1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn thạc sĩ quản lý di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật khu di tích phố hiến, thành phố hưng yên

153 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 153
Dung lượng 6,91 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái quát về vấn đề nghiên cứu (19)
    • 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản (19)
    • 1.1.2. Nội dung quản lý di tích quốc gia đặc biệt (28)
  • 1.2. Cở sở pháp lý để tiến hành quản lý (29)
  • 1.3. Tổng quan về Khu di tích Phố Hiến (32)
    • 1.3.1. Khái quát về thành phố Hưng Yên và vùng đất Phố Hiến (32)
    • 1.3.2. Tên gọi, địa điểm phân bố, phân loại di tích tại Khu di tích Phố Hiến (37)
    • 1.3.3. Khái quát về các di tích nằm trong Khu di tích Phố Hiến (39)
    • 1.3.4. Giá trị và vai trò Khu di tích Phố Hiến (44)
  • Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT KHU DI TÍCH PHỐ HIẾN (19)
    • 2.1. Các chủ thể quản lý (55)
      • 2.1.1. Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch (55)
      • 2.1.2. Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch tỉnh Hưng Yên (56)
      • 2.1.3. Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Hưng Yên (58)
      • 2.1.4. Ban Quản lý di tích tỉnh Hưng Yên (58)
      • 2.1.5. Ban quản lý Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến (60)
      • 2.1.6. Ban quản lý di tích cơ sở (62)
      • 2.1.7. Cơ chế quản lý của các chủ thể quản lý (64)
    • 2.2. Công tác quản lý Khu di tích Phố Hiến (65)
      • 2.2.1. Sưu tầm, nghiên cứu, tư liệu hóa, xếp hạng di tích (65)
      • 2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật và quảng bá giá trị di tích (66)
      • 2.2.3. Quy hoạch, bảo tồn di tích (67)
      • 2.2.4. Công tác tu bổ, tôn tạo tại di tích (71)
      • 2.2.5. Quản lý dịch vụ, giữ gìn an ninh, trật tự (73)
      • 2.2.6. Khai thác, phát huy giá trị của di tích gắn với phát triển du lịch (75)
      • 2.2.9. Sự phối hợp của cộng đồng trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị (85)
    • 2.3. Đánh giá công tác quản lý Khu di tích Phố Hiến (88)
      • 2.3.1. Những kết quả đạt được (88)
      • 2.3.2. Những mặt hạn chế (90)
  • Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT KHU DI TÍCH PHỐ HIẾN (55)
    • 3.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước và các quan điểm bảo tồn hiện nay (96)
      • 3.1.1. Chủ trương quan điểm Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa (96)
      • 3.1.2. Các quan điểm bảo tồn di sản văn hóa hiện nay (98)
    • 3.2. Phương hướng của tỉnh Hưng Yên trong việc quản lý, bảo tồn và phát (100)
    • 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Khu di tích Phố Hiến (103)
      • 3.3.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức (103)
      • 3.3.2. Nhóm giải pháp tăng cường quản lý nhà nước (104)
      • 3.3.3. Huy động nguồn lực kinh tế để phát huy giá trị di tích (111)
      • 3.3.4. Phát huy vai trò cộng đồng (112)
  • KẾT LUẬN (116)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (119)
  • PHỤ LỤC (124)

Nội dung

Khái quát về vấn đề nghiên cứu

Một số khái niệm cơ bản

Di sản, theo nghĩa Hán Việt, được hiểu là tài sản quý giá mà chúng ta để lại và chuyển giao cho thế hệ sau Từ "di" mang ý nghĩa để lại và chuyển lại, trong khi "sản" chỉ những giá trị quý báu.

Di sản văn hóa được định nghĩa là tài sản quý giá từ quá khứ, bao gồm các tác phẩm nghệ thuật dân gian, công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và văn học, do các thế hệ trước tạo ra và để lại cho cuộc sống hiện tại.

Năm 1983, tại Hội nghị Di sản toàn quốc ở Anh, di sản được định nghĩa là những giá trị và tài sản mà thế hệ trước gìn giữ và truyền lại cho thế hệ hiện tại, cũng như những gì mà một nhóm người trong xã hội hiện nay mong muốn chuyển giao cho thế hệ tương lai.

Luật Di sản văn hóa Việt Nam (2001) định nghĩa: “Di sản văn hóa

Việt Nam là một tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc và là một phần của di sản văn hóa nhân loại, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Theo Điều 1 của Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), di sản văn hóa bao gồm cả di sản văn hóa phi vật thể và vật thể, là những sản phẩm có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

1.1.1.3 Giá trị của di sản văn hóa

Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm

2009) đưa ra 3 kiểu giá trị khi xem xét, đánh giá một sản phẩm vật chất, tinh thần của di sản Đó là:

Giá trị lịch sử của sản phẩm di sản văn hóa là những bằng chứng sống động, phản ánh quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người, cũng như của một quốc gia, dân tộc hay một vùng đất cụ thể.

Giá trị văn hóa của di sản văn hóa chính là thông điệp từ quá khứ, thể hiện sự sáng tạo và nghệ thuật ứng xử của con người Nó phản ánh ý thức kỷ luật bản năng và sự khác biệt giữa các nhóm người, các dân tộc, đồng thời thể hiện khát vọng vươn tới chân, thiện, mỹ.

Sản phẩm của di sản văn hóa không chỉ là những vật chứng lưu giữ tri thức của nhân loại, mà còn phản ánh sự hiểu biết và khám phá của con người về sự vận động của tự nhiên và xã hội Đồng thời, chúng cũng thể hiện tài năng sáng tạo phong phú của con người trong các lĩnh vực khác nhau.

Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự tồn tại và phát triển của con người phụ thuộc vào nỗ lực của các tổ chức, từ nhóm nhỏ đến quy mô quốc gia và quốc tế, đồng thời cần có sự quản lý nhất định.

Thuật ngữ “quản lý” có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau Trong tiếng Việt, “quản lý” thường được hiểu là trông nom, sắp đặt công việc, hoặc gìn giữ và theo dõi Theo cách hiểu từ âm Hán Việt, “quản” có nghĩa là lãnh đạo một việc, còn “lý” có nghĩa là trông nom, coi sóc Các nước phương Tây cũng sử dụng từ tương tự để chỉ hoạt động này.

“Management” có nghĩa là quản lý, liên quan đến việc điều hành và kiểm soát hoạt động Từ đó, nó chuyển sang ý nghĩa của hành động có chủ đích nhằm dẫn dắt và tác động đến kết quả.

Theo Các Mác, quản lý là một chức năng đặc biệt phát sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động, cần thiết để điều hòa các hoạt động cá nhân và thực hiện các chức năng chung trong sản xuất Ông so sánh việc quản lý như sự cần thiết của nhạc trưởng trong một dàn nhạc, cho thấy rằng quản lý là hoạt động khách quan nhằm đạt được mục tiêu chung thông qua nỗ lực tập thể Quản lý hiện diện ở mọi tổ chức, từ nhỏ đến lớn, và khi trình độ xã hội tăng cao, yêu cầu và vai trò của quản lý cũng ngày càng lớn hơn.

Quản lý là hoạt động có tổ chức nhằm tác động đến một đối tượng cụ thể, điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi con người, từ đó duy trì sự ổn định và phát triển theo các mục tiêu đã đề ra.

