1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Lịch sử và hư cấu trong tiểu thuyết bộ ba của tân dân tử gia long tẩu quốc, hoàng tử cảnh như tây, gia long phụ quốc

143 24 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lịch Sử Và Hư Cấu Trong Tiểu Thuyết Bộ Ba Của Tân Dân Tử Gia Long Tẩu Quốc, Hoàng Tử Cảnh Như Tây, Gia Long Phục Quốc
Tác giả Trần Thị Vân
Người hướng dẫn TS. Phan Mạnh Hùng
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 143
Dung lượng 1,59 MB

Cấu trúc

  • 1. Lí do chọn đề tài (7)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (10)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (19)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (19)
  • 5. Đóng góp của luận văn (20)
  • 6. Cấu trúc luận văn (21)
  • Chương 1: VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, HƯ CẤU TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA TÂN DÂN TỬ (22)
    • 1.1. Sơ lược về tiểu thuyết (22)
    • 1.2. Khái luận về tiểu thuyết lịch sử (24)
      • 1.2.1. Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử (24)
      • 1.2.2. Vấn đề “lịch sử” trong tiểu thuyết lịch sử (29)
      • 1.2.3. Vấn đề “hư cấu” trong tiểu thuyết lịch sử (33)
    • 1.3. Sơ lược về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX31 1.4. Tân Dân Tử và tiểu thuyết lịch sử của ông (37)
      • 1.4.1. Tiểu sử và sự nghiệp của Tân Dân Tử (41)
      • 1.4.2. Tiểu thuyết bộ ba: Gia Long tẩu quốc, Hoàng tử Cảnh như Tây, (43)
      • 1.4.3. Quan niệm của Tân Dân Tử về tiểu thuyết lịch sử (46)
  • Chương 2: VẤN ĐỀ CHÂN THẬT LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT BỘ BA CỦA TÂN DÂN TỬ (51)
    • 2.1. Tính chân thật lịch sử trong sự kiện lịch sử (51)
      • 2.1.1. Tái hiện trọn vẹn sự kiện lịch sử (53)
      • 2.1.2. Xâu chuỗi các sự kiện lịch sử (57)
    • 2.2. Tính chân thật lịch sử trong thời gian và không gian lịch sử (60)
      • 2.2.1. Không gian rộng lớn gắn liền với sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử (61)
      • 2.2.2. Thời gian tuyến tính gắn liền với sự kiện lịch sử (64)
    • 2.3. Tính chân thật lịch sử trong nhân vật lịch sử (66)
      • 2.3.1. Từ nguồn gốc xuất thân (68)
      • 2.3.2. Đến phẩm chất và tài năng của nhân vật lịch sử (70)
  • Chương 3: VẤN ĐỀ HƯ CẤU NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT BỘ BA CỦA TÂN DÂN TỬ (77)
    • 3.1. Hư cấu nghệ thuật với chi tiết lịch sử và sự kiện lịch sử (77)
      • 3.1.1. Hư cấu nghệ thuật với chi tiết lịch sử (78)
      • 3.1.2. Hư cấu nghệ thuật với sự kiện lịch sử (81)
    • 3.2. Hư cấu nghệ thuật với nhân vật lịch sử và phi lịch sử (83)
      • 3.2.1. Hư cấu nghệ thuật với nhân vật lịch sử dựa vào lịch sử (84)
      • 3.2.2. Hư cấu nghệ thuật với nhân vật lịch sử về chuyện đời tư (92)
      • 3.2.3. Hư cấu nghệ thuật với nhân vật phi lịch sử (96)
    • 3.3. Hư cấu nghệ thuật nhìn từ việc tổ chức kết cấu và lời văn trần thuật (104)
      • 3.3.1. Kết cấu trần thuật "chương hồi" theo trật tự thời gian tuyến tính (104)
      • 3.3.2. Lời văn trần thuật trực tiếp và gián tiếp một giọng (112)
  • KẾT LUẬN (126)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (130)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Bộ tiểu thuyết "Gia Long tẩu quốc", "Hoàng tử Cảnh như Tây", và "Gia Long phục quốc" của Tân Dân Tử là tác phẩm nổi bật nhất về vua Gia Long cho đến nay, theo nhận định của Phan Mạnh Hùng Những tác phẩm này đã thu hút sự quan tâm của độc giả miền Nam trong một thời gian dài.

Mặc dù bộ tiểu thuyết này được yêu mến và hoan nghênh, nhưng nghiên cứu về nó lại không nhiều, thậm chí có thời gian bị lãng quên Các công trình nghiên cứu về văn học Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thường chỉ đề cập sơ lược Các nhà nghiên cứu chủ yếu chú ý đến tiểu thuyết "Giọt máu chung tình", trong khi "số phận" của bộ ba tiểu thuyết của Tân Dân Tử lại gặp nhiều khó khăn Để hiểu rõ hơn về tình hình nghiên cứu, có thể xem xét tiến trình theo thời gian để thấy được diện mạo các tác phẩm của ông.

Năm 1988, cuốn sách "Văn học Nam bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900 - 1954)" của tác giả Hoài Anh, Thành Nguyên và Hồ Sĩ Hiệp đã công phu tổng hợp hơn nửa thế kỷ phát triển của văn học miền Nam, bao gồm nhiều thể loại như văn xuôi, thơ, hát bội, cải lương, cùng với phê bình và nghiên cứu Tác phẩm nổi bật "Giọt máu chung tình" của Tân Dân cũng được đề cập trong bối cảnh này.

