Mục tiêu nghiên cứu
Nhận diện và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập, bao gồm bậc mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, trên địa bàn tỉnh Long An.
Đo lường ảnh hưởng của các yếu tố đến chất lượng thông tin tài chính trên báo cáo tài chính tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập từ mầm non đến trung học phổ thông ở tỉnh Long An.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn trả lời các câu hỏi nghiên cứu như sau:
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin tài chính (CLTT) trên báo cáo tài chính (BCTC) tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục (SNGD) công lập bậc mầm non, tiểu học, trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) trên địa bàn tỉnh Long An bao gồm: quy trình lập và kiểm soát BCTC, năng lực của đội ngũ nhân sự, hệ thống công nghệ thông tin, và các quy định pháp lý liên quan Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính chính xác, minh bạch và đáng tin cậy của thông tin tài chính trong các đơn vị giáo dục công lập.
Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập, bao gồm bậc mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở tỉnh Long An, cần được đánh giá một cách cụ thể để hiểu rõ hơn về tác động của chúng đối với hiệu quả quản lý và minh bạch tài chính trong lĩnh vực giáo dục.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sử dụng đồng thời hai phương pháp định tính và định lượng để phân tích chất lượng thông tin tài chính (TTKT) Phương pháp định tính giúp mô tả và khái quát hóa các lý thuyết liên quan đến TTKT và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của nó Trong khi đó, phương pháp định lượng được áp dụng nhằm nhận diện và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng TTKT trên báo cáo tài chính (BCTC) tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập bậc mầm non, tiểu học, THCS, và THPT ở tỉnh Long An.
Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu này sẽ hỗ trợ các đơn vị SNGD công lập tại tỉnh Long An xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đến chất lượng thông tin tài chính trên báo cáo tài chính Qua đó, các đơn vị có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin tài chính của mình.
Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 5 chương chính như sau:
Chương 1: Giới thiệu tổng quan nghiên cứu trước
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và kiến nghị.
GI Ớ I THI Ệ U T Ổ NG QUAN CÁC NGHIÊN C ỨU TRƯỚ C
Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài
1.1.1 Tổng quát các nghiên cứu về CLTT BCTC
Nghiên cứu của Jonas & Blanchet (2000) phân tích ưu điểm và hạn chế của các quy định về chất lượng thông tin báo cáo tài chính (CLTT BCTC) từ FASB, AICPA và SEC, kết hợp với nghiên cứu định tính qua thảo luận với các chuyên gia và nhà quản lý Mục tiêu chính là điều chỉnh mô hình CLTT BCTC theo nhu cầu của người sử dụng như nhà đầu tư và chủ nợ CLTT BCTC được đo lường bằng năm thành phần: thích hợp, nhất quán, rõ ràng, đáng tin cậy và có khả năng so sánh Trong đó, thích hợp là thang đo bậc 3 với hai thành phần bậc 2 là giá trị dự đoán và giá trị phản hồi, cùng với thành phần bậc 1 là kịp thời Đáng tin cậy được đo lường bởi bốn thành phần bậc 1, trong khi có khả năng so sánh và nhất quán là thang đo bậc 1 với hai biến quan sát Rõ ràng là thang đo bậc 1 với năm biến quan sát Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ dừng lại ở phần định tính và chưa tiến hành kiểm định thang đo hay nghiên cứu định lượng để đo lường CLTT BCTC bằng con số cụ thể.
Kristina Rudzioniene và Toma Juozapaviciute (2013) đã chỉ ra rằng nhu cầu chính của người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC) là chất lượng thông tin trên BCTC, đặc biệt là trong khu vực công Nghiên cứu của họ về chất lượng BCTC khu vực công tại Lithuania đã định nghĩa chất lượng kế toán là đặc điểm của thông tin BCTC, phù hợp với chính sách và quy chế kế toán để đáp ứng nhu cầu người dùng Họ đã xác định sáu đặc điểm chất lượng quan trọng: tính thích hợp, kịp thời, so sánh, dễ hiểu, có thể kiểm chứng và trung thực Mô hình nghiên cứu bao gồm các yếu tố quyết định chất lượng kế toán và các công cụ đánh giá, đồng thời đo lường sự hài lòng của người dùng Kết quả cho thấy rằng cải cách hệ thống BCTC đã nâng cao tính liên quan, kịp thời, dễ hiểu và trung thực của thông tin kế toán, giúp người dùng có thể so sánh và phân tích hiệu quả hơn Mô hình này được thiết kế đặc biệt cho khu vực công nhưng có thể điều chỉnh để áp dụng cho khu vực tư nhân.
