trị.

Các thành tố cấu trúc của miền ý niệm nguồn và miền ý niệm đích tương đương với nhau một cách hệ thống Theo Kửvecses (2010), chúng ta hiểu ý niệm miền đích thông qua ý niệm miền nguồn nhờ vào sự tương đương giữa hai miền này, trong đó các thành tố cấu trúc miền đích tương ứng với các thành tố cấu trúc miền nguồn Những tương đương này được gọi là chiếu xạ (mappings).

Theo Kửvecses (2010), miền đích không tồn tại các thành tố trước khi được cấu trúc hóa từ miền nguồn Việc áp dụng các yếu tố của miền nguồn vào miền đích tạo ra một ý niệm mới với cấu trúc riêng Cụ thể, ý niệm cuộc hành trình đã hình thành nên ý niệm tình yêu Kửvecses cũng đã thực hiện một thí nghiệm tư duy, cho thấy rằng con người không thể hình dung về đích đến, những khó khăn, lựa chọn hay tiến triển trong tình yêu mà không liên kết với những suy nghĩ từ miền ý niệm cuộc hành trình Điều này chứng tỏ rằng miền đích tình yêu không có cấu trúc độc lập trước khi được hình thành từ miền nguồn cuộc hành trình.

➢ Ẩn dụ bản thể (Ontological Metaphors)

Khác với ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể không cung cấp các cấu trúc tri nhận cho miền đích mà liên quan đến bản chất của sự tồn tại Loại ẩn dụ này cho phép chúng ta thể hiện kinh nghiệm dưới dạng các vật thể, vật chất và vật chứa, giúp chúng ta nhận diện rõ ràng hơn những cấu trúc trong các miền ý niệm thiếu hoặc có ít cấu trúc (Kửvecses, 2010, tr.38-39).

Khi chúng ta kết nối kinh nghiệm cá nhân với các vật thể hay chất liệu cụ thể, điều này cho phép chúng ta phân loại, định lượng và diễn giải để hiểu rõ hơn về những trải nghiệm đó (Lakoff và Johnson, 1980, tr.25).

Để hiểu rõ các khái niệm trừu tượng như tâm trí và tình cảm, chúng ta thường ẩn dụ hóa chúng thành những vật thể sở hữu, ví dụ như “nỗi buồn của tôi” hay “niềm vui của tôi” Một dạng ẩn dụ điển hình là ẩn dụ vật chứa, trong đó các ý niệm như TÌNH YÊU, NỖI SỢ HÃI, và NỖI BUỒN được xem như những không gian tách biệt, cho phép chúng ta cảm nhận sự khác biệt giữa không gian bên trong và bên ngoài Câu như “Họ tìm thấy hạnh phúc trong tình yêu” hay “Cô tìm mọi cách để thoát ra khỏi nỗi sợ hãi” minh họa rõ ràng cho cách mà chúng ta nhận thức và tương tác với những cảm xúc này Hơn nữa, các khái niệm trừu tượng còn được hình dung như vật chất trong vật chứa, ví dụ “kìm nén cơn giận” cho thấy cơn giận được xem như khí trong một không gian, hay “giận sôi sùng sục” diễn tả cơn giận như chất lỏng.

Các vấn đề về cảm xúc yêu

1.2.1 Khái niệm cảm xúc yêu

Khi nghiên cứu tình yêu qua lăng kính tâm lý học, lý thuyết tam giác tình yêu của Robert Sternberg thường được nhắc đến Lý thuyết này mô tả ba thành phần chính của tình yêu: sự thân mật, đam mê và cam kết, tạo nên các loại tình yêu khác nhau dựa trên sự kết hợp của chúng Sự hiểu biết về tam giác tình yêu giúp chúng ta nhận diện và phát triển mối quan hệ một cách hiệu quả hơn.

