Khái quát về quản lý di tích lịch sử, văn hóa
Một số khái niệm cơ bản
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi và bổ sung năm 2009, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là những sản phẩm có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Cộng hòa XHCN Việt Nam Di sản văn hóa phi vật thể là các sản phẩm tinh thần liên kết với cộng đồng hoặc cá nhân, thể hiện bản sắc văn hóa và được tái tạo qua các hình thức như truyền miệng, truyền nghề và trình diễn Trong khi đó, di sản văn hóa vật thể bao gồm các sản phẩm vật chất như di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia, có giá trị lịch sử và văn hóa đáng kể.
UNESCO phân chia di sản văn hóa thành hai loại chính: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể Di sản văn hóa vật thể bao gồm các di tích lịch sử, công trình kiến trúc, đền đài, cung điện, sách cổ, mẫu vật bảo tàng và công cụ sản xuất từ các giai đoạn lịch sử Trong khi đó, di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, ca múa, sân khấu, ngôn ngữ, cùng với các sinh hoạt và kinh nghiệm dân gian như lễ hội, nghi lễ, phong tục tập quán, y học dân tộc, nghệ thuật nấu ăn và bí quyết sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ.
Sự phân loại di sản văn hóa chỉ mang tính tương đối, đặc biệt là đối với di sản văn hóa phi vật thể Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể luôn có mối liên kết chặt chẽ, tạo nên những thực thể sống động trong đời sống văn hóa.
Di sản văn hóa là thành quả của quá trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước của người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử Nó phản ánh sự phát triển, thành tựu và khả năng của dân tộc, đồng thời là minh chứng cho sự giao thoa và phát triển trong đời sống xã hội Di sản văn hóa cũng thể hiện những đặc trưng cơ bản, giúp phân biệt giữa các dân tộc và quốc gia trong các bối cảnh cụ thể về không gian và thời gian.
1.1.1.2 Di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa (DTLSVH) là một yếu tố quan trọng trong đời sống văn hóa (DSVH), được định nghĩa trong nhiều văn bản khác nhau Theo Điều 1 Hiến chương Venice-Italia năm 1964, di tích lịch sử không chỉ là công trình kiến trúc mà còn bao gồm cả cảnh quan đô thị và nông thôn, phản ánh nền văn minh và sự kiện lịch sử Điều này có nghĩa là di tích không chỉ là các công trình lớn như chùa Thày hay chùa Tây Phương, mà còn là những di tích khiêm tốn hơn, như phố cổ Hội An hay làng cổ Đường Lâm Các khung cảnh nông thôn, như bản Lác ở Mai Châu, cũng cần được bảo tồn và trân trọng, vì qua thời gian, những di tích này đã trở nên quý hiếm và có giá trị văn hóa sâu sắc.
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Di sản văn hóa vật thể (DTLSVH) bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm cùng với di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học Danh lam thắng cảnh được định nghĩa là những cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên và các công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ và khoa học.
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa, tại Điều 11, xác định di tích bao gồm bốn loại hình chính: di tích lịch sử (bao gồm di tích lưu niệm sự kiện và danh nhân), di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ, và danh lam thắng cảnh.
Di tích lịch sử văn hóa (DTLSVH) là những địa điểm quan trọng lưu giữ giá trị văn hóa khảo cổ, ghi dấu lịch sử dân tộc và các sự kiện chính trị có ý nghĩa lớn Chúng phản ánh các chiến công chống xâm lược, ghi nhớ nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc và các danh nhân văn hóa, khoa học Mỗi DTLSVH đều mang trong mình giá trị văn hóa, lịch sử, thể hiện quá trình hình thành và phát triển xã hội qua các thời kỳ Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII khẳng định rằng văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động, sáng tạo và đấu tranh của cộng đồng các dân tộc, đồng thời cũng là kết quả của việc giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa từ nhiều nền văn minh khác nhau.