1.1.2 Tổng quát các nghiên cứu liên quan đến nhân tố tác động đến CLTT
Năm 1984, Choi và Mueller đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống kế toán, bao gồm hệ thống pháp luật, chính trị, nguồn gốc sở hữu vốn, quy mô và độ phức tạp của đơn vị, đặc điểm xã hội, mức độ tinh tế của môi trường kinh doanh, mức độ suy luận pháp lý, chính sách kế toán hiện tại, tốc độ đổi mới kinh doanh, bối cảnh phát triển kinh tế, sự phát triển của các thành phần kinh tế, và giáo dục nghề nghiệp Sau đó, 12 nhân tố này được phân loại thành 5 nhóm: môi trường pháp lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, và giáo dục nghề nghiệp (Zhang, 2005) Mặc dù nghiên cứu của Choi và Mueller đề cập đến sự phát triển hệ thống kế toán, mục tiêu cuối cùng là tạo ra hệ thống thông tin hữu ích, đáp ứng nhu cầu người sử dụng và được công nhận rộng rãi Do đó, chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính cũng chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố này.
Cristina Silvia Nistora và các cộng sự (2013) đã chỉ ra sự thiếu hụt trong nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến kế toán công, đặc biệt tại các quốc gia mới nổi và châu Âu Nhằm mục đích xác định mức độ tác động của các yếu tố môi trường khác nhau đến sự thay đổi trong kế toán công, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết từ các nghiên cứu trước đó của Zang (2005), Choi và Mueller (1984), cùng với Nobes.
Nghiên cứu của Gray (1984), Gray (1988) và Radebaugh cùng Gray (1997) cho thấy sự phát triển kế toán khu vực công chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ sáu nhân tố môi trường chính: môi trường chính trị, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường giáo dục, môi trường văn hóa xã hội và môi trường nghề nghiệp Những yếu tố này không chỉ tác động đến kế toán khu vực công ở các quốc gia phát triển mà còn có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của các quốc gia mới nổi và đang phát triển.
Iskanda Muda và các cộng sự (2018) đã chỉ ra rằng việc tuân thủ chuẩn mực kế toán và hệ thống thông tin kế toán trong khu vực công có tác động tích cực đến chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) Nghiên cứu của Lubis (2016) khẳng định rằng hệ thống kế toán tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng BCTC khu vực công, cùng với các kết quả từ Maksum (2014) và Muda (2014) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng này.
Nghiên cứu của Muda (2015), Muda (2017) và Nurzaimah (2016) cho thấy hệ thống kiểm soát nội bộ không có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) Tuy nhiên, Iskanda Muda và cộng sự (2018) đã kiểm định lại vấn đề này và kết luận rằng hệ thống thông tin kế toán ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của khu vực công, trong khi kiểm soát nội bộ không có tác động tương tự Chất lượng BCTC khu vực công rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả ra quyết định và sử dụng ngân sách công thông qua thông tin tài chính chính xác và minh bạch (Maksum, 2014) Công nghệ thông tin (CNTT) đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập, xử lý và tổ chức dữ liệu, giúp giảm thiểu sai sót trong quản lý tài chính, từ đó nâng cao độ tin cậy của BCTC khu vực công và cải thiện kiểm soát ngân sách.
Tổng quan các nghiên cứu trong nước
1.2.1 Tổng quát các nghiên cứu về CLTT BCTC
Trong nghiên cứu “Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán” của Tiến Sĩ Nguyễn Thị Hồng Nga (2014), tác giả đã phân tích các quan điểm và nghiên cứu liên quan đến các yếu tố tác động đến chất lượng thông tin kế toán, đặc biệt là nghiên cứu của Ahmad AI – Hiyari và các cộng sự.
Nghiên cứu năm 2013 về các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống thông tin kế toán và chất lượng thông tin kế toán cho thấy chất lượng thông tin kế toán phụ thuộc vào nhân sự, cam kết quản lý, hệ thống thông tin và chất lượng dữ liệu, trong đó chất lượng dữ liệu không có ảnh hưởng đáng kể Nghiên cứu của Rapina (2014) chỉ ra rằng cam kết quản lý, văn hóa tổ chức và cơ cấu tổ chức có tác động trực tiếp đến chất lượng thông tin kế toán Bên cạnh đó, nghiên cứu của Heidi Vander Bauwhede (2001) xác định rằng các yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo tài chính bao gồm quyết định của nhà quản lý, cơ chế quản lý bên ngoài, cơ chế quản trị nội bộ và các quy định về báo cáo tài chính.
Hệ thống pháp luật, cấu trúc tài chính, sự phân tán giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, cùng nhu cầu và mục tiêu của báo cáo tài chính (BCTC) là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán (TTKT) Các nhân tố chung bao gồm nguồn nhân lực kế toán và nhà quản lý với năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm và ý thức tuân thủ pháp luật Hệ thống TTKT (IT) cũng đóng vai trò quan trọng, bao gồm hệ thống thiết bị công nghệ thông tin, phần mềm quản lý và phần mềm kế toán, ảnh hưởng đến tính kịp thời, đầy đủ và chính xác của TTKT Cuối cùng, môi trường doanh nghiệp, với các yếu tố bên trong và bên ngoài, có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các hoạt động kế toán.