Người đang yêu Dấu hiệu đang yêu Độ mãnh liệt của tình yêu

CĂN BỆNH Triệu chứng của bệnh

Mức độ của bệnh Người bệnh

Theo Sternberg (1986), tình yêu được cấu trúc từ ba yếu tố chính: đam mê, thân mật và cam kết Đam mê thể hiện qua sự hấp dẫn về ngoại hình và ham muốn thể xác; thân mật là cảm giác gần gũi và hạnh phúc khi ở bên nhau; cam kết là sự trung thành và nỗ lực duy trì tình cảm trong thời gian dài Ông phân loại tình yêu thành bảy loại: (1) Thích, chỉ có thân mật; (2) Tình yêu cuồng dại, chỉ có đam mê; (3) Tình yêu trống rỗng, chỉ có cam kết; (4) Tình yêu lãng mạn, kết hợp đam mê và thân mật; (5) Tình bầu bạn, kết hợp thân mật và cam kết; (6) Tình yêu dại khờ, kết hợp đam mê và cam kết; và (7) Tình yêu trọn vẹn, với đủ ba yếu tố Theo Từ điển Tiếng Việt, “yêu” có hai nghĩa, trong đó nghĩa thứ hai xác định tình cảm đặc biệt dành cho người khác giới, muốn gắn bó cuộc đời Luận án này tập trung vào loại tình yêu này, bổ sung rằng nó có thể bao gồm các tình cảm tương tự Trong tam giác tình yêu của Sternberg, ngoại trừ tình yêu có yếu tố thân mật không xuất hiện ở tình yêu nam nữ, sáu loại tình yêu còn lại đều là đối tượng nghiên cứu chính.

1.2.2 Phản ứng tâm sinh lý và cơ sở nghiệm thân của ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm cảm xúc yêu

Cảm xúc, theo Từ điển Thuật ngữ Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên, 2012, tr 43), là phản ứng rung chuyển của con người trước một kích động vật chất hoặc một sự việc, bao gồm hai mặt.

Phản ứng sinh lý do thần kinh thực vật có thể bao gồm tim đập nhanh, ra mồ hôi, sự thay đổi nội tiết tố, co thắt cơ bắp, run rẩy và rối loạn tiêu hóa.

Phản ứng tâm lý thể hiện qua các thái độ, lời nói, hành vi và cảm xúc như vui sướng, buồn khổ, dễ chịu hay khó chịu, thường xảy ra một cách bột phát, khiến cho chủ thể gặp khó khăn trong việc kiềm chế.

Phản ứng sinh lý do hệ thần kinh thực vật điều khiển chủ yếu liên quan đến việc tiếp nhận kích thích và tiết ra hoóc môn Từ "hoóc môn" có nguồn gốc từ việc điều chỉnh các chức năng sinh lý trong cơ thể.

"Hormaein" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là kích thích hoặc làm cho hưng phấn Khi cơ thể nhận tín hiệu từ những biến đổi, hoóc môn được tiết ra và theo mạch máu đến các tế bào, kích thích chúng truyền đạt trạng thái mới của cơ thể Điều này là cơ sở tri nhận nghiệm thân của ADYN và HDYN trong cảm xúc nói chung, đặc biệt là cảm xúc yêu.

Khi yêu, cơ thể sản sinh các hoóc môn như dopamin, adrenalin và noradrenalin, gây ra những phản ứng sinh lý như rối loạn nhịp tim và hoạt động trí não, cùng với các biểu hiện bên ngoài như đỏ mặt và nói lắp Những phản ứng này giúp con người thể hiện tình yêu, thậm chí mượn ý niệm "căn bệnh" để diễn tả cảm xúc Ở giai đoạn sau, hoóc môn oxytocin và vasopressin được tiết ra qua tiếp xúc thân thể, tạo cảm giác gắn kết, tin cậy và chung thủy, làm nền tảng cho tư duy về tình yêu như sự gắn kết và sở hữu Ngoài ra, các phản ứng tâm lý còn phụ thuộc vào mạng lưới thần kinh, hệ viền và dưới đồi thị, phản ánh khả năng đối phó với những tình huống bất ngờ.

2 https://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/cai-nhin-moi-ve-tinh-yeu-theo-quan-diem-khoa-hoc-2050636.html

3 http://news.chosun.com/site/data/html_dir/2016/09/23/2016092301172.html

Biểu hiện của cảm xúc phụ thuộc vào các đặc điểm của phong tục tập quán và nền văn hóa xã hội, như được nêu trong Từ điển Thuật ngữ Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên (2012, tr 43).