Với cách hiểu trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau:

Chủ thể quản lý, bao gồm con người hoặc tổ chức, là tác nhân tạo ra các tác động quản lý đến đối tượng quản lý Chủ thể này sử dụng các công cụ và phương pháp phù hợp theo những nguyên tắc nhất định để tác động lên đối tượng Đối tượng quản lý, như hành vi của con người và các quá trình xã hội, tiếp nhận trực tiếp sự tác động từ chủ thể quản lý Tùy thuộc vào từng loại đối tượng khác nhau, có thể phân chia thành các dạng quản lý khác nhau.

Mục tiêu quản lý là đích đến được xác định bởi chủ thể quản lý, tạo cơ sở cho các hành động và phương pháp quản lý phù hợp Sự ra đời của quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất trong công việc.

Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự tồn tại và phát triển của con người phụ thuộc vào nỗ lực của các tổ chức, từ nhóm nhỏ đến quy mô lớn hơn ở cấp quốc gia và quốc tế, và đều cần có một hệ thống quản lý nhất định.

Nội dung quản lý di tích quốc gia đặc biệt

Hiện nay, Việt Nam có 95 di tích được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt Tuy nhiên, việc quản lý các di tích này đang gặp nhiều thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực hợp tác giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng các địa phương.

Ngoài Luật Di sản văn hóa được ban hành vào năm 2001 và sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, Quốc hội còn thông qua nhiều bộ luật khác liên quan đến việc quản lý di tích, bao gồm Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 và Luật Đất đai.

2003, Luật Du lịch năm 2005, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Xây dựng (năm

2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật Tôn giáo, tín ngưỡng năm 2016 (có hiệu lực thi hành 01-01-2018)

Di tích quốc gia đặc biệt là một phần quan trọng của di sản văn hóa dân tộc Theo Điều 54 và Điều 55 của Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10, Quốc hội quy định rõ về nội dung quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa.

Theo Điều 54 của Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2001, quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm các nhiệm vụ chính như xây dựng và thực hiện chiến lược bảo vệ và phát huy giá trị di sản, ban hành văn bản pháp luật liên quan, tổ chức các hoạt động tuyên truyền và giáo dục pháp luật về di sản văn hóa, quản lý nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ chuyên môn, huy động và sử dụng nguồn lực để bảo vệ di sản, khen thưởng cho các cá nhân và tổ chức có thành tích trong việc bảo vệ di sản, tổ chức hợp tác quốc tế và thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về di sản văn hóa.

1 Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hoá

2 Bộ VHTT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về di sản văn hoá

3 Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hoá theo phân công của Chính phủ

Chính phủ quy định rõ trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ trong việc hợp tác với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để đảm bảo quản lý nhà nước thống nhất về di sản văn hóa.

4 Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước về di sản văn hoá ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.

Cở sở pháp lý để tiến hành quản lý

Quản lý Di sản văn hóa (DTLSVH) dựa trên các văn bản pháp lý của Nhà nước là nền tảng quan trọng cho hoạt động quản lý Trong đó, Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật Di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đóng vai trò then chốt trong việc quản lý Khu di tích Phố Hiến.

Việc ban hành luật di sản văn hóa tại Việt Nam năm 2001 đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, xác định rõ nghĩa vụ và quyền hạn của tổ chức, cá nhân và chủ sở hữu Luật này quy định các hành vi bị nghiêm cấm, cơ chế khen thưởng và xử phạt vi phạm di tích, đồng thời nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc bảo tồn di sản Đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), Quốc hội đã rà soát và ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa vào năm 2009, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Ngoài ra, để tiến hành quản lý dựa trên các văn bản như:

- Hiến chương Vernice (Italia) (1964) - Bản dịch lưu tại Cục Di sản Văn hoá, Bộ VH,TT&DL[14]

Nghị định số 70/2012/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 15-11-2012, quy định về thẩm quyền, trình tự và thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch và dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hóa (DTLSVH) và danh lam thắng cảnh Nghị định này thay thế Quyết định số 05/2003/QĐ - BVHTT ngày 6-2-2003 liên quan đến bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích văn hóa và danh lam thắng cảnh Ngoài ra, Nghị định 158/2013/NĐ-CP cũng được ban hành để bổ sung các quy định liên quan đến vấn đề này.

Nghị định 11-2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo, trong đó nêu rõ mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ, bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử - văn hóa.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như Quyết định số 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24-7-2001, phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020 Ngoài ra, Thông tư số 13/2010/TT-BVHTTDL ngày 30-12-2010 quy định trình tự, thủ tục đề nghị công nhận bảo vật quốc gia và Thông tư số 09/2011/TT-BVHTTDL ngày 14-7-2011 cũng góp phần quan trọng trong việc quản lý và bảo tồn di sản văn hóa.

Năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành quy định về hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử văn hóa (DTLSVH) Tiếp theo, Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28-12-2012 quy định chi tiết các quy định về bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích Ngoài ra, Thông tư số 20/2012/TT-BVHTTDL cũng được ban hành cùng ngày để bổ sung các quy định liên quan.

Thông tư 17/2013/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về hồ sơ và thủ tục liên quan đến việc gửi, nhận tư liệu di sản, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia Thông tư có hiệu lực từ ngày 01-07-2013, nêu rõ các điều kiện năng lực và hành nghề cho tổ chức, cá nhân tham gia lập quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích Nội dung bao gồm báo cáo kinh tế - kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công và quy trình thi công bảo quản, tu bổ di tích, cùng với thẩm quyền thẩm định hồ sơ thiết kế Thông tư cũng hướng dẫn xác định chi phí cho các hoạt động này, nhằm đảm bảo việc bảo tồn di sản văn hóa được thực hiện hiệu quả và đúng quy định.

Tỉnh Hưng Yên nhận thức rõ giá trị và tầm quan trọng của hệ thống di tích, đặc biệt là di tích Phố Hiến, đối với sự phát triển của tỉnh Từ khi thành lập, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản quản lý di tích lịch sử - văn hóa (DTLSVH) nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn Ngày 17-6-

Năm 1997, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 05/NQTV nhằm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, thúc đẩy nếp sống văn minh và xây dựng gia đình, làng văn hóa, trong đó chú trọng tu bổ và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa (DTLSVH), quản lý lễ hội và giáo dục cộng đồng bảo vệ di tích Ngày 25-7-1997, UBND tỉnh đã phát hành Chỉ thị số 28/CT-UBND về quản lý, bảo vệ và sử dụng DTLSVH và danh lam thắng cảnh Tiếp theo, vào ngày 28-5-1999, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 949/1999/QĐ-UB thành lập Ban quản lý di tích và danh thắng Đến ngày 31-8-2004, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thông qua Chương trình hành động số 99/CTr-TU để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ này.

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đề ra 8 nội dung quan trọng, trong đó có 3 nội dung liên quan đến việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Ngày 31-8-2004, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành Quyết định số 2142/2004/QĐ-UB về quy chế xếp hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh cấp tỉnh Tiếp theo, ngày 11-01-2005, Quyết định số 01/2005/QĐ-UB được ban hành để kiện toàn Ban quản lý di tích và danh thắng thuộc Sở VHTT tỉnh Vào ngày 23-11-2016, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 23/2016/QĐ-UBND quy định quản lý di tích, di vật, cổ vật, và bảo vật quốc gia Ngày 06-10-2016, Quyết định số 145/2016/QĐ-UBND phê duyệt Đề án đầu tư tu bổ và chống xuống cấp di tích xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia giai đoạn 2016 – 2020 Cuối cùng, ngày 28-7-2017, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2156/QĐ-UBND thành lập Ban quản lý Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến.