Các tác giả đã tóm tắt truyện và chỉ ra những hạn chế như sự sai lệch về lịch sử và lối viết biền ngẫu Tuy nhiên, tác phẩm cũng được ghi nhận vì đã tránh kết thúc có hậu Trong mục Tiểu thuyết ở Nam Bộ từ 1922 đến 1945, chỉ có Hồ Biểu Chánh được đề cập, trong khi tên tuổi của Tân Dân Tử và các tác phẩm khác của ông lại không được nhắc đến.

Năm 1990, trong Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nguyễn Q Thắng đã liệt kê nhiều tác giả từ thời kỳ "tiền hiền" đến cận đại và tóm tắt các tác phẩm tiêu biểu như Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản, cùng với các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh và Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử Ngoài việc tóm tắt Giọt máu chung tình, Nguyễn Q Thắng còn nhấn mạnh vai trò của các tác phẩm này trong việc mở đường cho văn học miền Nam.

Thắng đã giới thiệu về hai tác phẩm "Gia Long tẩu quốc" và "Gia Long phục quốc", đồng thời đưa ra nhận định rằng đây là bộ tiểu thuyết lịch sử gần gũi với lịch sử Việt Nam.

Nam cận đại được tiểu thuyết hóa sớm nhất ở miền Nam cùng thời với Phạm Minh Kiên ” (tr.318)

Năm 1992, Bằng Giang với Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ 1865 - 1932 tuy không đề cập đến tiểu thuyết bộ ba Gia Long tẩu quốc, Hoàng tử Cảnh như

Trong tác phẩm "Giọt máu chung tình", tác giả Tân Dân Tử thể hiện lòng yêu nước và tinh thần chống xâm lược, mặc dù còn tồn tại một số hạn chế Bằng Giang nhận định rằng tác phẩm này là phản ứng tích cực trước sự lan rộng của truyện dịch từ Trung Quốc Đồng thời, Bùi Đức Tịnh cũng đề cập đến những khó khăn trong thời kỳ phát triển báo chí và tiểu thuyết, dẫn đến việc tài liệu bị thiếu sót Mặc dù tiểu thuyết bộ ba của Tân Dân Tử không được giới thiệu rộng rãi, "Giọt máu chung tình" vẫn được đánh giá cao trong bối cảnh văn học thời bấy giờ.

“ là tác phẩm nổi tiếng nhất và được phổ biến mạnh nhất của Tân Dân

Tác phẩm không chỉ thu hút độc giả bởi giọng văn hấp dẫn mà còn nhờ vào những tình tiết thú vị, tính cách đa dạng của các nhân vật, cùng với sự nhiệt huyết của tác giả trong việc tôn vinh các giá trị tinh thần của dân tộc.

Năm 1997, trong tác phẩm "Văn học sử giản ước tân biên" tập III, Phạm Thế Ngũ đã nghiên cứu sự hình thành của tiểu thuyết mới ở Việt Nam giai đoạn 1862 - 1945, tập trung vào các nhà văn tiên phong tại miền Bắc.

Trong nghiên cứu văn học miền Nam, Bắc chỉ đề cập đến Hồ Biểu Chánh, trong khi nhiều nhà văn tiên phong như Tân Dân Tử lại bị lãng quên, gây thiệt thòi cho họ Tuy nhiên, từ năm 1998, nghiên cứu về văn học miền Nam đã có sự khởi sắc, đặc biệt tại Hội thảo “Tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam” do Viện Khoa học xã hội TP.HCM tổ chức Tại hội thảo, các bài viết như "Tiểu thuyết Nam Bộ trong chặng đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam" và "Nghĩ về buổi bình minh của tiểu thuyết Nam Bộ" của Trần Hữu Tá đã đề cập đến tiểu thuyết lịch sử của Tân Dân Tử, góp phần làm sáng tỏ vị trí của ông trong nền văn học này.

Trong tập 2 của Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết về Văn học chữ quốc ngữ ở Sài Gòn - Gia Định vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã khai thác sâu sắc sự phát triển và ảnh hưởng của văn học trong bối cảnh lịch sử và văn hóa đặc trưng của khu vực này.

XX các tác giả đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt với tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ

Riêng với tác phẩm của Tân Dân Tử các tác giả đã đưa ra nhận định: “ Gia

Bài viết ghi nhận sự hoan nghênh của độc giả đối với tác phẩm "Long tẩu quốc" và đề cập đến quan niệm viết tiểu thuyết lịch sử của Tân Dân Tử qua lời tựa của Gia Long tẩu quốc Mặc dù không đi sâu vào phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, nhưng nó đã nhấn mạnh những đóng góp tích cực và mới mẻ của Tân Dân trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử.

Tử nhất đề cập đến lý luận viết tiểu thuyết lịch sử, giúp người đọc nhận diện rõ nét vị trí và ảnh hưởng của các tác phẩm Tân Dân Tử trong văn học Nam Bộ Đặc biệt, hai tác phẩm "Gia Long tẩu quốc" và "Gia Long phục quốc" đã được đón nhận một cách tích cực và đáng trân trọng.

Năm 1999, trong Từ điển tác gia Việt Nam, Nguyễn Q Thắng đã giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Tân Dân Tử Ông tóm tắt chi tiết nội dung tiểu thuyết Giọt máu chung tình, khẳng định đây là tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Quốc ngữ sớm nhất trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam Bên cạnh đó, Nguyễn Q Thắng cũng đề cập ngắn gọn đến nội dung của tiểu thuyết bộ ba Gia Long tẩu quốc.