Chất lượng thông tin kế toán (TTKT) của doanh nghiệp (DN) chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như văn hóa DN, cơ cấu tổ chức, áp lực công việc, chính sách đãi ngộ, sự cạnh tranh và ngành nghề kinh doanh Hệ thống văn bản pháp lý và việc quản lý, kiểm tra, giám sát tuân thủ các quy định kế toán của Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng Qua phân tích, tác giả phân loại các yếu tố thành ba nhóm: Môi trường DN, Nhân sự kế toán và các nhà quản lý, cùng với Hệ thống văn bản pháp quy và quản lý của Nhà nước Nghiên cứu cho thấy hai nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng TTKT của doanh nghiệp Việt Nam là Hệ thống văn bản pháp quy và Nhân sự kế toán cùng các nhà quản lý.
Nghiên cứu của Dương Thị Khánh Linh và Nguyễn Thị Phương Hồng (2014) nhằm đo lường chất lượng thông tin tài chính (CLTT BCTC) trong các doanh nghiệp tại Việt Nam, dựa trên các tiêu chí của ISAB và FASB Thang đo CLTT BCTC được sử dụng là thang đo bậc 2 với sáu thành phần: Thích hợp, Có khả năng so sánh, Trình bày trung thực, Kịp thời, Có thể kiểm chứng, và Có thể hiểu được Qua 137 mẫu khảo sát từ kế toán viên, kiểm toán viên và nhà đầu tư, kết quả cho thấy giá trị trung bình của các thành phần CLTT BCTC dao động từ 2,79 đến 3,45, với thuộc tính Có khả năng so sánh và Có thể hiểu được có giá trị cao nhất Đối tượng khảo sát nhận thấy BCTC có sự nhất quán trong chính sách kế toán và mức độ trình bày thông tin rõ ràng, trong khi các thuộc tính còn lại được đánh giá ở mức độ trung bình.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thương (2018) chỉ ra rằng tính minh bạch thông tin tài chính trong khu vực công ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào trách nhiệm giải trình và quyết toán, hơn là cung cấp thông tin cho quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC) Nghiên cứu mang tên “Các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin trên BCTC khu vực công Việt Nam: Trường hợp đơn vị sự nghiệp có thu tại TP.HCM” đã xác định ba trong bốn nhân tố có tác động đáng kể đến mức độ minh bạch thông tin, bao gồm Đặc điểm đội ngũ kế toán (hệ số 0.154), Mức độ quan tâm của các đối tượng đến BCTC (hệ số 0.258), và Công nghệ thông tin (hệ số 0.550) Đặc biệt, nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ đáng kể giữa Đặc điểm quản trị và biến phụ thuộc Những phát hiện này phù hợp với lý thuyết từ nhiều nghiên cứu trước đó mà tác giả đã tổng hợp.
1.2.2 Tổng quát các nghiên cứu liên quan đến nhân tố tác động đến chất lượng thông tin BCTC
Nguyễn Thị Thu Hiền (2014), nối tiếp và kế thừa nghiên cứu của Choi và Mueller
Trong luận án tiến sĩ về Hoàn thiện BCTC khu vực công tại Việt Nam, tác giả đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán (CLTT) trên báo cáo tài chính (BCTC) khu vực công cần được kiểm định Để phân tích dữ liệu và xác định các nhân tố này, tác giả áp dụng công cụ phân tích nhân tố khám phá (EFA) Kết quả kiểm định cho thấy các nhân tố tác động đến cải cách kế toán khu vực công Việt Nam theo thứ tự gồm: Môi trường chính trị (giám sát của Quốc Hội, sự dân chủ, hỗ trợ chính trị); Môi trường quốc tế (áp lực từ tổ chức quốc tế, can thiệp tài chính, hỗ trợ chuyên môn); Môi trường kinh tế (kinh phí cải cách, áp lực tài chính, thu nhập người dân); Môi trường pháp lý (quy định về quản lý ngân sách, kiểm soát nội bộ); Môi trường giáo dục và nghề nghiệp (trình độ chuyên gia, chính sách tuyển dụng, khả năng công nghệ thông tin); và Môi trường văn hóa.
Chủ nghĩa cá nhân và tham nhũng đang trở thành những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội hiện nay Việc thực thi các chuẩn mực và đạo đức nghề nghiệp cần được coi trọng hơn bao giờ hết Bên cạnh đó, văn hóa quản lý quan liêu và tâm lý ngại đổi mới của các quan chức, lãnh đạo và điều hành đơn vị cũng góp phần cản trở sự phát triển và tiến bộ.