Các văn bản này cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tỉnh Hưng Yên, đóng vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác quản lý di tích lịch sử, đặc biệt là Khu di tích Phố Hiến.

Tổng quan về Khu di tích Phố Hiến

Khái quát về thành phố Hưng Yên và vùng đất Phố Hiến

Thành phố Hưng Yên nằm ở tọa độ 20 0 31’ - 20 0 43’ vĩ Bắc, 106 0 02’

Kinh Đông, tọa lạc tại tọa độ 106° 0' 06'', là một vùng đất có lịch sử lâu đời, nằm bên tả ngạn sông Hồng, cách thủ đô Hà Nội hơn 50 km về phía Nam Khu vực này giáp với huyện Kim Động ở phía Bắc và huyện Tiên ở phía Đông.

Lữ, nằm ở phía Tây giáp sông Hồng, là Phố Hiến xưa, hiện nay là thành phố Hưng Yên - một đô thị trẻ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh Thành phố Hưng Yên có diện tích 73,42 km² (7.342,07 ha) và dân số 147.275 người (năm 2013), bao gồm 7 phường (Lam Sơn, Lê Lợi, Quang Trung, Hiến Nam, Minh Khai, Hồng Châu, An Tảo) và 10 xã (Bảo Khê, Trung Nghĩa, Liên Phương, Hồng Nam, Quảng Châu, Phú Cường, Hùng Cường, Tân Hưng, Phương Chiểu, Hoàng Hanh).

Phố Hiến, nằm từ Đằng Châu, phường Lam Sơn đến Nễ Châu, xã Hồng Nam, thuộc thành phố Hưng Yên, trải dài dọc theo đê tả sông Hồng Theo nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành, Phố Hiến từng là khu phố sầm uất, với trục chính từ chùa Chuông đến chùa Nễ Châu, và trung tâm là hồ Bán Nguyệt Khu vực Phố Hiến Hạ, hiện nay thuộc xã Hồng Châu, nổi bật với bến Đá thuận tiện cho tàu thuyền cập bến, nơi có thương điếm của người nước ngoài và trụ sở của quan trấn thủ Sơn Nam.

Phố Hiến, từ xa xưa, đã là một cửa biển quan trọng, nơi giao thoa của ba dòng sông: Sông Hồng, sông Luộc và sông Châu Giang Khu vực này có hệ thống giao thông thủy bộ thuận tiện, cho phép di chuyển dễ dàng đến Hà Nội qua sông Hồng, hoặc ra biển Thái Bình, Nam Định qua sông Luộc Đường bộ cũng rất phát triển, từ trung tâm thành phố chỉ cần đi hơn 60 km theo quốc lộ 39A là đến Hà Nội, hoặc khoảng 50 km theo đường 39B đến Hải Dương Hướng Đông Nam, chỉ cần đi hơn 10 km theo đường 39A là đến bến Triều Dương, qua sông Luộc sang Thái Bình, và từ Hưng Yên, đi qua cầu Yên Lệnh hơn 10 km là tới Quốc lộ 1A.

Hưng Yên - Phố Hiến, với điều kiện tự nhiên và giao thông thuận lợi, đã từ lâu giữ vai trò quan trọng trong công cuộc phòng thủ và bảo vệ đất nước, nhằm ngăn chặn các cuộc xâm lược từ biển cũng như trên bộ.

Phố Hiến, một vùng đất giàu tiềm năng, đã thu hút nhiều người đến sinh sống và làm ăn từ thế kỷ XIII, trong đó có người Hoa lập nên làng Hoa Dương Sự phát triển của các xóm làng và ngành nghề đã dẫn đến sự hình thành chợ và bến buôn bán Đến giữa thế kỷ XV, nhiều thương nhân quốc tế đã đến Việt Nam để mở thương điếm, tuy nhiên triều đình Hậu Lê chỉ cho phép họ buôn bán tại Hiến Nam Trang Vào thế kỷ XVII, Công ty Đông Ấn Anh mở thương điếm đầu tiên tại đây, thu hút hơn mười quốc gia khác như Pháp, Tây Ban Nha và Nhật Bản đến giao thương Phố Hiến nhanh chóng trở thành một thương cảng lớn, với sự hiện diện đông đảo của người nước ngoài, trong đó người Nhật và người Hoa đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế Người Hoa không chỉ tham gia buôn bán mà còn sản xuất hàng thủ công, tạo nên cộng đồng Minh Hương Hội, góp phần biến Phố Hiến thành cửa ngõ thương mại sôi động ở Đàng ngoài vào đầu thế kỷ XVII.

Phố Hiến không chỉ nổi tiếng với hàng hóa mà còn là nơi giao thoa văn hóa khi người nước ngoài mang đến những phong tục, kiến thức và đặc sản độc đáo của quê hương họ Nhờ đó, Phố Hiến được biết đến với tên gọi Vạn Lai triều và dần trở thành một đô thị sầm uất, đông đúc, chỉ đứng sau Thăng Long, với câu ca nổi tiếng “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến” vẫn còn vang vọng đến ngày nay.

Phố Hiến, với 20 phường như Thủy Giang nội, Thủy Giang ngoại và Hàng Thịt, đã trở thành một khu vực đông đúc Năm 1688, thương nhân người Anh William Damyrier ghi nhận có tới 2.000 ngôi nhà và dân số lên đến hàng vạn người, với hoạt động sôi nổi cả trên bờ lẫn dưới sông Để bảo vệ an ninh, Vua Lê đã chuyển ty Hiến sát từ kinh đô về Phố Hiến, từ đó khu vực này được gọi là Phố Hiến Lê Đình Kiên, một người quê ở Thanh Hóa, được giao nhiệm vụ quản lý Phố Hiến và công lao của ông vẫn được ghi nhớ qua bia đá tại Chùa Hiến.

Sông Hồng đã trải qua sự thay đổi dòng chảy, gây cản trở cho tàu thuyền cập bến tại Bến Đá, làm mất vai trò của cảng Phố Hiến Sau cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn năm 1672, vào những năm 1730, các cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài đến cuối thế kỷ XVIII, cùng với chiến tranh, hạn hán và đói kém, đã khiến nền kinh tế suy sụp, ảnh hưởng đến các đô thị Một nguyên nhân quan trọng khác là sự thay đổi trong hệ thống thông thương Á Đông, góp phần vào sự suy tàn nhanh chóng của Phố Hiến.

Từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, Phố Hiến bắt đầu suy giảm, với sự đóng cửa của các thương điếm nước ngoài và sự rút lui của tư sản buôn bán phương Tây, chỉ còn lại tư nhân phương Đông Một sự kiện nổi bật diễn ra vào tháng 7 năm 1696, khi có một người Anh tham gia vào hoạt động võng điều theo luật triều đình nhà.

Vua Lê Hy Tông đã ra lệnh trục xuất tất cả thương nhân da trắng và tịch thu, đốt bỏ cờ cùng sách giảng đạo, chỉ cho phép người Nhật và Trung Quốc ở lại do chính sách bang giao và sự quen thuộc với hàng hóa của họ Sau đó, người Nhật cũng rời đi, chỉ còn lại một số người Trung Quốc thuộc các họ như Quan, Từ, Lý, Hứa, Tiết, Quách, Khu, Ôn, Hoàng, Lâm, Đặng, Khúc, là tôn thất nhà Minh lánh nạn nhà Thanh, xin ở lại hòa nhập vào cộng đồng người Việt.