Bộ tiểu thuyết "Long phục quốc và Hoàng tử Cảnh" được nhận định là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử gần gũi nhất với lịch sử Việt Nam cận đại, và là một trong những tác phẩm được tiểu thuyết hóa sớm nhất tại miền Nam.

Phương pháp nghiên cứu

Khi nghiên cứu chúng tôi kết hợp nhiều phương pháp với nhau, về cơ bản chúng tôi sử dụng một số phương pháp chính sau:

Phương pháp nghiên cứu lịch sử xã hội được áp dụng trong tiểu thuyết lịch sử nhằm liên kết nội dung với chính sử Qua việc đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử và xã hội cụ thể, chúng tôi có thể đưa ra những kết luận chính xác và sâu sắc về giá trị của tác phẩm.

Phương pháp Thi pháp học trong nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử là một công cụ quan trọng, giúp phân tích các khía cạnh nghệ thuật như kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật và sự sáng tạo trong việc vận dụng dữ kiện lịch sử Qua đó, chúng tôi có thể xác định rõ ràng những vấn đề lịch sử cũng như giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Phương pháp so sánh được áp dụng để khám phá những điểm tương đồng và khác biệt trong lịch sử cũng như bộ ba tiểu thuyết của Tân Dân Tử Qua đó, chúng tôi xác định được nội dung nào phản ánh tính lịch sử và nội dung nào là hư cấu do tác giả sáng tạo, từ đó làm nổi bật đặc sắc trong nghệ thuật hư cấu của tiểu thuyết.

Phương pháp liên ngành được áp dụng trong luận văn này, kết hợp kiến thức từ các ngành khoa học xã hội như sử học và văn hóa học, nhằm khai thác các khía cạnh văn hóa và lịch sử trong tác phẩm Bằng cách đặt tác phẩm vào bối cảnh văn hóa Nam Bộ, luận văn khám phá và lý giải những lựa chọn thủ pháp nghệ thuật của nhà văn, từ đó làm cơ sở cho các nhận định sâu sắc hơn về tác phẩm.

Đóng góp của luận văn

5.1 Luận văn góp phần tái hiện diện mạo tiểu thuyết lịch sử của Tân

Tân Dân Tử là một tác giả tiểu thuyết lịch sử có ảnh hưởng lớn đến sự hiện đại hóa văn học vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhưng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ Bài viết này sẽ khám phá các đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết bộ ba của Tân Dân Tử, nhằm làm rõ những sáng tạo của ông trong thể loại tiểu thuyết lịch sử, từ đó khẳng định vị trí của tác giả trong văn học Nam Bộ và văn học Việt Nam.

Luận văn giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu, từ đó mang đến cái nhìn sâu sắc về tiểu thuyết bộ ba của Tân Dân Tử Qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về hình ảnh vua Gia Long, cũng như cảm nhận tình cảm của nhà văn và người Nam Bộ dành cho ông.

5.3 Luận văn cũng cung cấp tài liệu hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu về tác giả Tân Dân Tử và tiểu thuyết bộ ba của ông.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Dẫn nhập , Kết luận và Tài liệu tham khảo luận văn được triển khai thành 3 chương:

Chương 1 Vấn đề lịch sử, hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết lịch sử của Tân Dân Tử

Trong chương này, chúng tôi trình bày các khái niệm cơ bản về tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử, vấn đề lịch sử và hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Đồng thời, chúng tôi giới thiệu khái quát về tác giả Tân Dân Tử, bộ ba tiểu thuyết của ông và quan niệm của ông về tiểu thuyết lịch sử Ngoài ra, chúng tôi cũng đặt tiểu thuyết lịch sử của Tân Dân Tử trong bối cảnh tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX để làm nổi bật những đóng góp của ông.

Chương 2 Vấn đề tính chân thật lịch sử trong bộ ba tiểu thuyết của Tân Dân Tử

Chương này sẽ khám phá những khía cạnh chân thực trong tiểu thuyết bộ ba của Tân Dân Tử, tập trung vào sự kiện, nhân vật lịch sử, cũng như không gian và thời gian lịch sử.

Chương 3 Vấn đề hư cấu nghệ thuật trong bộ ba tiểu thuyết của Tân Dân Tử

Chương này khám phá sự sáng tạo trong nghệ thuật hư cấu của tiểu thuyết bộ ba, tập trung vào việc kết hợp sự kiện, nhân vật lịch sử và nhân vật phi lịch sử Bên cạnh đó, nó cũng phân tích cấu trúc trần thuật và phong cách ngôn ngữ của tác phẩm.

VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, HƯ CẤU TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA TÂN DÂN TỬ

Sơ lược về tiểu thuyết

Tiểu thuyết là thể loại văn học tự sự có nguồn gốc lâu đời và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể Mặc dù vậy, đến hiện tại, tiểu thuyết vẫn đang trong quá trình phát triển và chưa có một định hình cố định Theo M Bakhtin (1992) trong tác phẩm "Lý luận và thi pháp tiểu thuyết", tiểu thuyết được đánh giá là một thể loại luôn vận động và thay đổi.