1.1.1.3 Quản lý Đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý Quan niệm truyền thống cho rằng: Quản lý là quá trình tác động có ý thức của chủ thể vào một bộ máy (đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục tiêu cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã xác định Như vậy quản lý có các thành phần chủ thể quản lý; đối tượng quản lý; mục tiêu quản lý Ba thành phần này gắn bó chặt chẽ tạo nên hoạt động của bộ máy
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “Quản lý” thường được hiểu là việc trông nom, sắp xếp công việc, và theo dõi quá trình thực hiện Theo nghĩa Hán Việt, “Quản” mang ý nghĩa lãnh đạo và chỉ đạo một công việc cụ thể.
"Lý" có nghĩa là trông nom và coi sóc, trong khi từ "Management" trong tiếng Anh mang ý nghĩa quản lý, liên quan đến hoạt động của bàn tay.
Từ đó chuyển sang nghĩa hành động theo một quan điểm tác động để dẫn dắt
Trong cuốn Tư bản, C Mác nhấn mạnh rằng quản lý là một chức năng đặc biệt phát sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động Bản chất của quản lý và hoạt động quản lý xuất phát từ sự phân công và hợp tác lao động Quản lý là hoạt động khách quan cần thiết cho nỗ lực tập thể nhằm đạt được mục tiêu chung Hoạt động quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ quy mô nhỏ đến lớn, và độ phức tạp của nó tỷ lệ thuận với trình độ xã hội; khi yêu cầu quản lý tăng cao, vai trò của quản lý cũng trở nên quan trọng hơn.
Hiện nay, thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến nhưng chưa có định nghĩa thống nhất Quản lý thường được hiểu là hoạt động có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý nhằm tác động vào một đối tượng nhất định, điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi con người để duy trì sự ổn định và phát triển theo các mục tiêu đã đề ra.
Quản lý xã hội là hoạt động cần thiết để xác định mục tiêu, hoạch định kế hoạch hành động và tổ chức, giúp cá nhân, nhóm, tổ chức đạt được mục đích đã đề ra, đồng thời thỏa mãn nhu cầu phát triển cá nhân và xã hội Hoạt động này còn giúp xây dựng và phát triển hệ giá trị, niềm tin, động cơ, và chuẩn mực văn hóa của tổ chức, tạo điều kiện cho các thành viên tương tác với các tổ chức khác Do đó, việc tổ chức quản lý hiệu quả sẽ góp phần giải quyết mâu thuẫn và xung đột giữa cá nhân, nhóm xã hội và các cộng đồng.
1.1.1.4 Quản lý di tích lịch sử văn hóa
Quản lý văn hóa là một thuật ngữ mới, có thể được tiếp cận từ ba bình diện: văn hóa như một nền văn hóa, văn hóa như những thuộc tính văn hóa, và văn hóa như các hoạt động văn hóa Bài viết này sẽ tập trung vào khái niệm quản lý hoạt động văn hóa, nhằm hiểu rõ hơn về cách thức tổ chức và điều hành các hoạt động liên quan đến văn hóa.
Văn bản của Đảng và nhà nước về công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa
Khi thực hiện nhiệm vụ quản lý di tích, cần tuân thủ đúng các đường hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra Những đường hướng này được thể hiện rõ trong các văn bản pháp lý đã ban hành, là cơ sở quan trọng cho công tác quản lý di sản văn hóa lịch sử.
Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã thông qua Nghị quyết số 03-NQ/TW vào ngày 16/7/1998, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc.
Nghị quyết nhấn mạnh rằng di sản văn hóa (DSVH) là tài sản quý giá, kết nối cộng đồng dân tộc và là nền tảng của bản sắc dân tộc Bảo tồn và phát huy giá trị của các DSVH không chỉ giữ gìn những truyền thống văn hóa mà còn tạo điều kiện cho sự sáng tạo các giá trị mới và giao lưu văn hóa.
Một trong mười nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa là bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc Bản sắc này được hình thành qua các giai đoạn lịch sử, chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố và giá trị văn hóa bền vững Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, bao gồm cả văn hóa bác học và dân gian, cùng với văn hóa cách mạng, cả vật thể lẫn phi vật thể.