Năm 1831, dưới triều vua Minh Mệnh thứ 12, tỉnh Hưng Yên được thành lập với hai phủ Tiên Hưng và Khoái Châu, tỉnh lỵ đặt tại Thành Hưng, Phố Hiến Các quan lại phong kiến đã xây dựng thành và đắp lũy để bảo vệ thủ phủ, từ đó hình thành các địa danh như Nhà Thành, Bắc Thành, Đông Thành, Tây Thành Trong nội thị, Hưng Yên còn có 6 phố: Bắc Hòa, Hữu Môn, Nguyệt Hồ, Hậu Trường, Tân Nhân, và Tân Thị.

Ngày 26-11-1873 quân đội thực dân Pháp chiếm đóng Thành Hưng, chúng thiết lập bộ máy cai trị tỉnh Hưng Yên, các chức trách công sở do người Pháp chỉ huy gồm có: Tòa công sứ, Trại giám binh, Sở Cẩm, Kho bạc, sở thương chính Bên cạnh bộ máy người Pháp nắm giữ, chúng còn đặt ra một số cơ quan giao cho người Việt thừa hành như: Tuần phủ, Án sát; các sở: Sở y tế, Sở Kiểm học; Sở Bưu điện (nhà dây thép), Sở Lục bộ

Trải qua nhiều thời kỳ, cảng Phố Hiến đã được chính quyền khơi lại nhưng không thành công do sông Hồng ngày càng lùi xa về phía Nam, khiến cư dân phải di chuyển sang bãi bồi và lập nên các làng xã mới Sự suy giảm chức năng của cảng sông đã làm mất đi vai trò thương mại sầm uất của Phố Hiến Tuy nhiên, nơi đây vẫn còn lưu giữ nhiều di tích quan trọng; theo kiểm kê năm 2002, có 159 di tích, hàng trăm bia ký và hàng nghìn cổ vật, chủ yếu tập trung ở các xã Hồng Châu (26 di tích), Lam Sơn (17 di tích), Hiến Nam (16 di tích), và Trung Nghĩa (16 di tích).

Tính đến năm 2014, thành phố Hưng Yên sở hữu 20 di tích và cụm di tích được Nhà nước công nhận cấp quốc gia, cùng 21 di tích cấp tỉnh, hầu hết được bảo tồn nguyên vẹn Trong số các di tích quốc gia, có 10 đền, 3 chùa, 2 đình, 2 miếu (Văn miếu và Võ miếu), 1 hội quán và 2 cụm di tích Phường Quang Trung là đơn vị có nhiều di tích được xếp hạng nhất với 5/7 di tích, tiếp theo là phường Lam Sơn với 4/17 di tích Nhiều di tích nổi bật với cảnh quan đặc sắc và phong thủy tốt, như Đền Trần và Đền Mẫu bên hồ Bán Nguyệt tại phường Quang Trung, cùng Đền Mây tại phường Lam Sơn nhìn ra sông Hồng.

Tên gọi, địa điểm phân bố, phân loại di tích tại Khu di tích Phố Hiến

Khu di tích Phố Hiến nằm tại thành phố Hưng Yên, một đô thị cổ có lịch sử hình thành từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI Vùng đất này đã trải qua nhiều tên gọi như Hoa Dương, Hiến Nam, Hiến Thị, Phố Khách, và Phố Thiên Triều, nhưng tên gọi Phố Hiến vẫn được duy trì cho đến ngày nay.

Khu di tích Phố Hiến gồm 16 di tích và cụm di tích tiêu biểu, nằm trong quần thể di tích Phố Hiến cổ Những di tích này có giá trị lịch sử và văn hóa lớn, phản ánh sự phát triển của vùng đất này qua nhiều giai đoạn lịch sử.

Do đó, địa danh “Phố Hiến” được lấy đặt tên cho khu di tích [4, tr.3]

1.3.2.2 Địa điểm phân bố khu di tích

Khu di tích Phố Hiến là một quần thể di tích lịch sử quan trọng, bao gồm 13 di tích được Nhà nước công nhận cấp quốc gia và 03 di tích cấp tỉnh Tất cả các di tích này đều nằm trong 06 phường/xã của thành phố Hưng Yên, tạo nên giá trị văn hóa và lịch sử độc đáo cho khu vực.

- Chùa Chuông, đền Nam Hòa thuộc khu phố Chùa Chuông

- Đình An Vũ thuộc phố An Vũ

- Văn Miếu Xích Đằng thuộc thôn Xích Đằng

- Đền Mây thuộc thôn Đằng Châu, phường Lam Sơn

- Đền Kim Đằng thuộc thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn

- Đền Trần, đền Mẫu tọa lạc trên đường Bãi Sậy

- Đền Thiên Hậu, Võ Miếu, chùa Phố Trưng Trắc

- Đền Bà Chúa Kho tọa lạc trên đường Điện Biên III

* Phường Hồng Châu Đình - Chùa Hiến, Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu Cung thuộc đường Phố Hiến

Chùa Nễ Châu, thôn Nễ Châu xã Hồng Nam

* Phường Lê Lợi Đền Cửu Thiên Huyền Nữ (đền Bắc Hòa) thuộc khu Phố Điện Biên I

Khu di tích Phố Hiến bao gồm 16 di tích và cụm di tích tiêu biểu nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, đã được Nhà nước xếp hạng

Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009, Di sản văn hóa vật thể (DTLSVH) bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia Những đối tượng này đều mang giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học quan trọng.

Theo Điều 29 của Luật Di sản văn hóa, di tích QGĐB được phân loại dựa trên tiêu chí là những công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị đặc biệt, phản ánh các giai đoạn phát triển của kiến trúc nghệ thuật Việt Nam.

Khu di tích Phố Hiến tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên, bao gồm 13 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và 03 di tích cấp tỉnh, mang giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và thẩm mỹ.

Ngày 31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2408/QĐ-TTg, xếp hạng 14 di tích quốc gia đặc biệt, trong đó có Khu di tích Phố Hiến tại Hưng Yên Quyết định này được thực hiện dựa trên Luật Di sản văn hóa và các quy định liên quan, khẳng định giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật của khu di tích Phố Hiến.

Lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật.

Khái quát về các di tích nằm trong Khu di tích Phố Hiến

Trong khuôn khổ Luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu công tác quản lý Khu di tích Phố Hiến, được công nhận theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31 tháng 12 năm 2014 Ngày 28 tháng 7 năm 2017, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành Quyết định số 2156/QĐ-UBND thành lập Ban Quản lý Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến, có nhiệm vụ trực tiếp quản lý các di tích như Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây và đình.

An Vũ, đền Nam Hòa, đình Hiến, Đông Đô Quảng Hội, đền Trần, đền Mẫu, đền Thiên Hậu, đền Bà Chúa Kho, Võ Miếu, đền Cửu Thiên Huyền

Nữ, đền Nam Hải Đại Vương, quản lý gián tiếp theo quy định pháp luật các di tích tôn giáo bao gồm Chùa Chuông, Chùa Hiến, Chùa Phố và Chùa Nễ Châu.