Kế thừa nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền (2014) và dựa trên các nhân tố do Choi và Mueller xác định, nhiều tác giả đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán (TTKT) trên báo cáo tài chính (BCTC) trong khu vực công Cụ thể, Trần Mỹ Ngọc (2017) đã chỉ ra 7 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TTKT tại các đơn vị hành chính phường/xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, bao gồm môi trường pháp lý, chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, đào tạo bồi dưỡng và hệ thống thông tin kế toán Đỗ Nguyễn Minh Châu (2016) cũng xác định 7 nhân tố tương tự tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập ở thành phố Hồ Chí Minh, thêm vào đó là khả năng của nhà quản lý và trình độ nhân viên kế toán Trong khi đó, Trần Thị Tùng (2015) đã kết luận rằng 5 nhân tố gồm môi trường pháp lý, chính trị, kinh tế, giáo dục và văn hóa đều có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng TTKT tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập ở tỉnh Bình Dương.
Trong những năm gần đây, việc xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán công (CMKT công) tại Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Theo PGS.TS Mai Thị Hoàng Minh (2008), các quốc gia cần lập báo cáo tài chính hợp nhất cho lĩnh vực công theo chuẩn mực quốc tế để có thể so sánh tình hình tài chính toàn cầu Bùi Văn Mai (2007) nhấn mạnh rằng Việt Nam sẽ áp dụng IPSASs để phát triển CMKT khu vực công, với ba điều kiện cần thiết: điều kiện pháp lý, điều kiện kỹ thuật nghiệp vụ và điều kiện tổ chức thực hiện Cụ thể, cần sửa đổi luật ngân sách nhà nước và chính sách tài chính, phân biệt yêu cầu lập báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán ngân sách, đồng thời tổ chức đào tạo nhân sự kế toán Cao Thị Cẩm Vân (2016) đã chỉ ra rằng các yếu tố như hệ thống pháp lý, chính trị, văn hóa và môi trường hoạt động đang cản trở tiến trình xây dựng chuẩn mực kế toán công tại Việt Nam.
Kỹ thuật nghiệp vụ, điều kiện tổ chức; Áp lực về hội nhập kinh tế và Tác động của IPSAS
1.3 Nhận xét các nghiên cứu trước và xác định vấn đề nghiên cứu
1.3.1 Nhận xét các nghiên cứu trước
Theo sự phát triển kinh tế toàn cầu, các nghiên cứu về chất lượng thông tin tài chính (CLTT) trên báo cáo tài chính (BCTC) ngày càng được hoàn thiện và điều chỉnh phù hợp với từng bối cảnh Những nghiên cứu này không chỉ có cơ sở lý thuyết vững chắc mà còn cung cấp chứng minh cho kết quả đạt được Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra sự đa dạng của các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TTKT Trong bối cảnh Việt Nam, tác giả sẽ kế thừa các nghiên cứu trong nước để đảm bảo tính phù hợp với tình hình phát triển Mặc dù có nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TTKT tại khu vực tư, nhưng nghiên cứu về khu vực công vẫn còn hạn chế và chưa đi sâu vào ứng dụng cụ thể tại các đơn vị.
1.3.2 Xác định vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu của Choi và Mueller (1984) chỉ ra rằng sự phát triển của hệ thống kế toán luôn hướng tới việc tạo ra thông tin đầu ra hữu ích, đáp ứng nhu cầu người sử dụng và được công nhận rộng rãi bởi các quốc gia và tổ chức kinh tế lớn Vì vậy, chất lượng thông tin tài chính (CLTT) trên báo cáo tài chính (BCTC) cũng chịu ảnh hưởng từ những yếu tố này.
Trong thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, hệ thống thông tin (HTTT) đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực Nghiên cứu của Iskanda Muda và các cộng sự (2018) cho thấy rằng nhân tố HTTT kế toán có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính (BCTC).
Tác giả chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên BCTC khu vực công - nghiên cứu tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Long An” nhằm thực hiện nghiên cứu Nghiên cứu sẽ dựa trên nền tảng các nhân tố đã được Choi và Mueller xác định, đồng thời bổ sung thêm nhân tố Hệ thống thông tin của đơn vị theo nghiên cứu của Iskanda Muda và các cộng sự (2018), qua đó phân tích thực trạng và đánh giá khả năng tại Việt Nam.
Trong chương này, tác giả đã tổng quan các nghiên cứu về chất lượng thông tin tài chính (CLTT BCTC), phân tích các nhân tố ảnh hưởng và nhấn mạnh sự cần thiết ban hành cơ chế quản trị công tại Việt Nam để nâng cao CLTT BCTC khu vực công, hướng tới sự tương xứng với các quốc gia trong khu vực và toàn cầu Tác giả cũng chỉ ra những điểm tương đồng trong các nghiên cứu quốc tế, làm nền tảng cho nghiên cứu tại Việt Nam, nơi mà các nghiên cứu về CLTT BCTC chủ yếu tập trung vào khu vực tư và còn thiếu ở khu vực công Nhận thức được điều này, tác giả quyết định thực hiện nghiên cứu nhằm đi sâu vào từng loại hình đơn vị và khu vực Chương tiếp theo sẽ trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài.