Hội nghị IX của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 33-NQ/TW vào ngày 9/6/2014, nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Nghị quyết nhấn mạnh việc xây dựng cơ chế hợp lý để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa song song với phát triển kinh tế - xã hội Cần bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử-văn hóa tiêu biểu nhằm phục vụ giáo dục truyền thống và thúc đẩy phát triển kinh tế, đồng thời gắn kết việc bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch Ngoài ra, cần phục hồi và bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống đang có nguy cơ mai một, đồng thời phát huy các di sản được UNESCO công nhận để quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.
- Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá năm 2009
Luật hiện hành đã đáp ứng nhu cầu quản lý đất nước trong bối cảnh hiện tại, với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời khuyến khích toàn dân sống, học tập và làm việc theo pháp luật.
Luật Di sản văn hóa đã thiết lập nền tảng pháp lý cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Chương 1 của luật xác định rõ các khái niệm liên quan đến di sản văn hóa, bao gồm di sản văn hóa vật thể, di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh Chương 4 tập trung vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm cả di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh Chương 5 quy định về quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát triển di sản.
Luật Di sản văn hóa xác định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân và chủ sở hữu đối với di sản văn hóa (DSVH), quy định những hành vi bị nghiêm cấm, cơ chế khen thưởng và xử phạt vi phạm Các quy định của luật được xây dựng nhằm tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế và du lịch, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, luật vẫn gặp phải một số hạn chế, đặc biệt là trong việc cân bằng giữa bảo tồn và phát triển, dẫn đến tình trạng thương mại hóa di tích Nhiều di tích đang bị biến dạng do hoạt động thương mại, gây tổn hại đến giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và kiến trúc của chúng.
Nghị định 98/2010/NĐ-CP, ban hành ngày 06/11/2010, của Chính phủ, cung cấp hướng dẫn chi tiết cho việc thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2009 Văn bản này đóng vai trò là quy phạm dưới luật, nhằm cụ thể hóa các quy định trong Luật Di sản văn hóa, đặc biệt tập trung vào công tác quản lý di sản văn hóa.
Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/09/2012 của Chính phủ quy định rõ thẩm quyền, trình tự và thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch cũng như dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh.
Nghị định nhằm hướng dẫn cụ thể hóa Luật Di sản văn hóa năm
2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm
Năm 2009, các vấn đề liên quan đến quy hoạch bảo tồn và khôi phục di tích lịch sử trở nên nổi bật, bao gồm thẩm quyền, trình tự và thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch cũng như các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi các di tích văn hóa và danh lam thắng cảnh.
- Thông tư 09/2011/TT-BVHTTDL ngày 14 tháng 7 năm 2011 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc quy định nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích - văn hóa và danh lam thắng cảnh
Thông tư hướng dẫn lập hồ sơ khoa học cho việc xếp hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh cấp tỉnh, di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt Hồ sơ khoa học áp dụng cho công trình xây dựng, địa điểm, cảnh quan thiên nhiên và khu vực thiên nhiên trong danh mục kiểm kê di tích của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Điều này được quy định tại khoản 14 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, với các tiêu chí tại Điều 28 của Luật Di sản văn hóa đã được sửa đổi, bổ sung.
- Thông tư 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
Thông tư này quy định các điều kiện năng lực và hành nghề của tổ chức, cá nhân tham gia lập quy hoạch và thực hiện các dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích Nó bao gồm việc lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công và thực hiện thi công bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích Ngoài ra, thông tư cũng nêu rõ nội dung hồ sơ thiết kế tu bổ di tích và thẩm quyền thẩm định hồ sơ này.
Thông tư số 17/2013/TT-BVHTTDL ban hành ngày 30/12/2013 hướng dẫn chi tiết về việc xác định chi phí cho các hoạt động lập quy hoạch, dự án và báo cáo kinh tế - kỹ thuật liên quan đến bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.
Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa
Luật Di sản văn hóa năm 2001 và các sửa đổi, bổ sung năm 2009, cùng với các Nghị định hướng dẫn thi hành, đã cụ thể hóa chính sách pháp luật và tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa được quy định rõ ràng tại Điều 54 và Điều 55 của Luật Di sản văn hóa.