1 Văn Miếu Xích Đằng (phường Lam Sơn): dựng từ thời Lê và trùng tu năm Minh Mạng thứ 20 (1839), trên nền của chùa cổ Nguyệt Đường, mang đậm phong cách kiến trúc cung đình Huế, với tổng diện tích gần 6.000m 2 , gồm: Văn miếu môn, miếu thổ thần, lầu chuông, lầu khánh, tả/hữu vu, tiền tế, trung từ, hậu cung và công trình phụ trợ Khu nội tự kết cấu kiểu chữ “Tam” gồm tiền tế, trung từ và hậu cung là nơi thờ Khổng Tử, Chu Văn An và các bậc tiên hiền đạo Nho Ngoài ra, nơi đây còn lưu giữ 9 tấm bia đá ghi danh các khoa bảng tỉnh Hưng Yên

2 Đền Mây (phường Lam Sơn): thờ Phạm Bạch Hổ (910 - 983) - danh tướng đã từng phù giúp bốn vị anh hùng dân tộc thế kỷ X là Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn Tương truyền, đền khởi dựng từ thế kỷ thứ X, đến năm 1882 và 1898, được trùng tu, tôn tạo Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Tam” gồm 05 gian tiền tế, 05 gian trung từ và 03 gian hậu cung với các hạng mục và cấu kiện kiến trúc còn tương đối đồng bộ, với nhiều mảng chạm khắc đẹp, tinh xảo mang đậm phong cách kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê đan xen Nguyễn

3 Đền Kim Đằng (phường Lam Sơn): thờ tướng quân Đinh Điền và phu nhân Trải qua thời gian, đền đã bị hư hại, được trùng tu nhiều lần Đến năm 1994, địa phương phục dựng lại 05 gian tiền tế trên nền cũ và tu sửa lại hậu cung Hiện nay, đền có kết cấu hình chữ “Đinh” gồm nghi môn, nhà khách, 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung

4 Chùa Chuông (phường Hiến Nam): là một trong những “danh lam cổ tích” trong Khu di tích Phố Hiến Chùa được được trùng tu vào năm Chính Hoà thứ 23 (1702), Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711) Hiện nay, Chùa có kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” liên hoàn, cùng “Tứ thuỷ quy đường” mang đậm dấu ấn kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê đan xen Nguyễn Khu thờ chính gồm: tiền đường, thượng điện, hai dãy hành lang, gác chuông, gác khánh, nhà Mẫu và nhà Tổ

5 Đình An Vũ (phường Hiến Nam): thờ Cao Sơn Đại Vương

Theo truyền thuyết, đình là nơi thờ em họ Tản Viên, người đã giúp Vua Hùng chống giặc Đình được xây dựng vào thời Cảnh Hưng thứ 2 (1741) và đã được trùng tu vào năm Bảo Đại thứ 4 (1929) Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” với diện tích khoảng 3.135m², bao gồm nghi môn, đại bái và hậu cung Các cấu kiện kiến trúc của đình được chạm khắc và trang trí với nhiều đề tài như lá hóa rồng, lá lật và đao lửa, thể hiện rõ phong cách mỹ thuật thời Hậu Lê.

6 Đền Nam Hoà (phường Hiến Nam): thờ ba vị thần là Đức Thiên Quan Đại vương, Đức Thổ Địa Long thần và Đức Thuỷ Phủ Động đình quân tôn thần Đền được khởi dựng thời Nguyễn Trải qua thời gian và lịch sử, đền bị phá bỏ nhiều hạng mục Sau đó, chính quyền và nhân dân địa phương đã tiến hành phục dựng lại trên nền hậu cung trước kia Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Nhất”, gồm 03 gian, bốn mái, theo phong cách kiến trúc truyền thống

7 Đền Trần (phường Quang Trung): gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - người anh hùng dân tộc, được nhân dân tôn là “Đức Thánh Trần”, “Đức Thánh Cha” Đền được khởi dựng từ sớm, đại trùng tu vào năm Tự Đức thứ 16 (1863) Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Tam” gồm tiền tế, trung từ và hậu cung

8 Đền Mẫu (phường Quang Trung): được khởi dựng từ đời vua

Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo thứ nhất (1279), đã được đại trùng tu vào năm Thành Thái thứ 8 (1896) với các công trình như nghi môn, đại bái, và các cung điện Đền còn bảo tồn nhiều hiện vật quý giá như long sàng, long kỷ, kiệu võng, và các đồ thờ khác, thể hiện rõ nét văn hóa thời Lê - Nguyễn Các di sản này không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn góp phần làm phong phú thêm di tích văn hóa của đền.

15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn

9 Chùa Phố (phường Quang Trung): trùng tu, tôn tạo vào cuối thời Lê, đến đầu thế kỷ XX, Tổng đốc Thái Bình cho tu bổ lớn với mong muốn nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo của tỉnh Hưng Yên Hiện nay, chùa gồm các hạng mục: tam quan, tiền đường, thiêu hương và thượng điện, được làm kiểu “trùng thiềm điệp ốc” liên hoàn với nhau Ngoài ra còn có nhà Mẫu, nhà bia, khu tăng xá

10 Đền Thiên Hậu (phường Quang Trung): thờ thần Hàng hải

Đền Bà Lâm Tức Mặc, bảo trợ của ngư phủ và người đi biển, được xây dựng bởi cư dân người Hoa ở Phúc Kiến, Trung Quốc vào thế kỷ XVI - XVII Qua nhiều lần trùng tu, đền hiện có kiến trúc “Nội tự ngoại tế” với các hạng mục như tam quan, thiêu hương, hậu cung, điện Mẫu cùng hai dãy giải vũ Trang trí của đền phản ánh các tích cổ của Trung Quốc như Tam Quốc, Tây Du Ký và cảnh bốn mùa, vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn đến ngày nay.

11 Võ Miếu (phường Quang Trung): do người Hoa xây dựng từ thời Lê Cảnh Hưng (1740) thờ Quan Công thời Tam Quốc, được trùng tu tôn tạo lớn vào thời Thành Thái (1898) Hiện nay, Võ Miếu có diện tích 612,8m 2 , kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” mang phong cách Việt pha lẫn kiến trúc Phúc Kiến (Trung Quốc), gồm: tam quan, sân, giải vũ, tiền tế, tòa thiêu hương, hậu cung

12 Đền Bà Chúa Kho (phố Điện Biên III, phường Quang

Đền thờ bà Lê Bạch Nương, một phụ nữ trung quân ái quốc thời Lê, được xây dựng từ thế kỷ XVII dưới triều đại Lê Hy Tông (1676 - 1682) và đã được trùng tu vào thời Nguyễn Bà Lê Bạch Nương từng phụ trách kho ngân khố tại Vĩnh Ty Đồn, nay thuộc thành phố Hưng Yên Hiện nay, Đền Bà có khuôn viên rộng 543m², bao gồm tiền tế và hậu cung, với nhiều hạng mục kiến trúc đồng bộ và các mảng chạm khắc cùng hiện vật có giá trị cao.

13 Đình - chùa Hiến (phường Hồng Châu)

Đình Hiến, được xây dựng từ sớm và trải qua nhiều lần trùng tu lớn trong các thời kỳ Lê - Nguyễn, hiện nay có kiến trúc kiểu chữ Đinh với cấu trúc bao gồm Đại bái và Hậu cung Các mảng chạm khắc tại Đại bái tập trung vào các đề tài tứ linh và tứ quý, thể hiện rõ dấu ấn mỹ thuật đặc trưng của thời Lê - Nguyễn.