CƠ SỞ LÝ THUY Ế T
Tổng quan về đơn vị sự nghiệp công lập
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò đơn vị sự nghiệp công lập
2.1.1.1 Khái niệmđơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị hành chính sự nghiệp là tổ chức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hoặc quản lý các hoạt động nhất định, bao gồm giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, nông lâm ngư nghiệp và các lĩnh vực khác Các đơn vị này hoạt động chủ yếu bằng nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước và không bồi hoàn trực tiếp Đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo công lập là một loại hình đơn vị sự nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, chuyên cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo và được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động Đặc trưng của đơn vị này bao gồm vị trí pháp lý, tính chất hoạt động và đội ngũ viên chức, phân biệt với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và các tổ chức khác Các đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy trình nghiêm ngặt và là phần cấu thành trong cơ cấu tổ chức của Nhà nước, nhưng không có quyền lực Nhà nước và không thực hiện chức năng quản lý Nhà nước như xây dựng thể chế hay xử lý vi phạm hành chính.
2.1.1.2 Đặcđiểm và vai trò của đơn vị sự nghiệp công lập Đặc điểm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường
Các đơn vị sự nghiệp công (HCSN) hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ ngân sách Nhà nước hoặc nguồn thu sự nghiệp, không vì mục đích lợi nhuận và tập trung phục vụ lợi ích công cộng Đặc điểm này ảnh hưởng sâu sắc đến công tác kế toán của các đơn vị HCSN, thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Để thực hiện kiểm tra, giám sát và thanh quyết toán ngân sách, kế toán các đơn vị sự nghiệp cần tuân thủ chế độ kế toán theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Để tổng hợp số liệu về các khoản chi ngân sách, các đơn vị hành chính sự nghiệp cần hạch toán chi tiết theo từng chương, mục, đảm bảo phù hợp với mục lục ngân sách Nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đào tạo có những đặc điểm riêng biệt, thể hiện sự khác biệt về chức năng và nhiệm vụ trong hoạt động của mình Những đặc trưng này không chỉ phản ánh vai trò của đơn vị trong hệ thống giáo dục mà còn khẳng định sự quan trọng của chúng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo công lập luôn được định hướng bởi Nhà nước theo từng giai đoạn, đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo.
Thứ hai, đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập cung ứng các dịch vụ công đặc biệt, vì sản phẩm của nó là tri thức
Thứ ba, đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo công lập sử dụng chính con người để giáo dục đào tạo con người
Hoạt động sự nghiệp trong các đơn vị giáo dục công lập vào thứ tư thể hiện sự kết nối chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Năm học không trùng với năm ngân sách, phản ánh sự phát triển kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường, đặc biệt tại tỉnh Long An Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhu cầu học tập của người dân và tiêu chuẩn nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế - xã hội ngày càng cao Để xây dựng Long An thành tỉnh công nghiệp, mục tiêu đến năm 2020 là phát triển giáo dục - đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, với ưu tiên nâng cao chất lượng giáo dục Ngày 14/11/2013, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 3956/QĐ-UBND về Chiến lược Phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2013-2020, định hướng đến 2030, với 5 giải pháp chiến lược cụ thể.
Ðổi mới công tác quản lý giáo dục và từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách
Hoàn thiện cơ cấu và nâng cao chất lượng giáo viên, nhân sự quản lý giáo dục
Thúc đẩy các quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế về giáo dục và đào tạo
Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo
Vận dụng những nhân tố mới, hiện đại trong hoạt động giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo
Với 5 giải pháp nêu trên, tỉnh đã đề ra 6 chương trình hành động:
Chương trình 1- Phát triển đội ngũ và nâng cao chất lượng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
Chương trình 2- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường và trong đổi mới công tác quản lý giáo dục
Chương trình 3 tập trung vào việc sắp xếp cơ cấu và phát triển mạng lưới trường học theo hướng hiện đại hóa và chuẩn hóa, nhằm xây dựng nền tảng cho xã hội học tập.
Chương trình 4 nhằm thúc đẩy và cải cách giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho sự phát triển các ngành kinh tế - xã hội tại địa phương Việc đổi mới này sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo sinh viên có kỹ năng phù hợp với yêu cầu thị trường lao động Đồng thời, chương trình cũng hướng tới việc tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế địa phương.
Chương trình 5- Xây dựng các loại hình bồi dưỡng, phát triển học sinh-sinh viên năng khiếu và tài năng
Chương trình 6- Tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật trường học theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa
2.1.2 Pháp luật và cơ chế tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp công lập
Luật kế toán số 88/2015/QH13, được Quốc hội ban hành ngày 20/11/2015, quy định về công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán và hoạt động kinh doanh dịch vụ kế toán Luật này nhằm thống nhất quản lý kế toán, đảm bảo rằng kế toán trở thành công cụ quản lý hiệu quả, cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và minh bạch cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức cá nhân.