2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, cụ thể như sau: Điều 54: Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm:
1 Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị DSVH
2 Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa
3 Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về DSVH
4 Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về DSVH
5 Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
6 Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
7 Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
8 Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về DSVH
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều chỉnh sự phát triển văn hóa quốc gia, góp phần hiện thực hóa các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước Điều này giúp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước theo Điều 55 của Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi và bổ sung năm 2009.
1 Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về DSVH
2 Bộ VHTT&DL chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về DSVH
3 Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về DSVH theo phân công của Chính phủ Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ VHTT&DL để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về DSVH
4 UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước về DSVH ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ [42, tr.32-33]
Luật di sản văn hoá, đặc biệt là Điều 54 và 55, đã xác định rõ vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo tồn di sản văn hoá Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho những người trực tiếp quản lý di tích lịch sử, nâng cao hiệu quả trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tổng quan về đền Đức Đệ Nhị, xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
Diện mạo đền Đức Đệ Nhị, xã Khánh An, huyện Yên Khánh
Xã Khánh An nằm ở phía tây tây bắc huyện Yên Khánh, giáp xã Khánh Phú và sông Đáy ở phía bắc, sông Vạc cùng xã Khánh Thượng, Khánh Dương huyện Yên Mô ở phía nam, xã Khánh Cư ở phía đông, và xã Khánh Hòa ở phía tây Tổng diện tích tự nhiên của xã là 740,3 ha.
Xã Khánh An có dân số 6.316 người, với mật độ 884 người/km², chủ yếu thuộc dân tộc Kinh và theo hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên Chúa giáo Người dân nơi đây chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, nổi bật với sự cần cù, chịu khó, giản dị và khiêm tốn Địa hình xã không bằng phẳng, với nhiều vùng đất cao thấp khác nhau, trong đó dải đất cát pha chạy theo hướng Đông - Nam tạo điều kiện cho việc trồng màu và xây dựng nhà ở Những dải đất này được hình thành từ phù sa sông Đáy kết hợp với sóng biển Khí hậu của xã mang đặc trưng của tiểu khí hậu đồng bằng sông Hồng, với đặc điểm nhiệt đới ẩm.
Xã Khánh An, gắn liền với triều đại nhà Đinh - Tiền Lê thế kỷ X, là vùng đất nổi bật với nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước Người dân Khánh An không chỉ chia sẻ những đặc điểm văn hóa chung của người Việt mà còn duy trì những tập tục riêng biệt, nhiều trong số đó vẫn được gìn giữ cho đến ngày nay.
Hội làng Yên Xuyên diễn ra vào ngày mùng 6 và mùng 7 tháng Giêng, đánh dấu một trong những lễ hội lớn nhất trong mùa xuân Tại xã Khánh An, có nhiều di tích lịch sử - văn hóa, với hầu hết các làng đều sở hữu đình và chùa Các đình, đền, miếu trong khu vực chủ yếu thờ các vị danh tướng thời nhà Đinh, bên cạnh một số ít thờ thánh thần và những người có công lao lớn trong việc thi cử và phục vụ đất nước.
Nhân dân Khánh An từ sớm đã có ý thức học hành và thi cử, với nhiều người đạt thành tích cao như tiến sĩ Tạ Đại Lang thời Trần và các nhân vật nổi bật thời Nguyễn như Tú Toại, Quan Chủ, Tú Uẩn, và Tú Tự Trong số đó, Tú Uẩn và Tú Tự, còn được gọi là Đồ Uẩn và Đồ Tự, là những nhà nho dạy chữ Hán, đóng góp quan trọng vào nền giáo dục Đặc biệt, nhà cách mạng Tạ Quang Sằn cũng xuất thân từ nơi đây Những nhân vật này được coi là “nguyên khí của quốc gia”, góp phần tạo nên diện mạo văn hóa và lịch sử của đất nước, đồng thời mang lại niềm tự hào cho nhân dân Khánh An về vùng đất “địa linh nhân kiệt” nổi tiếng.