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT KHU DI TÍCH PHỐ HIẾN

Các chủ thể quản lý

2.1.1 Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch

Tại Điều 1 và 2 Quyết định số 3356/QĐ-BVHTTDL ngày 20/09/2017 của Bộ trưởng BVHTT&DL quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và

Quyền hạn Cục Di sản văn hoá như sau:

Cục Di sản văn hóa, thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có nhiệm vụ tham mưu cho Bộ trưởng trong việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa Cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý các dịch vụ công liên quan đến di sản văn hóa theo quy định pháp luật Ngoài ra, Cục còn được Bộ trưởng giao nhiệm vụ chỉ đạo và hướng dẫn phát triển sự nghiệp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa trên toàn quốc, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Về vấn đề quản lý di tích, Cục Di sản văn hóa có nhiệm vụ: a) Trình

Bộ trưởng trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về việc xếp hạng và điều chỉnh khu vực bảo vệ di tích quốc gia đặc biệt, phê duyệt chủ trương và đồ án quy hoạch tổng thể cho các di tích quốc gia có quy mô đầu tư lớn Đồng thời, Bộ trưởng cũng sẽ quyết định về việc thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích quốc gia, thẩm định các dự án tu bổ di tích quốc gia đặc biệt, cũng như các dự án cải tạo, xây dựng công trình ngoài khu vực bảo vệ Ngoài ra, Bộ trưởng cấp phép thăm dò, khai quật khảo cổ và hướng dẫn thủ tục đăng ký di vật, cổ vật, cùng với điều kiện thành lập và hoạt động của cơ sở giám định cổ vật Cuối cùng, Bộ trưởng thẩm định hồ sơ thiết kế tu bổ di tích cho các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt.

2.1.2 Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch tỉnh Hưng Yên

Quyết định số 658/QĐ-UBND ngày 27-02-2017 của UBND tỉnh Hưng Yên quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở VHTT&DL Hưng Yên, đặc biệt trong lĩnh vực di sản văn hóa.

2.1.2.1 Vị trí và chức năng

1 Sở VHTT&DL tỉnh Hưng Yên (sau đây viết tắt là Sở) là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Hưng Yên; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (trừ quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin) ở tỉnh theo quy định của pháp luật; các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo phân công hoặc ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND tỉnh

2.1.2.2 Về di sản văn hóa: a) Tổ chức thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh sau khi được phê duyệt; b) Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh; cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài; c) Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử trên địa bàn tỉnh; d) Tổ chức kiểm kê, lập danh mục, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử

Trong tỉnh, các hoạt động liên quan đến văn hóa và danh lam thắng cảnh bao gồm việc thỏa thuận chủ trương lập dự án và thẩm định các báo cáo kinh tế - kỹ thuật Việc thiết kế bản vẽ thi công và tổ chức tu sửa, bảo quản, phục hồi các di tích cấp tỉnh cũng được hướng dẫn và thực hiện sau khi được phê duyệt Ngoài ra, các dự án cải tạo và xây dựng công trình ngoài khu vực bảo vệ di tích sẽ được thẩm định để đánh giá ảnh hưởng đến cảnh quan và môi trường Cơ quan chức năng tiếp nhận hồ sơ và hướng dẫn thủ tục cấp giấy phép thăm dò, khai quật khảo cổ, cũng như giám sát việc thực hiện các giấy phép này Việc thẩm định hiện vật và hồ sơ để công nhận bảo vật quốc gia cũng rất quan trọng, bao gồm cả việc tổ chức thu nhận và bảo quản di vật, cổ vật Các cơ sở kinh doanh di vật cần được cấp chứng chỉ hành nghề, và giấy phép làm bản sao di vật cũng như giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động giám định cổ vật sẽ được cấp hoặc thu hồi theo quy định Cuối cùng, việc xác nhận điều kiện thành lập bảo tàng cấp tỉnh và cấp giấy phép hoạt động cho bảo tàng ngoài công lập cũng là một phần quan trọng trong quản lý di sản văn hóa tại địa phương.

2.1.2.3 Về cơ cấu tổ chức và hoạt động hiện nay

Sở VHTT&DL hiện có Ban lãnh (gồm 01 Giám đốc và 03 Phó Giám đốc) và 08 phòng chuyên môn, nghiệp vụ (1- Văn phòng; 2- Thanh tra; 3-

Sở Văn hóa và Thể thao bao gồm nhiều phòng ban chức năng như Phòng Tổ chức - Pháp chế, Phòng Quản lý Văn hóa, Phòng Quản lý Di sản, Phòng Xây dựng Nếp sống văn hóa và Gia đình, Phòng Quản lý Thể dục Thể thao, và Phòng Quản lý Du lịch Ngoài ra, sở còn quản lý các đơn vị sự nghiệp như Bảo tàng tỉnh, Ban quản lý di tích tỉnh, Trung tâm Văn hóa tỉnh, Trung tâm Phát hành phim & chiếu bóng tỉnh, Nhà hát Chèo tỉnh, trường Trung cấp Văn hóa – Nghệ thuật & Du lịch, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể dục thể thao tỉnh, và Trung tâm Thông tin & Xúc tiến du lịch tỉnh.

2.1.3 Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Hưng Yên

Phòng Văn hoá và Thông tin thuộc UBND thành phố, có nhiệm vụ tham mưu và hỗ trợ UBND trong việc quản lý nhà nước về các lĩnh vực như văn hoá, gia đình, thể dục thể thao, du lịch, quảng cáo, báo chí, xuất bản, bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin, phát thanh truyền hình, thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại và hạ tầng thông tin Ngoài ra, phòng còn thực hiện một số nhiệm vụ và quyền hạn theo ủy quyền của UBND thành phố và theo quy định pháp luật.

Trong lĩnh vực di sản, các tổ chức, đơn vị và người dân tại thành phố cần thực hiện các biện pháp bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh Điều này bao gồm việc bảo vệ, tôn tạo, và khai thác tài nguyên du lịch một cách hợp lý, nhằm bảo vệ môi trường du lịch cũng như các khu và điểm du lịch trên địa bàn.

2.1.4 Ban Quản lý di tích tỉnh Hưng Yên

Năm 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập và việc quản lý di tích lịch sử - văn hóa (DTLSVH) được giao cho Bảo tàng tỉnh Đến năm 2005, công việc này được chuyển cho Ban Quản lý di tích tỉnh theo Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 11/01/2005 Trong quá trình chia tách tỉnh, việc lưu giữ và quản lý hồ sơ các di tích cấp quốc gia không được đảm bảo, đặc biệt là các hồ sơ từ tỉnh Hải Hưng cũ Để khắc phục tình trạng này, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã giao cho Ban Quản lý di tích tỉnh rà soát lại hồ sơ di tích cấp quốc gia, phối hợp với Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện, thành phố để bổ sung và chỉnh lý những di tích còn thiếu hoặc bị thất lạc.

Hiện tại, Ban có 16 biên chế chính thức và 2 hợp đồng lao động theo Nghị định 68, với phần lớn cán bộ, công chức, viên chức trẻ tuổi và tốt nghiệp đại học chính quy đúng chuyên ngành Ban được tổ chức bao gồm Trưởng ban, Phó trưởng ban và ba phòng chuyên môn, trong đó hiện chưa có Trưởng ban, đồng chí Phó trưởng ban đang chịu trách nhiệm phụ trách.