Tiểu thuyết là thể loại văn chương đang trong quá trình chuyển biến và chưa định hình rõ ràng, với nhiều quan niệm khác nhau từ phương Tây và phương Đông Tại Việt Nam, tiểu thuyết xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mang đến một luồng gió mới cho văn học Phạm Quỳnh (1921) đã định nghĩa tiểu thuyết là "một truyện viết bằng văn xuôi nhằm tả tình tự con người, phong tục xã hội, hay những sự lạ kỳ, đủ làm cho người đọc hứng thú" Ông cũng nhấn mạnh rằng bất kỳ sách nào không thuộc về dạy học, lý luận hay khảo cứu đều có thể được coi là tiểu thuyết, cho thấy tính bao quát của thể loại này.

Lại Nguyên Ân (2004) trong 150 thuật ngữ văn học đã định nghĩa về tiểu thuyết:

Tác phẩm tự sự tập trung vào số phận và sự hình thành của cá nhân, với sự trần thuật diễn ra trong không gian và thời gian nghệ thuật, nhằm truyền đạt "cơ cấu" của nhân cách Bêlinski đã mô tả tiểu thuyết như "sử thi của đời tư", vì nó phản ánh những tình cảm, dục vọng và biến cố trong đời sống riêng tư cũng như nội tâm của con người.

Các quan niệm trên cũng khá tương đồng với định nghĩa của Hà Minh Đức

(1995) trong Lý luận văn học:

Tiểu thuyết là thể loại tự sự lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống một cách toàn diện qua không gian và thời gian Nó khám phá sâu sắc những vấn đề về thân phận con người thông qua những tính cách đa dạng và phức tạp, đồng thời tái hiện những bức tranh tổng thể về đời sống xã hội.

Tiểu thuyết có những đặc trưng cơ bản, nhưng những định nghĩa hiện tại chưa làm rõ đặc trưng cốt lõi của nó là sự hư cấu Sự hư cấu này không chỉ là yếu tố phân biệt tiểu thuyết với các thể loại khác mà còn khác biệt so với hư cấu trong các thể loại văn học khác Như Kundera đã chỉ ra qua Hà Minh Đức (1995) trong "Lý luận văn học", tiểu thuyết được xem là "văn xuôi tổng hợp lớn dựa trên trò chơi với các nhân vật hư cấu".

Tiểu thuyết có nhiều cách phân loại khác nhau dựa trên các tiêu chí như khuynh hướng sáng tác và đề tài Theo khuynh hướng, có thể phân chia thành tiểu thuyết cổ điển, lãng mạn và hiện thực Dựa vào đề tài, có các loại như tiểu thuyết lịch sử, đời tư, chiến tranh, khoa học viễn tưởng và trinh thám Phạm Quỳnh từng chia tiểu thuyết thành ba loại: ngôn tình, tả thực và truyền kỳ Người Trung Quốc phân loại theo dung lượng tác phẩm thành trường thiên, trung thiên và đoản thiên tiểu thuyết Tuy nhiên, các phân loại này chỉ mang tính tương đối.

M Bakhtin đã nói thì tiểu thuyết là thể loại duy nhất đang chuyển biến, không đứng yên

Tiểu thuyết là một thể loại văn học có khả năng phản ánh đa dạng các đề tài trong cuộc sống, không bị giới hạn bởi thời gian và không gian Một trong những đặc trưng nổi bật của tiểu thuyết là hư cấu nghệ thuật, mở rộng khả năng sáng tạo cho người nghệ sĩ Đề tài lịch sử cũng là một lĩnh vực quan trọng trong tiểu thuyết, nơi mà lịch sử được tái hiện sống động, xóa nhòa khoảng cách về thời gian và không gian Tiểu thuyết lịch sử không chỉ kết nối quá khứ với hiện tại mà còn truyền tải thông điệp cho cuộc sống hiện đại, tạo nên một thể tài riêng biệt với những đặc trưng hư cấu độc đáo.

Khái luận về tiểu thuyết lịch sử

1.2.1 Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử

Tiểu thuyết lịch sử có nguồn gốc từ Hi Lạp cổ đại và là một nhánh của thể loại tiểu thuyết, mang những đặc điểm chung của nó Mặc dù đã xuất hiện từ lâu, vẫn tồn tại nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau về thể loại này Theo nghiên cứu, quan niệm về tiểu thuyết lịch sử chủ yếu được thể hiện qua ý kiến của các nhà văn thực hành và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học Mặc dù có sự khác biệt, nhưng về bản chất, vẫn có những điểm chung nhất định giữa các quan niệm này.

Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các nhà văn Nam Bộ như Trương Duy Toản, Tân Dân Tử, Phạm Minh Kiên và Hồ Biểu Chánh đã thể hiện quan niệm của mình về tiểu thuyết lịch sử Đặc biệt, Tân Dân Tử trong tác phẩm "Gia Long tẩu quốc" (1930) đã trình bày quan điểm sâu sắc về thể loại này.

Lịch sử đại lược chỉ tóm tắt những sự kiện lớn mà không đi sâu vào chi tiết, trong khi lịch sử tiểu thuyết cung cấp cái nhìn toàn diện hơn, bao gồm cả những câu chuyện lớn và nhỏ, tạo nên một bức tranh sống động và tự nhiên Lịch sử đại lược có thể đề cập đến các nhân vật, sự thăng trầm của quốc gia, nhưng thiếu đi sự mô tả về tính cách và bối cảnh.

Quan niệm của Tân Dân Tử về tiểu thuyết lịch sử thể hiện tính đa dạng và sâu sắc, từ những chi tiết nhỏ nhặt đến những sự kiện lớn lao, đồng thời kết hợp yếu tố ngôn ngữ văn chương một cách hài hòa.

Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006) trong

Tiểu thuyết lịch sử, mặc dù không có định nghĩa cụ thể, được hiểu là thể loại văn học mượn chuyện xưa để phản ánh đời nay, hấp thu bài học từ quá khứ và thể hiện sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua, mà vẫn giữ tính chân thật lịch sử Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố hư cấu nhưng cũng không làm giảm giá trị của tính xác thực Theo Nguyễn Huệ Chi và Trần Hữu Tá, tác phẩm tự sự hư cấu với đề tài lịch sử là một phần quan trọng trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội.

Theo Trương Đăng Dung (1998), tiểu thuyết lịch sử không chỉ phản ánh mà còn mô tả sự phát triển của hiện thực lịch sử một cách nghệ thuật, do đó, nội dung và hình thức của nó phải được lấy từ chính hiện thực đó.

Tiểu thuyết lịch sử, theo cuốn "Sáng tạo văn học về đề tài lịch sử" (2013), được định nghĩa là loại tiểu thuyết có nội dung liên quan đến sự kiện và nhân vật lịch sử, nhưng định nghĩa này chưa đầy đủ về đặc thù nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Ngoài ra, cuốn sách cũng nhấn mạnh rằng tiểu thuyết lịch sử là một "nhánh" của tiểu thuyết, nhằm tái hiện đời sống tinh thần và nhân cách con người qua các nhân vật và sự kiện lịch sử, từ đó rút ra bài học và chuyển tải thông điệp Tuy nhiên, quan niệm này vẫn chưa đề cập đến các đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử.

Trong tác phẩm "Sáng tạo Văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử" (2013), Hoàng Quốc Hải đã nêu ra ba nguyên tắc cơ bản trong việc sáng tác tiểu thuyết lịch sử Đầu tiên, người sáng tác cần có nhu cầu khám phá cội nguồn và những thăng trầm của lịch sử Thứ hai, các trải nghiệm cay đắng và vinh quang của cha ông phải được tái hiện một cách sinh động Cuối cùng, cấu trúc tác phẩm cần được xây dựng thông qua hư cấu, và tác phẩm phải truyền tải một thông điệp lịch sử rõ ràng.

Cũng trong Sáng tạo Văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử (2013)

Nguyễn Xuân Khánh phân chia tiểu thuyết lịch sử thành ba loại dựa trên tính chân thật lịch sử: loại hoàn toàn hư cấu, loại sử dụng nhân vật có thật và loại kết hợp giữa hư và thực Tương tự, Nguyễn Văn Dân cũng phân loại tiểu thuyết lịch sử thành ba loại, nhưng dựa vào mục đích và quan niệm của tác giả.

Tiểu thuyết lịch sử chương hồi; Tiểu thuyết lịch sử giáo huấn; Tiểu thuyết lịch sử luận giải

Tiểu thuyết lịch sử có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng chung quy lại đều xoay quanh hai vấn đề chính: sự thật lịch sử và hư cấu trong tiểu thuyết Chế Lan Viên từng chỉ ra rằng, để viết tiểu thuyết lịch sử, tác giả phải vượt qua hai vòng lửa: vòng lửa của lịch sử và vòng lửa của tiểu thuyết.

Nhiệm vụ của nhà văn là vượt qua hai thử thách lớn, và khi họ thành công, điều đó không chỉ chứng tỏ sự thành công một phần mà còn giúp giải quyết mâu thuẫn giữa lịch sử và hư cấu.

Tiểu thuyết lịch sử có những đặc trưng riêng biệt giúp phân biệt với các thể loại tiểu thuyết khác, bên cạnh những đặc điểm chung của thể loại này Dựa trên quan niệm của các nhà nghiên cứu và ý kiến từ các tác giả viết tiểu thuyết lịch sử, chúng tôi khái quát một số đặc trưng cơ bản của thể loại này như sau.

Tiểu thuyết lịch sử phản ánh các sự kiện và nhân vật trong quá khứ, nhưng không phải tác phẩm nào viết về quá khứ cũng được coi là tiểu thuyết lịch sử Để được công nhận, quá khứ đó cần có ý nghĩa cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc hoặc cộng đồng, và có khả năng tác động đến cả một thời đại Mặc dù viết về quá khứ, tác phẩm phải kết nối với hiện tại và tương lai thông qua thông điệp mà nhà văn muốn truyền tải Tiểu thuyết lịch sử có phạm vi bao quát lớn, thường xoay quanh những sự kiện và nhân vật mang tầm vóc lịch sử quan trọng, chiếm lĩnh không gian, thời gian và tư tưởng Chính vì vậy, quá khứ trong tiểu thuyết lịch sử trở nên sống động và chứa đựng những thông điệp sâu sắc về cuộc sống.

Chủ thể sáng tạo của tiểu thuyết lịch sử cần có hiểu biết sâu sắc về lịch sử và cái nhìn khách quan, dựa trên tư tưởng nhân văn Đề tài lịch sử không chỉ bao gồm sự kiện mà còn liên quan đến văn hóa, xã hội, chính trị, khoa học kỹ thuật và kinh tế của một thời đại Do đó, người viết cần kiến thức đa dạng để tránh sai lệch và bịa đặt, từ đó giữ vững niềm tin nơi độc giả Việc nghiên cứu tài liệu lịch sử trong nhiều năm trước khi viết là điều cần thiết Bên cạnh kiến thức, nhà văn cần có cái nhìn nhân văn và sự công tâm để đánh giá lịch sử một cách khách quan Kiểm soát cảm xúc là rất quan trọng, vì việc lý tưởng hóa một nhân vật lịch sử có thể dẫn đến cường điệu Nhà văn cần kết hợp tài năng, tâm huyết và dũng cảm để tạo ra tác phẩm văn chương đẹp đẽ, khác biệt với nhà viết sử, người tìm kiếm sự thật trong lịch sử.