Nhân dân Khánh An, từ khi hình thành làng xã, đã gắn bó bền chặt với mảnh đất quê hương Họ sống hiền hòa, thủy chung, đoàn kết và thương yêu nhau trong cộng đồng, hỗ trợ lẫn nhau trong những lúc khó khăn Với kinh nghiệm đấu tranh với thiên nhiên, người dân đã biết khoanh vùng chắn nước, thau chua rửa mặn và xây dựng xóm làng Các thế hệ con người Khánh An kế tiếp nhau phát huy đức tính cần cù, chịu khó và lao động sáng tạo, góp phần làm cho quê hương ngày càng giàu mạnh.
Theo số liệu kiểm kê năm 2012 của Sở VH,TT&DL tỉnh Ninh Bình, xã Khánh An có 12 di tích được ghi nhận Tuy nhiên, khảo sát đến cuối năm 2017 cho thấy xã Khánh An có tổng cộng 24 di tích và cơ sở thờ tự, không bao gồm các nhà thờ công giáo Trong số này, có 8 di tích được Nhà nước xếp hạng, bao gồm 3 di tích cấp Quốc gia (1 đình, 2 đền) và 5 di tích cấp tỉnh (4 đền, 1 nhà thờ họ).
Di tích tại xã Khánh An chủ yếu được phân loại thành hai loại: di tích lịch sử và di tích kiến trúc nghệ thuật, mặc dù sự phân chia này chỉ mang tính tương đối.
Theo Sở VH&TT tỉnh Ninh Bình, xã Khánh An hiện có 12 di tích tổ chức lễ hội, bao gồm 1 đình, 8 đền và 2 chùa, chủ yếu diễn ra quy mô thôn, làng Trong đó, lễ hội làng Yên Xuyên và lễ hội làng Yên Phú được tổ chức thường xuyên Đền Đức Đệ Nhị, nằm trên khu đất 625m², tọa lạc trong không gian văn hóa làng quê thanh bình, hướng Đông Nam, phía Bắc giáp nhà văn hóa thôn Bùi, phía Nam là đường liên thôn, phía Đông là khu dân cư và phía Tây là đường trục xã Đền thờ Lịch Lộ Đại Vương, một vị tướng thời nhà Đinh, người đã giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, góp phần lập nên nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam.
Trước năm 2000, các di tích xếp hạng cấp Quốc gia đã được thực hiện, trong khi các di tích cấp tỉnh vẫn tiếp tục được duy trì gần đây Xã Khánh An hiện có 08 di tích được công nhận, bao gồm Đền Tam Thánh, chùa Yên Lữ, đình Yên Phú, đền Văn Giáp, đền Thánh Cả, đền Đức Bà, đền Đức Đệ Nhị, đền Lăng, đền Thượng Yên Lý và Nhà thờ họ Đoàn Yên Cống Hầu hết các di tích này là công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đình, đền, chùa, miếu, với số lượng lớn là di tích lịch sử Những di tích này không chỉ mang phong cách kiến trúc truyền thống và bề dày lịch sử, mà còn chứa đựng hệ thống cổ vật, di vật và giá trị di sản văn hóa phi vật thể quý giá.
Di tích là những dấu vết vật chất tồn tại trong không gian và thời gian, chịu ảnh hưởng của thiên nhiên và xã hội Hệ thống di tích thường gặp hiện tượng xuống cấp do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố xâm hại, đặc biệt là các di tích có kiến trúc cổ Những di tích này không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn chứa đựng giá trị văn hóa và khoa học Tuy nhiên, phần lớn các công trình được xây dựng chủ yếu từ chất liệu gỗ, do đó dễ bị hư hại và thường xuyên cần được bảo quản, tu bổ.
Nhiều di tích hiện còn chỉ là các công trình mới được phục hồi hoặc kiến trúc từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây Một số di tích vẫn tồn tại dưới dạng nhà cấp 4 tạm bợ, được xây dựng bằng vật liệu kém bền như tường gạch và cột gỗ tạp Hầu hết các di tích này hiện đang trong tình trạng xuống cấp, không đáp ứng yêu cầu về kiến trúc và thẩm mỹ, làm giảm giá trị văn hóa của chúng.