Luật quy định rõ các đơn vị hành chính sự nghiệp là đối tượng áp dụng, do đó, kế toán tại các đơn vị này cần tuân thủ các quy định về chứng từ, tài khoản, nguyên tắc kế toán, đối tượng kế toán và hệ thống báo cáo kế toán.
Luật ngân sách Nhà nước số 83/2015/QH13, ban hành ngày 25/06/2015, quy định chi tiết về việc lập, chấp hành, kiểm toán, quyết toán và giám sát ngân sách Nhà nước Luật này xác định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân liên quan đến ngân sách Để đạt được mục tiêu quản lý ngân sách hiệu quả, Luật đã đề ra các quy định chặt chẽ về thu chi, lập dự toán ngân sách các cấp, công khai số liệu dự toán và quyết toán, cũng như quy trình kiểm tra, thanh tra và kiểm toán ngân sách Nhà nước.
Cơ chế tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp công lập
Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy định chế độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về biên chế cùng kinh phí quản lý hành chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập, nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan chủ động sử dụng nguồn lực một cách hợp lý Cơ chế tài chính này thúc đẩy việc sắp xếp bộ máy tinh gọn, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong quản lý Đồng thời, nó trao quyền tự chủ cho các đơn vị trong tổ chức công việc, sắp xếp bộ máy, và sử dụng lao động, giúp phát huy tính sáng tạo và chủ động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tổng quan về chất lượng TTKT trên BCTC khu vực công
2.2.1 Quan điểm về chất lượng thông tin
Chất lượng thông tin (CLTT) được định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau Baltan (2012) cho rằng CLTT là thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời và duy nhất, có khả năng đáp ứng hoặc vượt qua mong đợi của người dùng Rapina (2014) nhấn mạnh rằng CLTT là sự khác biệt giữa thông tin yêu cầu và thông tin đạt được Gekinas và cộng sự (2012) cho rằng thông tin chất lượng là thông tin có lợi cho các nhà kinh doanh, với các tiêu chí chung về sự liên quan, tính kịp thời, chính xác và đầy đủ Cuối cùng, Epper (2006) mô tả CLTT qua đặc tính hữu ích cho người sử dụng.
Mouzhi Ge (2009) cho rằng CLTT được khái niệm dựa trên hai khía cạnh chủ yếu: đặc điểm thông tin và người sử dụng thông tin
Chất lượng thông tin (CLTT) được định nghĩa là sự đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật (Kahn & Strong, 1988) và được đánh giá qua 7 tiêu chuẩn theo Cobit, bao gồm: hữu hiệu, hiệu quả, bảo mật, toàn vẹn, sẵn sàng, tuân thủ và đáng tin cậy (IT Governance Institute, 2007; theo Eppler 2006) Đối với người sử dụng, CLTT là sự phù hợp với nhu cầu của họ (Wang & Strong, 1996) Thông tin có chất lượng tốt được xác định bởi tính chính xác, đầy đủ, phù hợp, kịp thời và nhất quán (Baltzan, 2012) Gelinas và các cộng sự (2012) nhấn mạnh rằng CLTT đạt được khi mang lại lợi ích cho người ra quyết định, trong khi người sử dụng cần có tiêu chí cụ thể cho chất lượng thông tin, bao gồm tính thích hợp, kịp thời, chính xác và đầy đủ.
Trong nghiên cứu, tác giả kết hợp hai quan điểm về đặc điểm thông tin và người sử dụng thông tin để định nghĩa CLTT Theo đó, CLTT được hiểu là một tập hợp các tiêu chuẩn quy định nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng.
2.2.2 Quan điểm về CLTT trên BCTC
Trong lĩnh vực kế toán, chất lượng thông tin tài chính (CLTT) được nhấn mạnh trong các báo cáo của các tổ chức nghề nghiệp kế toán quốc tế như AAA, FASB, IASB và đặc biệt là IPSASB Ngoài ra, CLTT cũng được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, như Luật Kế toán Việt Nam, và được nghiên cứu kỹ lưỡng trong các nghiên cứu cơ bản về chất lượng thông tin kế toán.
Theo FASB (1993), các tổ chức nghề nghiệp xác định rằng chất lượng thông tin tài chính (CLTT) bao gồm các thuộc tính Thích hợp, Đáng tin cậy và Có thể hiểu được Trong khi đó, IASB nhấn mạnh rằng chất lượng thông tin (CL) được hiểu là những thuộc tính giúp thông tin trên báo cáo tài chính trở nên hữu ích cho người sử dụng, bao gồm: Có thể hiểu được, Thích hợp, Đáng tin cậy và Có khả năng so sánh (IASB, 2001).
Theo quy định của Nhà nước, Luật Kế toán Việt Nam năm 2015 xác định các thuộc tính quan trọng bao gồm: tính trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và khả năng so sánh.