Tiểu thuyết lịch sử cần tôn trọng lịch sử trong khi vẫn đề cao vai trò của hư cấu nghệ thuật Lịch sử thường khô khan và xa rời thực tại, do đó, hư cấu là cần thiết để tạo ra sự hấp dẫn và niềm tin cho người đọc Tuy nhiên, sự hư cấu phải được thực hiện một cách chân thực, không làm méo mó hay sai lệch lịch sử, điều này phản ánh quan niệm nghệ thuật và tâm huyết của nhà văn Hư cấu như một chất xúc tác giúp làm nổi bật vẻ đẹp nghệ thuật và làm cho lịch sử trở nên sống động hơn Sự hài hòa giữa lịch sử và hư cấu là yếu tố quan trọng quyết định thành công của tác phẩm, đồng thời nhà văn cần có cái nhìn công tâm và khách quan để khám phá những khía cạnh chưa được sáng tỏ của lịch sử.

Sơ lược về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX31 1.4 Tân Dân Tử và tiểu thuyết lịch sử của ông

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX xuất hiện như một tất yếu lịch sử, chịu ảnh hưởng từ các yếu tố chính trị - xã hội và nội tại của văn học, nhằm đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa văn học dân tộc trong bối cảnh thời đại.

Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã gây ra nhiều thay đổi lớn trong xã hội Việt Nam, dẫn đến sự phân hóa giai cấp rõ rệt với sự xuất hiện của nhiều tầng lớp mới Chính sách ngu dân và tư tưởng nô dịch của thực dân đã ngăn chặn những ảnh hưởng tích cực từ cách mạng thế giới, khiến người dân Việt Nam lo lắng và băn khoăn về tương lai Trong bối cảnh đó, tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính trong hệ thống giáo dục, thay thế chữ Hán Các nhà chí sĩ yêu nước lo lắng về vận mệnh đất nước, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức trách nhiệm dân tộc Nhiều tác phẩm văn học lịch sử đã ra đời, phản ánh tinh thần dân tộc và lòng tự hào của nhân dân Việt Nam.

Giai cấp tư sản và tiểu tư sản đã đặt ra những yêu cầu mới đối với văn hóa và văn học, đòi hỏi sự thay đổi để phù hợp với sự phát triển của xã hội Văn học trở nên sôi động với sự đổi mới từ nội dung đến hình thức nghệ thuật, cần hiện đại hóa theo phong cách phương Tây để thoát khỏi ảnh hưởng của thi pháp trung đại Quá trình này đã mở rộng thể loại và đề tài sáng tác, tạo điều kiện cho sự sáng tạo phong phú của các nhà văn trong việc phản ánh đời sống con người và xã hội Tiểu thuyết lịch sử ra đời như một phản ứng với nhu cầu hiện đại hóa, góp phần vào sự đa dạng của thể loại văn học và được xem là phương tiện đấu tranh cách mạng Những tác phẩm tiêu biểu như "Tiếng sấm đêm đông" của Nguyễn Tử Siêu, "Trần Nguyên chiến ký", "Việt Thanh chiến sử" và "Đêm hội Long Trì" của Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện rõ điều này.

Văn học Nam Bộ lúc này cũng không đứng ngoài cuộc và hơn hết Nam

Bộ được coi là nơi khởi đầu cho quá trình hiện đại hóa văn học với sự xuất hiện của những tên tuổi như Nguyễn Trọng Quản, Nguyễn Chánh Sắt và Hồ Biểu Chánh Thời kỳ này, đời sống văn học Nam Bộ diễn ra sôi nổi với sự phát triển của báo chí và văn học dịch, trong đó tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được dịch nhiều, khiến người dân hiểu biết về lịch sử và nhân vật Trung Quốc hơn cả lịch sử quê hương Điều này gây nỗi đau cho các nhà văn Tuy nhiên, phong trào Duy Tân và Minh Tân đã khơi dậy niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ, khiến các nhà văn Nam Bộ nhận ra rằng lịch sử dân tộc cũng có nhiều nhân vật vĩ đại xứng đáng được tôn vinh Từ đó, tiểu thuyết lịch sử ở Nam Bộ ra đời nhằm giới thiệu và khẳng định giá trị lịch sử dân tộc.

Trong giai đoạn này, không thể không nhắc đến những tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Tử Siêu, người tiên phong trong thể loại tiểu thuyết lịch sử hiện đại với tác phẩm nổi bật "Tiếng sấm đêm đông" và "Hai bà đánh giặc".