Những phản ứng tâm lý trong tình yêu tạo nên cơ sở nghiệm thân cho các ADYN và HDYN cảm xúc Chúng ta dễ dàng nhận thấy biểu lộ tình cảm qua ánh mắt, gương mặt, và hành vi của những người yêu nhau Theo Kửvecses (1986), HDYN về sự gần gũi thân thể đại diện cho tình yêu, thể hiện qua việc những người yêu thường muốn ở bên nhau Khi sử dụng biểu thức này, chúng ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa "tình yêu" và "sự gần gũi thân thể", cho thấy sự kết nối giữa hai khái niệm này Cơ sở nghiệm thân này không chỉ đơn thuần mà còn có thể hình thành các tư duy phức tạp hơn về tình yêu, như trong các ADYN "tình yêu là cuộc hành trình".

1.3 Văn bản ngôn ngữ phim truyền hình và ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm trong lời thoại

Văn bản phim truyền hình là một thể loại văn bản đặc biệt, kết hợp hình ảnh và âm thanh, bao gồm hình ảnh động, lời thoại, tiếng động và phụ đề Thông tin trong văn bản này có thể được truyền tải qua hình ảnh, âm thanh hoặc cả hai, tạo nên một văn bản đa phương thức Tuy nhiên, luận án sẽ tập trung nghiên cứu ngôn ngữ nói, cụ thể là lời thoại trong phim.

Theo Từ điển chuyên ngành Quốc ngữ Hàn Quốc, văn bản phim truyền hình chủ yếu xoay quanh hình ảnh cuộc sống con người và sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt nội dung Hội thoại trong kịch bản được diễn viên thể hiện, phản ánh diễn ngôn đời thường với ngôn ngữ cụ thể và thực tế.

Ngôn ngữ phim truyền hình và ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm trong lời thoại 27 1.4 Các vấn đề về dịch

Trong hai bộ phim được khảo sát, tình yêu chiếm ưu thế trong các biểu thức tình cảm, vượt trội hơn so với các cảm xúc như vui, buồn, giận, sợ Điều này xuất phát từ việc tình yêu là chủ đề chính, đồng thời nhu cầu giao tiếp về cảm xúc yêu thương thường cao hơn Thực tế cho thấy, trong cả hội thoại phim và đời sống, người nói thường không diễn đạt cảm xúc giận hay vui bằng lời, mà thể hiện qua thái độ Ngược lại, với cảm xúc lãng mạn như tình yêu, người nói có xu hướng muốn chia sẻ, thổ lộ và miêu tả nhiều hơn Đây là điểm khác biệt quan trọng khi nghiên cứu ADYN và HDYN trong ngữ liệu ngôn ngữ phim truyền hình.

1.4 Các vấn đề về dịch

1.4.1 Khái niệm dịch và dịch phụ đề

Dịch có nhiều định nghĩa khác nhau từ các nhà nghiên cứu Theo Newmark (1988), dịch là quá trình chuyển nghĩa một văn bản sang ngôn ngữ khác theo cách mà tác giả dự kiến Larson (1984) định nghĩa dịch là việc chuyển tải ý nghĩa từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ tiếp nhận Nida (1982) nhấn mạnh rằng dịch chủ yếu là tái tạo sự tương đương tự nhiên và gần nhất với thông điệp của ngôn ngữ nguồn về cả nghĩa lẫn phong cách.

Khám phá nghĩa Diễn đạt lại nghĩa

NGÔN NGỮ NGUỒN NGÔN NGỮ TIẾP NHẬN

Mỗi quan điểm về dịch thuật có thể khác nhau, nhấn mạnh vào các khía cạnh khác nhau Tuy nhiên, các định nghĩa chung đều mô tả một quá trình theo Larson (1984), bao gồm việc tìm hiểu từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, tình huống giao tiếp và ngữ cảnh văn hóa của văn bản nguồn Quá trình này bao gồm phân tích để quyết định nghĩa và tái xây dựng nội dung với từ vựng và cấu trúc ngữ pháp phù hợp với ngôn ngữ tiếp nhận và ngữ cảnh văn hóa, như được khái quát hóa trong hình 3 của Larson (1984).