Hiện nay, 66% di tích cấp quốc gia, bao gồm đình Yên Phú và đình Văn Giáp, đang trong tình trạng xuống cấp Đối với di tích cấp tỉnh, 20% như nhà thờ họ Đoàn Yên Cống và đền Thượng Yên Lý cũng đang gặp vấn đề nghiêm trọng Các di tích này, được nhà nước công nhận, có giá trị văn hóa cao và cần được ưu tiên bảo vệ, tu bổ Hầu hết các di tích xuống cấp nặng là các công trình kiến trúc gỗ, đặc biệt là các cấu kiện chịu lực chính như cột và xà, trong khi các di tích xuống cấp ở mức độ trung bình chủ yếu gặp vấn đề ở mái, tường bao và nền.
Giá trị của di tích đền Đức Đệ Nhị
Đền Đức Đệ Nhị thờ Lịch Lộ Đại Vương, hay còn gọi là Lịch Công, là một nhân vật lịch sử quan trọng thời nhà Đinh Ông là một vị tướng có công lớn trong việc giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, góp phần xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam.
Theo Lý lịch di tích tại đình Yên Phú, xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Lịch Lộ Đại Vương, con trai của ông Cao Điện và bà Vân Thị, có nguồn gốc từ trang Yên Bạc, đã được xếp hạng cấp quốc gia năm 2001 Tổ tiên ông Cao Điện từng sống ở trang Đồng Thi, huyện Thiên Bản, trước khi chuyển đến Yên Bạc Ông kế thừa nghề phủ thủy từ cha nhưng vẫn giữ đạo làm gốc và tích cực làm phúc Vợ chồng ông Cao nổi tiếng với tấm lòng nhân ái, thường xuyên giúp đỡ người nghèo, nhưng lại không có con sau nhiều năm cưới nhau Một đêm, trong giấc mơ, họ gặp một cụ già từ trên trời xuống, trao cho bà Điện một lưỡi tầm sét và hứa rằng đây sẽ là điềm lành sinh con trai, người sẽ nổi danh trong thiên hạ.
Bà Điện mang thai 11 tháng và vào ngày 15 tháng Chạp năm Bính Thân, bà sinh ra một cậu con trai khôi ngô tuấn tú Ngay khi cậu chào đời, không khí xung quanh trở nên trong lành và tiếng sấm vang lên trên bầu trời Đến năm 3 tuổi, cậu bé có sức mạnh như sắt và giọng nói vang dội, khiến người cha quyết định đặt tên cho con là Lịch.
Bà Điện mơ thấy một người tự xưng là quan Hành Khiển trên trời xin đầu thai làm con Sau đó, bà mang thai và vào ngày 15 tháng 8, bà sinh một bé trai với nét mặt thanh tú, tai to và mặt vuông Ông Điện vui mừng đặt tên con là Khiển.
Từ khi còn nhỏ, hai anh em đã bộc lộ sự thông minh và tài năng vượt trội Cha mẹ đã tìm thầy dạy dỗ cho các em, hàng ngày luyện tập cả văn lẫn võ Chỉ sau một thời gian ngắn, hai anh em đã nắm vững võ nghệ và hiểu biết sâu sắc về văn chương.
Năm 22 tuổi, ông Lịch mất cha mẹ, anh em thương xót và tổ chức tang lễ trong 3 năm Họ cảm thấy chưa báo đáp được công ơn sinh thành của cha mẹ, từ đó quyết tâm chăm lo việc binh đao Trong bối cảnh đất nước loạn lạc với 12 sứ quân, họ nghe tin Đinh Bộ Lĩnh, một nhân tài văn võ, đang khởi nghĩa tại Hoa Lư Hai anh em đã đến yết kiến và được Bộ Lĩnh nhận ra tài năng, giao cho ông Lịch chức Tiền bộ tướng quân và ông Khiển chức Tán chỉ huy sứ, sau đó phái họ đi chiêu mộ binh sĩ.