Dựa trên các tiêu chí của IASB và FASB, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm khác nhau về chất lượng thông tin tài chính (CLTT BCTC) Jonas và Blanchet (2000) nhấn mạnh rằng CLTT BCTC thể hiện qua việc báo cáo tài chính cung cấp thông tin tài chính đầy đủ và rõ ràng, với mục tiêu tránh gây nhầm lẫn cho người sử dụng Trong khi đó, Tang và các cộng sự (2008) định nghĩa CLTT BCTC là khả năng của báo cáo tài chính trong việc cung cấp thông tin trung thực và thực tế về hiệu quả hoạt động và tình hình tài chính của một thực thể Trong nghiên cứu này, tác giả khái niệm CLTT BCTC là khả năng mà báo cáo tài chính cung cấp thông tin tài chính hữu ích cho nhà đầu tư, người cho vay và các chủ nợ hiện hữu và tiềm năng trong quá trình ra quyết định.
Các thuộc tính CLTT BCTC do FASB và IASB ban hành vào năm 2010 được coi là có tính hội tụ cao và đã được nhiều nghiên cứu trước đó tham chiếu Nghiên cứu này trình bày các khái niệm liên quan đến các thuộc tính CLTT BCTC, được trích dẫn từ "Khuôn mẫu các khái niệm cho BCTC 2010" mà FASB và IASB phát hành.
Các thuộc tính về chất lượng thông tin tài chính (CLTT) của FASB và IASB năm 2010 nhấn mạnh rằng mục tiêu chính của việc lập báo cáo tài chính (BCTC) là cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư, người cho vay và các chủ nợ trong việc ra quyết định cung cấp nguồn lực cho một thực thể Khuôn mẫu xác định các đặc tính nền tảng của CLTT là tính thích hợp và trình bày trung thực Ngoài ra, các thuộc tính bổ sung nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính bao gồm khả năng so sánh, khả năng kiểm chứng và tính kịp thời.
Thích hợp: khả năng tác động của thông tin đến việc ra quyết định của người dùng
Thông tin có thể có khả năng ảnh hưởng đến việc ra quyết định khi nó mang Giá trị dự đoán, Giá trị xác nhận hay cả hai (IASB, 2010)
Giá trị dự đoán: thông tin được sử dụng như là một thông tin đầu vào bởi người dùng khi dự đoán các kết quả tương lai (IASB, 2010)
Giá trị xác nhận: thông tin cung cấp những phản hồi về việc thừa nhận hoặc những sự thay đổi của các đánh giá trước đó (IASB, 2010)
Trình bày trung thực: bao gồm Toàn vẹn, Trung lập, Không sai sót của thông tin
Toàn vẹn đề cập đến việc cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để người dùng hiểu rõ các hiện tượng, bao gồm mọi miêu tả và giải thích cần thiết Đối với một số khoản mục, toàn vẹn còn yêu cầu giải thích các mức ý nghĩa về bản chất của các khoản mục, các nhân tố và hoàn cảnh có thể ảnh hưởng đến chất lượng và bản chất đó, cũng như quy trình được sử dụng để xác định các giá trị này (IASB, 2010).
Trung lập được định nghĩa là không chứa đựng định kiến hay điều chỉnh thông tin, nhằm tạo điều kiện cho người sử dụng tiếp nhận thông tin một cách khách quan Tuy nhiên, sự trung lập không đồng nghĩa với việc trình bày thông tin mà không có mục tiêu hay không ảnh hưởng đến hành vi của người dùng Thực tế, thông tin cần phải có sức ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng, theo đặc tính Thích hợp (IASB, 2010).
Không sai sót (Free from error) có nghĩa là không có lỗi hay thiếu sót trong việc miêu tả sự kiện và quy trình sản xuất thông tin Việc ước lượng giá trị cần phải chính xác và đúng sự thật, đặc biệt khi giá trị được xác định rõ ràng Ngoài ra, bản chất và giới hạn của ước lượng cũng cần được giải thích rõ ràng, đảm bảo không có sai sót trong việc lựa chọn và áp dụng quy trình phù hợp trong quá trình ước lượng (IASB, 2010).
Các thuộc tính làm gia tăng CL thông tin: bao gồm Có khả năng so sánh, Có thể kiểm chứng, Kịp thời và Có thể hiểu được (IASB, 2010)
Khả năng so sánh thông tin giữa các thực thể hoặc giữa các kỳ khác nhau của cùng một thực thể là rất quan trọng, vì nó giúp nâng cao giá trị của dữ liệu Mặc dù nhất quán liên quan đến khả năng so sánh, nhưng nó không hoàn toàn giống nhau; nhất quán đề cập đến việc sử dụng cùng một phương pháp cho cùng một khoản mục qua các kỳ khác nhau.
KT trong phạm vi của thực thể hoặc giữa các thực thể trong cùng một kỳ KT cho phép so sánh, với mục tiêu đạt được tính nhất quán cần thiết (IASB).