(Cơ cấu tổ chức BQL di tích tỉnh 4-2018)

Tại tỉnh Hưng Yên, 161 xã, phường, thị trấn đã thành lập ban quản lý di tích để quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích Theo số liệu từ BQL di tích tỉnh, 100% các địa phương có di tích được xếp hạng đều có ban quản lý di tích cấp xã, phường Ban quản lý di tích bao gồm Trưởng ban là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND xã/phường, Phó ban thường trực là Trưởng thôn, và các thành viên là đại diện của các tổ chức chính trị xã hội trong thôn Mô hình này kết hợp giữa chính quyền và cộng đồng, với trách nhiệm đảm bảo an toàn cho di tích thuộc về các trưởng ban Sự tham gia của các hội như người cao tuổi, cựu chiến binh, phụ nữ, và đoàn thanh niên không chỉ đại diện cho cộng đồng mà còn trao cho họ trách nhiệm bảo vệ và giám sát các di sản địa phương.

2.1.5 Ban quản lý Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến

Ngày 28-7-2017, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 2156/QĐ-UBND thành lập Ban quản lý Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến (gọi tắt là Ban Quản lý khu di tích)

(Cơ cấu tổ chức BQL Khu di tích Phố Hiến tại thời điểm tháng 4-2018)

Sau khi Ban Quản lý Khu di tích đi vào hoạt động tại trụ sở mới, UBND thành phố Hưng Yên đã phối hợp với Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng Sở Nội vụ để điều chuyển 07 viên chức từ các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở và 03 viên chức từ Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hưng Yên về làm việc tại Ban Quản lý Khu di tích Phố Hiến.

BQL Khu di tích Phố Hiến, thuộc UBND thành phố Hưng Yên, là đơn vị sự nghiệp công lập có nhiệm vụ quản lý, khai thác và bảo tồn các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và kiến trúc nghệ thuật của khu di tích này.

Công tác quản lý Khu di tích Phố Hiến

2.2.1 Sưu tầm, nghiên cứu, tư liệu hóa, xếp hạng di tích

Ngay sau khi Luật Di sản văn hóa có hiệu lực, Sở VH,TT&DL Hưng Yên đã giao nhiệm vụ cho BQL di tích tỉnh và Phòng Văn hóa nhằm triển khai các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Thành phố Hưng Yên đang tiến hành tổng kiểm kê các di tích lịch sử, văn hóa, và thực hiện điều tra cơ bản nhằm lập danh mục hệ thống di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn.

Đến nay, hồ sơ Khu di tích Phố Hiến đã được hoàn thiện, giúp xác định tên gọi phù hợp với nội dung và đặc điểm của di tích Việc này tạo điều kiện cho các phương án bảo vệ và sử dụng Khu di tích một cách hiệu quả Ban Quản lý di tích tỉnh đã phối hợp với phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Hưng Yên cùng chính quyền địa phương để thực hiện các quy trình xếp hạng di tích.

1 Các chủ sở hữu di tích làm đơn đề nghị cơ quan quản lý di tích lập hồ sơ xếp hạng di tích theo mẫu đã quy định;

2 Cơ quan quản lý di tích cử cán bộ phối hợp với phòng Văn hóa - Thông tin khảo sát, lập hồ sơ khoa học xếp hạng di tích;

3 Tổ chức thẩm định hồ sơ khoa học di tích và phân loại các di tích được xếp hạng theo các cấp độ khác nhau, trong đó có các di tích xếp hạng cấp Quốc gia và các di tích được xếp hạng cấp tỉnh/thành phố;

4 Tờ trình gửi các cấp có thẩm quyền phê duyệt xếp hạng di tích Với quy trình đầy đủ và chặt chẽ như vậy nên hồ sơ xếp hạng bước đầu đã đảm bảo tính khoa học, các di tích được xếp hạng đúng với giá trị hiện còn lưu giữ

Hoạt động chuyên môn nghiệp vụ đóng vai trò quan trọng trong quản lý và bảo vệ di tích một cách bền vững Việc tham mưu cho cấp tỉnh lập hồ sơ trình Chính phủ công nhận di tích là Khu di tích cấp QGĐB năm 2014 nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác lập hồ sơ và kiểm kê hiện vật trong di tích.

2.2.2 Tuyên truyền, phổ biến pháp luật và quảng bá giá trị di tích

Kể từ khi di tích được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, công tác tuyên truyền và phổ biến các văn bản pháp quy về bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa đã được đẩy mạnh Hằng năm, cán bộ tại BQL di tích Phố Hiến tham gia đầy đủ các lớp nghiệp vụ quản lý di sản do Sở VHTT & DL tổ chức, nhằm tiếp thu các nội dung tuyên truyền và hướng dẫn liên quan đến di sản văn hóa Ở cấp xã/phường, việc tuyên truyền bảo vệ di sản văn hóa chủ yếu diễn ra qua hệ thống đài phát thanh, đặc biệt trong các dịp lễ tết, hội hè tại đình, đền, chùa Cộng đồng cư dân tập trung đông đảo và các địa phương đã sử dụng loa đài để truyền tải thông tin về di tích cùng các văn bản liên quan đến di sản văn hóa và phong tục, lễ hội.

Từ năm 2014 đến nay, Ban Quản lý di tích tỉnh Hưng Yên đã tích cực tuyên truyền và quảng bá hệ thống di tích địa phương, hướng dẫn và thuyết minh cho hàng triệu lượt khách tham quan, bao gồm cả các đoàn khách quốc tế và đại diện từ Trung ương, UBND tỉnh cùng các sở, ban, ngành.

Chính trị Hồ Chí Minh, Bộ Công an, Hội nghệ sỹ nhiếp ảnh, Cục Mỹ thuật, UBND tỉnh và HĐND tỉnh đã thu hút hơn 3.000 lượt khách tham quan vào năm 2015, hơn 4.000 lượt vào năm 2016, và gần 5.000 lượt vào năm 2017 Đặc biệt, vào tháng 01/2015, Ban đã hướng dẫn đoàn công tác của Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL Hoàng Tuấn Anh, và tháng 2/2017, đã thuyết minh cho đoàn của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân Ngoài ra, Ban đã in ấn một số tài liệu như chương trình giới thiệu các di tích trọng điểm và xuất bản ấn phẩm “Các nhà tưởng niệm danh nhân Hưng Yên” nhằm quảng bá và giúp người dân cũng như du khách hiểu rõ hơn về các di tích trong tỉnh Bên cạnh đó, đã in và giao bảng nội quy cùng bản trích Luật Di sản văn hóa cho các di tích theo đề nghị của phòng Văn hóa & Thông tin thành phố.

Năm 2017, Ban Quản lý di tích tỉnh Hưng Yên đã thực hiện việc bổ sung và tái bản cuốn sách “Hưng Yên di tích lịch sử văn hóa”, nhằm giới thiệu và quảng bá giá trị văn hóa lịch sử của địa phương.

Di tích lăng đá Hưng Yên đã phối hợp với Ban Quản lý di tích chùa Chuông để tái bản cuốn sách “Chùa Chuông đệ nhất danh lam” bằng nguồn xã hội hóa từ di tích.

Nhiều địa phương đã tổ chức các chương trình văn nghệ nhằm huy động sự tham gia của người dân trong việc xây dựng và bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa Những hoạt động này không chỉ giúp giới thiệu về lịch sử và giá trị của di tích mà còn nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong việc gìn giữ di sản văn hóa địa phương Qua đó, lòng trân trọng đối với các giá trị văn hóa truyền thống được khơi dậy và phát triển trong mỗi người dân.