Lê Đại Hành, tiếp đến là Tân Dân Tử, Nguyễn Chánh Sắt, Phạm Minh

Khi viết tiểu thuyết lịch sử, các nhà văn Nam Bộ coi đây là vũ khí đấu tranh chống kẻ thù và là phương tiện hiệu quả để truyền bá lịch sử dân tộc đến với quần chúng.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX chủ yếu viết bằng văn xuôi chữ quốc ngữ, phản ánh nhiều vấn đề dân tộc với nội dung phong phú Giai đoạn 1900 - 1930, tiểu thuyết vẫn chịu ảnh hưởng từ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, với cấu trúc tuyến tính và thường có kết thúc có hậu Ngôn ngữ biền ngẫu và nhân vật được xây dựng chủ yếu qua hành động, chưa đi sâu vào tâm lý Quy mô tác phẩm cũng còn nhỏ Ở miền Bắc, nổi bật có Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu và Vua Bố Cái của Nguyễn Tử Siêu, trong khi miền Nam có Tân Dân.

Tử ngoài Giọt máu chung tình còn có Gia Long tẩu quốc, Gia Long phục quốc,

Giai đoạn 1930 - 1945 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam, với ảnh hưởng rõ rệt từ văn học phương Tây Các tác phẩm không chỉ có quy mô lớn hơn mà còn có chất lượng tốt hơn, thể hiện hình ảnh người anh hùng không chỉ trong đấu tranh dựng nước mà còn gắn liền với những tình cảm đời thường Chất lãng mạn trở nên nổi bật, giúp phản ánh chân thật các vấn đề lịch sử trong khi vẫn phát huy tối đa vai trò của hư cấu nghệ thuật, làm cho lịch sử trở nên gần gũi hơn với độc giả.

Giai đoạn 1930 - 1945 phải kể đến các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng như Đêm hội Long trì, An Tư công chúa, các tác phẩm của Lan Khai, của Nguyễn

Về khuynh hướng, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này gồm hai khuynh hướng cơ bản: khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa và khuynh hướng lãng mạn

Khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam tôn trọng sự thật lịch sử nhưng vẫn chú trọng vào yếu tố hư cấu nghệ thuật, phản ánh các vấn đề xã hội trong giai đoạn lịch sử đầy biến động Ban đầu, nhiều tác phẩm chịu ảnh hưởng của lối viết chương hồi, nhưng sau đó, chúng đã chuyển mình theo hình thức tiểu thuyết phương Tây hiện đại Nổi bật trong khuynh hướng này là các tác phẩm của Nguyễn Tử Siêu và Nguyễn Triệu Luật.

Khuynh hướng lãng mạn trong văn học Việt Nam, với các tác giả tiêu biểu như Tân Dân Tử, Nguyễn Huy Tưởng và Lan Khai, thể hiện rõ nét yếu tố hư cấu nghệ thuật qua việc khai thác sâu sắc những vấn đề cá nhân và tình yêu đôi lứa Trong bối cảnh lịch sử, các sự kiện được xem như cái cớ để làm nổi bật tình yêu, giúp tiểu thuyết lịch sử trở nên gần gũi và hấp dẫn hơn với độc giả Tình yêu đôi lứa trong khuynh hướng này không chỉ mang lại sức sống cho các câu chuyện mà còn phản ánh những thử thách của thời cuộc, đồng thời làm cho đề tài lịch sử trở nên sống động và hiện đại Qua những câu chuyện tình yêu, các nhà văn gửi gắm những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, mang ý nghĩa thời đại.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, phản ánh sự phát triển của văn học để đáp ứng nhu cầu thời đại Dù ban đầu chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi, thể loại này đã có những chuyển biến nghệ thuật đáng kể Quan trọng hơn, các nhà văn không chỉ truyền bá lịch sử dân tộc mà còn khơi gợi lòng tự hào dân tộc trong quần chúng.

1.4 Tân Dân Tử và tiểu thuyết lịch sử của ông

1.4.1 Tiểu sử và sự nghiệp của Tân Dân Tử

Tân Dân Tử (1875 - 1955), tên thật là Nguyễn Hữu Ngỡi, sinh ra tại huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định, nay là quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh Xuất thân từ gia đình có truyền thống Nho học, ông nội là tú tài và cha ông là người thông thạo chữ Hán, giữ chức Cai tổng Tân Dân Tử từ nhỏ đã thông minh, học chữ Hán và sau đó học tại trường Pháp Việt, giỏi cả Hán văn lẫn Pháp văn Sau khi tốt nghiệp trường Thông ngôn Sài Gòn, ông làm Kinh lịch ở Chợ Lớn và sau đó thăng chức Tri huyện Dù làm việc cho chính quyền cũ, ông vẫn giữ lòng yêu nước và văn hóa dân tộc, điều này đã dẫn ông đến với tiểu thuyết lịch sử Ông mắc bệnh vào năm 1953 và qua đời tại Sài Gòn năm 1955.

Ông là một trong những nhà văn nổi bật trong thể loại tiểu thuyết lịch sử, không phải là người khởi xướng nhưng là người thành công nhất trong lĩnh vực này Dù sự nghiệp sáng tác của ông không đồ sộ, các tác phẩm của ông được công chúng Nam Bộ yêu thích Ngoài việc viết tiểu thuyết, Tân Dân Tử còn sáng tác thơ và viết tiểu phẩm cho các báo như Nông cổ mín đàn, Lục tỉnh tân văn.

"Giọt máu chung tình" là tiểu thuyết đầu tay và cũng là tác phẩm nổi bật nhất của tác giả, bao gồm 3 cuốn sách với 28 hồi Tác phẩm này được xuất bản bởi Nxb.