Hai ông đã trở về quê hương để thành lập đồn, chiêu mộ thanh niên khỏe mạnh, phát động lời kêu gọi hào kiệt và kêu gọi dân chúng trong vùng tham gia hỗ trợ nghĩa quân dẹp loạn cát cứ Sự ủng hộ từ người dân đã nhanh chóng đổ về, tạo thành một lực lượng mạnh mẽ chỉ trong thời gian ngắn.
Chỉ trong 10 ngày, hai ông đã tập hợp được 30.000 quân Họ mổ trâu bò để đãi quân, tổ chức đội ngũ chỉnh tề, chỉnh đốn vũ khí và chuẩn bị lương thực trước khi kéo quân về Hoa Lư để hợp lực với Đinh Bộ Lĩnh.
Sứ quân Đinh Bộ Lĩnh ngày càng mạnh mẽ và có ảnh hưởng lớn Khi bị bao vây trong một cuộc tấn công của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc tại động Đỗ Giang, hai vị tướng Lịch và Khiển từ Phong Châu đã nhanh chóng dẫn 5 nghìn tinh binh, trang bị vũ khí hiện đại, đến cứu viện Với tiếng chiêng trống vang dội và cờ xí bay phấp phới, họ đã tấn công mạnh mẽ vào đội quân Đỗ Cảnh Thạc, đánh bại đối thủ và cứu gia đình Đinh khỏi nguy hiểm.
Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, định đô ở Hoa
Lư, ban thưởng cho các công thần, chấn chỉnh nhà nước và xây dựng nền độc lập tự chủ Hai anh em ông Lịch và ông Khiển đã xin nhà vua cho trở về quê hương và được miễn thuế, lao dịch tại trang Yên Bạc, điều này đã được Đinh Tiên Hoàng chấp nhận.
Hai ông đã chấn chỉnh lại làng xóm, cùng dân chúng lo chuyện làm ăn và xây dựng quê hương Một hôm, khi trời nổi giông bão, ông Lịch bỗng biến mất, chỉ còn lại áo mũ Đinh Tiên Hoàng nghe tin đã thương xót và phong ông là Lịch Lộ Đại vương, đồng thời ra lệnh lập đền thờ Sau khi ông mất, sự linh ứng của ngài trở nên hiển hiện; các tướng sỹ khi xuất quân đều làm lễ tế tại đền, và trong những năm hạn hán, cầu đảo đều được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu Qua các triều đại, ngài được sắc phong mỹ tự Tĩnh hậu trung đẳng tôn thần.
- Niên đại, quá trình tồn tại và phát triển của di tích
Di tích được xây dựng hơn 500 năm trước, ban đầu lợp bằng tranh nứa và sau đó được nâng cấp bằng gỗ khang trang Tài liệu cổ nhất hiện nay, sắc phong thời Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783), chứng minh di tích đã tồn tại trước thời điểm này Mặc dù trải qua hàng trăm năm với sự tác động của thời tiết, con người và chiến tranh, di tích đã bị xuống cấp Tuy nhiên, nhờ nỗ lực kịp thời của chính quyền và nhân dân địa phương, di tích đã được trùng tu nhiều lần, bao gồm các năm 1919, 1956, 1967, 1981, 2002, 2006, với các hạng mục như trùng tu Hậu cung, xây dựng nhà bia, và cổng Tam Quan vào năm 2012.
- Một số hiện vật tiêu biểu:
Di tích này bảo tồn nhiều tư liệu và hiện vật quý giá, mang ý nghĩa lịch sử và văn hóa sâu sắc Việc xây dựng Hồ sơ xếp hạng di tích là một bước quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản này.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thống kê được 95 hiện vật còn lưu giữ tại di tích, bao gồm 60 hiện vật bằng gỗ, 8 bằng sứ, 14 bằng đồng, 8 bằng giấy và 5 bằng gốm, đất nung Nổi bật trong số này là các hiện vật cổ có giá trị văn hóa, lịch sử và thẩm mỹ đáng chú ý.
Khám thờ có kích thước cao 170cm, dài 90cm và rộng 72cm, được sơn son thếp vàng tinh xảo Bên trong, long ngai đặt bài vị Lịch Lộ Đại vương và được trang trí với hình ảnh tứ linh cùng mặt hổ phù, tạo nên vẻ trang nghiêm và linh thiêng.