2.2.3 Quy hoạch, bảo tồn di tích

Việc xây dựng quy hoạch cho di tích là nhiệm vụ quan trọng của cơ quan quản lý di tích, được thực hiện theo Nghị định 70/2012/NĐ-CP về thẩm quyền và quy trình lập, phê duyệt quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hóa Quy hoạch bao gồm hai loại: quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi hệ thống di tích và quy hoạch tổng thể bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích Các di tích trong quy hoạch tổng thể bao gồm di tích quốc gia đặc biệt, cụm di tích quốc gia và di tích cấp tỉnh, được phân bố theo từng quần thể trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch từ năm 2010 theo Quyết định số 744-QĐ-TTg ngày 27-5.

Năm 2010, quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị đô thị cổ Phố Hiến đã được phê duyệt, với phạm vi nghiên cứu 1883ha trong thành phố Hưng Yên, bao gồm 41,05ha cho quy hoạch tổng thể và chi tiết Mục tiêu của quy hoạch là bảo tồn nguyên gốc các di tích trọng điểm và phát triển du lịch, đồng thời đáp ứng nhu cầu văn hóa của cộng đồng Bà Nguyễn Thị Hường, Phó Trưởng ban BQL di tích tỉnh, nhấn mạnh rằng quy hoạch cần xác định rõ vùng trọng tâm di tích, khu vực phụ trợ cho dịch vụ khách tham quan, cùng các hạng mục như cây xanh, hồ nước và khu vui chơi giải trí, nhằm phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội bền vững.

Ngày 08-12-2017, Hội đồng nhân dân tỉnh Hưng Yên đã thông qua Nghị quyết về Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2025, tầm nhìn 2030, với Khu du lịch quốc gia Phố Hiến là điểm nhấn Khu vực này, nằm bên bờ sông Hồng tại phường Hồng Châu, có quy mô khoảng 300 ha, sẽ tập trung vào việc khai thác giá trị văn hóa, sinh thái và giải trí Các hoạt động du lịch chủ yếu bao gồm tham quan di tích lịch sử, phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp, và phục vụ nhu cầu giải trí cho cư dân thành phố Hưng Yên, Hà Nội và Hà Nam Các sản phẩm du lịch chính sẽ bao gồm tham quan, lễ hội, hội nghị, thể thao, khách sạn nghỉ dưỡng, và du lịch đường thủy dọc sông Hồng.

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT KHU DI TÍCH PHỐ HIẾN

Ngày đăng: 09/08/2021, 07:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Minh An (2009) Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Phố Hiến - thị xã Hưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Phố Hiến - thị xã Hưng Yên
2. Đặng Văn Bài, (1994), “Suy nghĩ về việc bảo vệ và khai thác các di tích lịch sử và văn hóa ở Phố Hiến”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, Sở Văn hóa Thể thao Hải Hưng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Suy nghĩ về việc bảo vệ và khai thác các di tích lịch sử và văn hóa ở Phố Hiến”, "Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến
Tác giả: Đặng Văn Bài
Năm: 1994
3. Đặng Văn Bài (2013), “Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa trong chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020”, Tạp chí VHNT (số 346) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa trong chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020”, "Tạp chí VHNT
Tác giả: Đặng Văn Bài
Năm: 2013
4. Ban Quản lý di tích tỉnh Hưng Yên (2014) “Lý lịch Khu di tích Phố Hiến, thành phố Hưng Yên”, Hưng Yên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý lịch Khu di tích Phố Hiến, thành phố Hưng Yên
10. Các Mác và Ăngghen toàn tập (1993), tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các Mác và Ăngghen toàn tập
Tác giả: Các Mác và Ăngghen toàn tập
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1993
12. Nguyễn Đăng Duy - Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa
Tác giả: Nguyễn Đăng Duy - Trịnh Minh Đức
Năm: 1993
13. Phan Hồng Giang - Bùi Hoài Sơn (đồng Chủ biên) (2012), Quản lý văn hóa Việt Nam Trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc Gia - Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: (đồng Chủ biên)" (2012), "Quản lý văn hóa Việt Nam Trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế
Tác giả: Phan Hồng Giang - Bùi Hoài Sơn (đồng Chủ biên)
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc Gia - Sự thật
Năm: 2012
14. Hiến chương Vernice (Italia) (1964) - Bản dịch lưu tại Cục Di sản Văn hoá, Bộ VH,TT&DL Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến chương Vernice (Italia)
15. Nguyễn Khắc Hào - Nguyễn Đình Nhã (2014), Phố Hiến, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phố Hiến
Tác giả: Nguyễn Khắc Hào - Nguyễn Đình Nhã
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2014
16. Tăng Bá Hoành (1994), “Di tích lịch sử - văn hóa ở Phố Hiến”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, Sở Văn hoá Thông tin - Thể thao Hải Hưng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Di tích lịch sử - văn hóa ở Phố Hiến”, "Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến
Tác giả: Tăng Bá Hoành
Năm: 1994
17. Tăng Bá Hoành (1994), “Phố Hiến qua nghiên cứu khảo cổ học”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phố Hiến qua nghiên cứu khảo cổ học”, "Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến
Tác giả: Tăng Bá Hoành
Năm: 1994
18. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), Tài liệu bồi dưỡng về QLHC nhà nước (Phần III - Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu bồi dưỡng về QLHC nhà nước (Phần III - Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực)
Tác giả: Học viện Hành chính Quốc gia
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2003
19. Phan Khanh (1992), Bảo tàng di tích lễ hội, Nxb Văn hóa - Thôngtin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo tàng di tích lễ hội
Tác giả: Phan Khanh
Nhà XB: Nxb Văn hóa - Thôngtin
Năm: 1992
20. Nguyễn Phúc Lai (1998), Phố Hiến lịch sử - Văn hóa, Sở Văn hóa - Thông tin - Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phố Hiến lịch sử - Văn hóa
Tác giả: Nguyễn Phúc Lai
Năm: 1998
21. Nguyễn Phúc Lai (2009), Hưng Yên vùng phù sa Văn hóa, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hưng Yên vùng phù sa Văn hóa
Tác giả: Nguyễn Phúc Lai
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2009
22. Phan Huy Lê (1994), Phố Hiến - Những vấn đề khoa học đang đặt ra, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, Sở Văn hóa Thể thao Hải Hưng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phố Hiến - Những vấn đề khoa học đang đặt ra
Tác giả: Phan Huy Lê
Năm: 1994
23. Lê Hồng Lý (Chủ biên)(2010), Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch
Tác giả: Lê Hồng Lý (Chủ biên)
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia
Năm: 2010
26. Luật di sản văn hóa và Nghị định hướng dẫn thi hành (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật di sản văn hóa và Nghị định hướng dẫn thi hành
Tác giả: Luật di sản văn hóa và Nghị định hướng dẫn thi hành
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2002
27. Lâm Hải Ngọc (2005), Những di tích danh thắng tiêu biểu Phố Hiến - Hưng Yên, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những di tích danh thắng tiêu biểu Phố Hiến - Hưng Yên
Tác giả: Lâm Hải Ngọc
Nhà XB: Nxb Văn hóa Thông tin
Năm: 2005
52. PGS.TS Đặng Văn Bài, Quản lý di sản văn hóa của Hà Nội - Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn (http://quydisan.org.vn/quan- ly-di-san-van-hoa-cua-ha-noi-nhung-van-de-dat-ra-tu-thuc-tien-5312990.html) Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w