Quá trình dịch (Larson 1984: 4)

Trong quá trình này, dịch sẽ chịu tác động của các yếu tố nhất định Newmark

Năm 1988, tr.4 đã xác định 10 yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình và sản phẩm dịch thuật, được chia thành ba nhóm lớn Các yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác dịch thuật.

Trong dịch thuật, SL bao gồm người viết và các yếu tố ngôn ngữ của văn bản nguồn, trong khi TL bao gồm người đọc và các yếu tố ngôn ngữ của văn bản đích Ngoài ra, còn có nhóm không thuộc SL hay TL, bao gồm đối tượng của văn bản đích và người dịch Với tầm quan trọng của yếu tố văn bản, nhiều nghiên cứu đã tiếp cận dịch thuật từ các loại văn bản cụ thể như tác phẩm văn học, diễn thuyết chính trị, báo chí, ngôn ngữ truyền hình và phụ đề phim Mỗi thể loại này có những đặc điểm riêng, do đó yêu cầu áp dụng các lý thuyết dịch khác nhau Luận án này sẽ tập trung vào việc nghiên cứu lý thuyết dịch liên quan đến phụ đề phim.

Phụ đề (subtitle) là dòng chữ hoặc phần hội thoại xuất hiện trên màn hình trong các hình ảnh động không tiếng, hoặc là các câu dịch sang ngoại ngữ xuất hiện dưới màn hình Dịch phụ đề phim là hoạt động ghi lại nội dung lời thoại trong phim dưới dạng các dòng phụ đề.

Dịch phụ đề là quá trình chuyển nghĩa với người dịch đóng vai trò trung tâm, từ việc khám phá nghĩa văn bản nguồn đến diễn đạt lại nghĩa trong văn bản dịch Theo Gambier (2003), dịch phụ đề không chỉ đơn thuần là chuyển nghĩa từ từ sang từ, mà còn bao gồm nhiều chiến lược như tóm tắt và nhấn mạnh Để thực hiện tốt việc dịch, cần xem xét thể loại, phong cách của người làm phim, cũng như nhu cầu và mong đợi của người xem, đồng thời chú ý đến tính đa phương thức của giao tiếp nghe nhìn.

Theo Gottlieb (1992, tr.162), dịch phụ đề là một hình thức dịch thuật đặc biệt với những đặc điểm nổi bật: (1) được thực hiện dưới dạng viết, (2) mang tính phụ trợ, (3) yêu cầu tính tức thời, (4) diễn ra đồng bộ và (5) có tính đa phương thức.

Phụ đề được viết dưới dạng chữ chạy trên màn hình, khác với lồng tiếng hay thuyết minh Chúng có tính phụ trợ, bổ sung cho hội thoại bằng ngôn ngữ gốc (SL) Phụ đề cũng mang tính tức thời, vì hội thoại trong phim diễn ra theo dòng thời gian mà người xem không thể kiểm soát Hơn nữa, chúng đồng bộ với ngôn ngữ gốc, diễn ra song song với các diễn biến trong phim, đồng thời thể hiện tính đa phương tiện.

Polymedial subtitles convey messages through multiple modalities, integrating both auditory and visual elements simultaneously This approach enhances comprehension and engagement, making it an effective tool for communication By utilizing at least one method of hearing or seeing, polymedial subtitles ensure that information is accessible to a broader audience.

Gottlieb (1992, tr.166-167) đã đề xuất 10 chiến lược dịch phụ đề phổ biến, bao gồm: kéo dài diễn đạt, diễn giải thêm, dùng diễn đạt thay thế, diễn đạt như ngôn ngữ gốc (SL), dùng diễn đạt tương tự, sao chép nguyên văn, chuyển đổi vị trí, tóm lược súc tích, giảm lược, cắt bớt và bỏ Trong số đó, các chiến lược thường được áp dụng trong dịch phụ đề là tóm lược súc tích, giản lược và cắt bớt, điều này phù hợp với những hạn chế về thời gian và không gian mà phụ đề phải đối mặt.