J Nguyễn Văn Viết in lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1926, ghi nhan đề đầy đủ là Giọt máu chung tình Tòng đình thảm kịch Tiểu thuyết lịch sử lãng mạn này kể lại câu chuyện tình yêu đôi lứa giữa Võ Đông Sơ – con trai của quan hậu quân Võ Tánh và Bạch Thu Hà, một cô gái cao thượng và trung trinh tuyết hạnh Giọt máu chung tình vẫn đi theo kiểu kết cấu chương hồi với ngôn ngữ cũ nhưng kết thúc truyện là sự hy sinh của Đông Sơ trên chiến trận và sự tự sát của Thu Hà bên linh cữu của Đông Sơ Đây là một thảm kết, không giống với những kết thúc kiểu đoàn tụ, vui vẻ, hạnh phúc của các tiểu thuyết lãng mạn khác Tác phẩm cũng được Tân Dân Tử chuyển thể thành cải lương và cho đến nay vẫn được các nhà xuất bản cho tái bản nhiều lần

VẤN ĐỀ CHÂN THẬT LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT BỘ BA CỦA TÂN DÂN TỬ

VẤN ĐỀ HƯ CẤU NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT BỘ BA CỦA TÂN DÂN TỬ

Ngày đăng: 09/08/2021, 15:26

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bakhtin M.M. (1992). Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư dịch. Hà Nội: Trường Viết văn Nguyễn Du Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận và thi pháp tiểu thuyết
Tác giả: Bakhtin M.M
Năm: 1992
2. Bakhtin M.M. (1998). Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki. (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch). Hà Nội: Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki
Tác giả: Bakhtin M.M
Năm: 1998
3. Bakhtin M.M. (1999).Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực. (Ngân Xuyên dịch), Tạp chí Văn học, số 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn học
Tác giả: Bakhtin M.M
Năm: 1999
4. Bakhtin M.M. (2003). (in lần thứ hai), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư dịch. Hà Nội: Hội Nhà văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận và thi pháp tiểu thuyết
Tác giả: Bakhtin M.M
Năm: 2003
5. Bằng Giang. (1974). Mảnh vụn văn học sử. Sài Gòn: Chân lưu Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mảnh vụn văn học sử
Tác giả: Bằng Giang
Năm: 1974
6. Bằng Giang. (1992). Văn học Quốc ngữ Nam Kỳ 1865 – 1930. Thành phố Hồ Chí Minh: Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Quốc ngữ Nam Kỳ 1865 – 1930
Tác giả: Bằng Giang
Năm: 1992
7. Bằng Giang. (1993). Truyện Tàu và một số tiểu thuyết gia đầu tiên ở Việt Nam, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (100), TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức ngày nay
Tác giả: Bằng Giang
Năm: 1993
8. Bích Thu. (2001). Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ, Tạp chí Văn học, số 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn học
Tác giả: Bích Thu
Năm: 2001
9. Bùi Đức Tịnh. (1992). Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới (1865 - 1932). Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới (1865 - 1932)
Tác giả: Bùi Đức Tịnh
Năm: 1992
10. Bùi Đức Tịnh. (2005). Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỷ 20. Thành phố Hồ Chí Minh: Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỷ 20
Tác giả: Bùi Đức Tịnh
Năm: 2005
11. Bùi Văn Lợi. (1998). Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945 (Diện mạo và đặc điểm). Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường đại học sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945 (Diện mạo và đặc điểm)
Tác giả: Bùi Văn Lợi
Năm: 1998
12. Cao Kim Lan. (2005). Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện. Nghiên cứu Văn học, số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu Văn học
Tác giả: Cao Kim Lan
Năm: 2005
13. Cao Kim Lan. (2009). Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả. Nghiên cứu Văn học, số 8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu Văn học
Tác giả: Cao Kim Lan
Năm: 2009
14. Cao Thị Hảo - Ngô Quốc Tuấn. (2013). Lạ hóa một yếu tố thành công trong tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam. Văn nghệ (17), tr.17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn nghệ
Tác giả: Cao Thị Hảo - Ngô Quốc Tuấn
Năm: 2013
15. Cao Xuân Mỹ. (2001). Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Tác giả: Cao Xuân Mỹ
Năm: 2001
16. Claudine Salmon. (2004). Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ XVII - thế kỷ XX). Trần Hải Yến dịch. Hà Nội: Khoa học Xã hội 17. Đào Duy Hiệp. (2008). Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại. Hà Nội:Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ XVII - thế kỷ XX)". Trần Hải Yến dịch. Hà Nội: Khoa học Xã hội 17. Đào Duy Hiệp. (2008). "Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại
Tác giả: Claudine Salmon. (2004). Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ XVII - thế kỷ XX). Trần Hải Yến dịch. Hà Nội: Khoa học Xã hội 17. Đào Duy Hiệp
Năm: 2008
18. Đặng Anh Đào. (1992). Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết. Tạp chí Văn học, số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn học
Tác giả: Đặng Anh Đào
Năm: 1992
19. Đặng Anh Đào. (1994). Tính chất hiện đại của tiểu thuyết. Tạp chí Văn học, số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Văn học
Tác giả: Đặng Anh Đào
Năm: 1994
20. Đặng Anh Đào. (1995). Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Hà Nội: Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại
Tác giả: Đặng Anh Đào
Năm: 1995
21. Đinh Trí Dũng. (2005). Từ những ảnh hưởng của thể loại truyện Nôm đến những cách tân theo hướng hiện đại của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thời kỳ đầu. Nghiên cứu Văn học, số 7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu Văn học
Tác giả: Đinh Trí Dũng
Năm: 2005

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w