Vai trò của đền Đức Đệ Nhị trong đời sống cộng đồng
Di tích lịch sử văn hóa đền Đức Đệ Nhị là một biểu tượng đẹp và thân thương của làng quê Việt Nam, khắc sâu vào tâm trí mỗi người con Nó không chỉ giữ vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng mà còn góp phần phát triển văn hóa của người dân nơi đây.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người dân là một mục tiêu quan trọng bên cạnh phát triển kinh tế, xã hội Các thiết chế văn hóa, đặc biệt là di tích đền Đức Đệ Nhị, đóng vai trò then chốt trong việc phục vụ phát triển văn hóa nông thôn và gắn kết cộng đồng Giá trị của đền Đức Đệ Nhị được thể hiện rõ qua lễ hội truyền thống, không chỉ là hoạt động tín ngưỡng mà còn là dịp vui chơi giải trí, thể hiện tinh thần tập thể Lễ hội đã gắn bó với dân làng Yên Xuyên từ xa xưa, tạo nên những truyền thống tốt đẹp và là phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của mỗi người Với nghề nông nghiệp chủ yếu, lễ hội giúp người dân gắn kết qua các công việc chung, và sự tham gia nhiệt tình của các dòng họ lớn như họ Đinh, họ Nguyễn, họ Đỗ càng làm tăng thêm sự phong phú và ý nghĩa cho lễ hội.
Trong dịp lễ hội, mọi người có cơ hội cùng nhau ăn uống và tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, thể hiện lòng thành kính đối với Đức Lịch Lộ Đại Vương Điều này không chỉ làm tăng sự gắn kết giữa các thành viên trong làng mà còn củng cố tinh thần đoàn kết và tình làng nghĩa xóm, tạo nên sức mạnh tập thể cho cộng đồng.
Giá trị di tích đền Đức Đệ Nhị không chỉ nằm ở văn hóa vật chất mà còn ở tinh thần, góp phần quan trọng trong giáo dục truyền thống lịch sử văn hóa cho thế hệ trẻ Đây là nơi khơi dậy sự đoàn kết, tạo động lực cho cộng đồng trong lao động sản xuất Ông Đỗ Ngọc Ánh, Trưởng ban Khánh tiết làng Yên Xuyên, nhấn mạnh rằng đền Đức Đệ Nhị là di tích linh thiêng, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc Qua nhiều thế kỷ, di tích vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc và ý chí độc lập tự cường, vinh danh những anh hùng đã hy sinh vì tổ quốc.
Người dân làng nhận thức rõ trách nhiệm bảo vệ di tích đền Đức Đệ Nhị, đồng thời phát triển kinh tế địa phương Các hộ dân cư xung quanh đã khai thác nguồn thu từ di tích, mở ra nhiều dịch vụ như trông xe, bán vàng mã và đồ lễ cho khách tham quan và chiêm bái.
Quản lý di tích lịch sử văn hóa (DTLSVH) là một hoạt động quan trọng của cơ quan quản lý văn hóa nhằm thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực này Để nâng cao hiệu quả quản lý DTLSVH, cần làm rõ các vấn đề như khái niệm di sản văn hóa (DSVH), DTLSVH, và quản lý DTLSVH, cùng với cơ sở khoa học và pháp lý, cũng như nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa nói chung và di tích lịch sử văn hóa nói riêng.
Khánh An là một xã có bề dày lịch sử và văn hóa lâu đời, với nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú Truyền thống lịch sử của Khánh An đã được gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ, tạo nên một di sản văn hóa đặc sắc cho vùng đất này.
An có 24 di tích, bao gồm 3 di tích cấp Quốc gia và 5 di tích cấp tỉnh, được chia thành hai loại hình chính: di tích lịch sử và di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Đức Đệ Nhị, được công nhận di tích cấp tỉnh năm 2013, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam, phản ánh sâu sắc về đặc trưng văn hóa, cội nguồn và truyền thống đấu tranh của các dân tộc Để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, các cơ quan quản lý văn hóa cần nghiên cứu và triển khai các giải pháp hiệu quả.