Người dịch phụ đề phải cân nhắc giữa các phương án khả thi để đảm bảo độ dài và tính dễ hiểu, đồng thời giảm thiểu tổn thất thông tin Việc giải thích hay chú thích như trong dịch văn học không thể thực hiện được, do đó cần lựa chọn phương án tối ưu nhất.

1.4.2 Dịch ẩn dụ, hóa dụ và các chiến lược dịch ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm

Dịch ẩn dụ, theo Newmark, là vấn đề quan trọng nhất trong dịch thuật và là trung tâm của lý thuyết dịch Ẩn dụ không chỉ có vai trò lớn trong văn bản mà còn đặt ra thách thức không nhỏ cho các dịch giả.

Larson (1998, tr.275-276) chỉ ra rằng ẩn dụ có thể trở nên khó hiểu và khó dịch vì nhiều lý do, bao gồm hình ảnh xa lạ với ngôn ngữ đích (TL), chủ đề không được đề cập, và sự khác biệt trong cách so sánh giữa các ngôn ngữ Một thách thức lớn là khó nhận biết điểm tương đồng (point of similarity) làm cơ sở cho ẩn dụ, vì trong các nền văn hóa khác nhau, điểm tương đồng này có thể được hiểu khác nhau Ví dụ, câu "John is a rock" (John là một cục đá) có thể mang ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào văn hóa: trong một số nền văn hóa, "cục đá" biểu thị sự đứng im, trong khi ở nền văn hóa khác, nó lại biểu trưng cho sức mạnh Đặc biệt, trong tư duy của người Hàn, "cái đầu bằng đá" (돌머리) thường được liên tưởng đến sự ngu dốt, trong khi người Việt lại thấy đá là biểu tượng của sự kiên định và bất biến Do đó, việc dịch nguyên văn có thể dẫn đến những hiểu lầm về ý nghĩa.

Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng việc dịch ẩn dụ gặp khó khăn chủ yếu do yếu tố văn hóa tiềm ẩn giữa hai ngôn ngữ Snell-Hornby (1995, tr.56) cho rằng vấn đề chính của dịch ẩn dụ xuất phát từ sự khác biệt văn hóa, dẫn đến sự khác biệt trong ngôn ngữ và cách hình thành ý niệm, cũng như ý nghĩa biểu trưng Do đó, nghĩa của ẩn dụ thường mang tính đặc thù văn hóa, như Nida & Taber đã chỉ ra.

ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC YÊU TRONG TIẾNG HÀN ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT

HOÁN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC YÊU TRONG TIẾNG HÀN ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT

ỨNG DỤNG TRONG DỊCH PHIM TRUYỀN HÌNH

Ngày đăng: 09/08/2021, 15:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Mạnh Hùng (2008). Ngôn ngữ học đối chiếu. Hà Nội: NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ học đối chiếu
Tác giả: Bùi Mạnh Hùng
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2008
2. Chu Xuân Diên (2002). Cơ sở văn hóa Việt Nam. TP. HCM: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở văn hóa Việt Nam
Tác giả: Chu Xuân Diên
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM
Năm: 2002
3. Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (1993). Những vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa. Hội Ngôn ngữ học Việt Nam – Trường ĐH Ngoại ngữ Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa
Tác giả: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam
Năm: 1993
4. Lê Thị Kiều Vân (2012). Tìm hiểu đặc trưng văn hóa và tri nhận của người Việt qua một số "từ khóa" (luận án tiến sĩ ngữ văn – Ngành Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu). TP.HCM: Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: từ khóa
Tác giả: Lê Thị Kiều Vân
Năm: 2012
5. Lee D. (2007). Cognitive Linguistics: An Introduction (Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hoàng An), Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cognitive Linguistics: An Introduction
Tác giả: Lee D
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2007
6. Lương Duy Thứ, Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền (2000). Đại cương văn hóa phương Đông. Hà Nội: NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại cương văn hóa phương Đông
Tác giả: Lương Duy Thứ, Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2000
7. Ly Lan (2009). Về các ý niệm và phạm trù tình cảm cơ bản của con người (trên dẫn liệu tiếng Anh). Ngôn ngữ và Đời sống, 9(167), 21-25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ và Đời sống, 9
Tác giả: Ly Lan
Năm: 2009
8. Ly Lan (2012). Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của các từ biểu đạt tình cảm trong tiếng Anh (có liên hệ với tiếng Việt) (luận án tiến sĩ ngôn ngữ học). Hà Nội:Viện Ngôn ngữ học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của các từ biểu đạt tình cảm trong tiếng Anh (có liên hệ với tiếng Việt)
Tác giả: Ly Lan
Năm: 2012
9. Lý Toàn Thắng (2005). Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt
Tác giả: Lý Toàn Thắng
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2005
10. Mai Ngọc Chừ (2009). Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông. Hà Nội: NXB Phương Đông Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông
Tác giả: Mai Ngọc Chừ
Nhà XB: NXB Phương Đông
Năm: 2009
11. Nghiêm Hồng Vân (2018). Đối chiếu ẩn dụ ý niệm về “vui mừng” và “tức giận” trong tiếng Nhật và tiếng Việt (luận án tiến sĩ ngôn ngữ học). Hà Nội: Viện Ngôn ngữ học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối chiếu ẩn dụ ý niệm về “vui mừng” và “tức giận” "trong tiếng Nhật và tiếng Việt
Tác giả: Nghiêm Hồng Vân
Năm: 2018
12. Nguyễn Ngọc Trâm (2002). Nhóm từ tâm lý tình cảm tiếng Việt và một số vấn đề từ vựng – ngữ nghĩa. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhóm từ tâm lý tình cảm tiếng Việt và một số vấn đề từ vựng – ngữ nghĩa
Tác giả: Nguyễn Ngọc Trâm
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2002
13. Nguyễn Ngọc Vũ (2009). Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt chứa yếu tố chỉ bộ phận phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận (luận án tiến sĩ ngôn ngữ học). TP. HCM: Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt chứa yếu tố chỉ bộ phận phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận
Tác giả: Nguyễn Ngọc Vũ
Năm: 2009
14. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2014). Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn (luận án tiến sĩ ngôn ngữ học). Hà Nội : Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn
Tác giả: Nguyễn Thị Bích Hạnh
Năm: 2014
15. Nguyễn Thị Hiền (2017). Ẩn dụ vật chứa miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt. Ngôn ngữ và Đời sống, 11(265), 55-58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt. "Ngôn ngữ và Đời sống, 11
Tác giả: Nguyễn Thị Hiền
Năm: 2017
16. Nguyễn Thị Như Ngọc (2014). Xác lập quy trình dịch ẩn dụ từ tiếng Anh sang tiếng Việt (trên cứ liệu văn bản diễn thuyết của Mỹ). Ngôn ngữ, 4, 59-71 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ, 4
Tác giả: Nguyễn Thị Như Ngọc
Năm: 2014
17. Nguyễn Thị Như Ngọc (2015). Ẩn dụ văn bản diễn thuyết chính trị Mỹ và việc dịch ẩn dụ từ tiếng Anh sang tiếng Việt (luận án tiến sĩ ngôn ngữ học). TP.HCM:Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ẩn dụ văn bản diễn thuyết chính trị Mỹ và việc dịch ẩn dụ từ tiếng Anh sang tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Thị Như Ngọc
Năm: 2015
18. Nguyễn Thiện Giáp (2011). Về ngôn ngữ học tri nhận. Ngôn ngữ, 9, 44-50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ, 9
Tác giả: Nguyễn Thiện Giáp
Năm: 2011
19. Nguyễn Thiện Hùng, Trần Thị Thanh Thảo (2011). Ẩn dụ về tình yêu trong thơ tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại từ quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Báo cáo tại Hội thảo ngữ học toàn quốc, tháng 4 - 2011 tại Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội thảo ngữ học toàn quốc
Tác giả: Nguyễn Thiện Hùng, Trần Thị Thanh Thảo
Năm: 2011
20. Phan Ngọc (1998). Bản sắc văn hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa - Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản sắc văn hóa Việt Nam
Tác giả: Phan Ngọc
Nhà XB: NXB Văn hóa - Thông tin
Năm: 1998

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w