Thông tin phải được kiểm chứng để đảm bảo phản ánh trung thực các hiện tượng kinh tế, với sự đồng thuận từ những người độc lập và có kiến thức Sự đồng thuận này không cần phải hoàn toàn, nhưng phải mô tả chính xác thông tin được trình bày Kiểm chứng thông tin cần thực hiện cả về số lượng lẫn giá trị, có thể thông qua các phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp (IASB, 2010).
Kịp thời: thông tin luôn sẵn sàng cho việc ra quyết định Một cách chung nhất, thông tin càng lỗi thời thì tính hữu ích càng thấp (IASB, 2010)
Lý thuyết nền cho việc nghiên cứu
Lý thuyết thông tin hữu ích cho việc ra quyết định
Lý thuyết thông tin hữu ích (decision usefulness theory) là nền tảng cho việc xây dựng các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế và kế toán của nhiều quốc gia, nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin hữu ích cho người dùng trong quá trình ra quyết định kinh tế Lý thuyết này cũng đề cập đến khái niệm cân bằng lợi ích – chi phí, điều này rất quan trọng trong việc thiết lập các chuẩn mực (Godfrey và các cộng sự, 2003) Trong nghiên cứu, lý thuyết này giải thích rằng mục tiêu của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin chất lượng, giúp nhà đầu tư và các bên liên quan đưa ra quyết định kinh tế chính xác hơn.
Các lý thuyết về lập quy
Các lý thuyết lập quy chỉ ra vai trò quan trọng của việc thiết lập và tổ chức quy định Lý thuyết lợi ích xã hội nhấn mạnh sự cần thiết của các quy định để điều chỉnh sự không hiệu quả của thị trường, nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội Ngược lại, lý thuyết nhóm lợi ích và lý thuyết lợi ích cá nhân bày tỏ hoài nghi về tính khách quan của các tổ chức lập quy, cho rằng chúng có thể bị chi phối bởi lợi ích của nhóm hoặc cá nhân Những lý thuyết này giúp giải thích vai trò của môi trường pháp lý trong việc nâng cao chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính.
Các lý thuyết về sựđa dạng của kế toán quốc gia
Các lý thuyết về sự đa dạng của kế toán quốc gia giải thích sự khác biệt trong kế toán giữa các quốc gia dựa trên đặc điểm riêng của từng quốc gia Vấn đề này thu hút nhiều sự quan tâm trong nghiên cứu, với ngày càng nhiều nhân tố được xác định và phân tích Trong số đó, có bốn nhóm yếu tố chính: kinh tế, pháp lý, văn hóa và chính trị.
Nhóm này bao gồm nhân tố liên quan đến nền kinh tế nói chung và đặc điểm của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc gia:
Sự phát triển của nền kinh tế gắn liền với vai trò quan trọng của kế toán, vì một nền kinh tế vững mạnh cần có công cụ kế toán hiệu quả để tạo dựng niềm tin trong các giao dịch và tối ưu hóa việc sử dụng vốn (Enthoven, 1965).
Hệ thống kế toán hiện nay được phát triển theo xu hướng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia Chẳng hạn, hệ thống kế toán của Úc, mặc dù trước đây gần gũi với Anh do lịch sử thuộc địa, nhưng ngày càng tách biệt hơn nhờ vào sự gia tăng giao dịch thương mại với Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á (Robert et al, 1998).
Lạm phát tác động đến hệ thống kế toán quốc gia bằng cách thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của các phương pháp kế toán nhằm ứng phó với những biến động lớn về chỉ số giá (Tweedie & Whittington, 1984).
Nguồn cung cấp tài chính ảnh hưởng đến cách thức và mức độ cung cấp thông tin kế toán Ở các quốc gia có nguồn tài chính chủ yếu từ thị trường vốn, hệ thống kế toán thường tập trung vào việc công bố thông tin nhiều hơn, đồng thời yêu cầu kiểm toán và trình bày hợp lý (Nobes & Parker, 1995).
Cấu trúc doanh nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kế toán, đặc biệt khi quy mô và sự phức tạp của hoạt động kinh doanh gia tăng Điều này yêu cầu hệ thống kế toán phát triển các công cụ phù hợp, như báo cáo tài chính tập đoàn, hợp nhất kinh doanh và các công cụ tài chính.
Pháp lý cũng là những nhân tố được ghi nhận sớm về ảnh hưởng đến hệ thống kế toán quốc gia Nhóm này bao gồm những nhân tố sau:
Hệ thống pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến hệ thống kế toán Các quốc gia theo hệ thống thông luật thường ít quy định chi tiết về kế toán so với các quốc gia áp dụng hệ thống điển luật.
Hệ thống thuế và mối quan hệ giữa thuế và kế toán đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc kế toán của các quốc gia Theo Robert et al (1998), các quốc gia được chia thành ba nhóm: nhóm đầu tiên có hệ thống kế toán và thuế hoàn toàn độc lập như Hoa Kỳ và Anh; nhóm thứ hai là những quốc gia mà hệ thống kế toán và thuế chung một hệ thống, trong đó kế toán phải tuân theo các quy định chi tiết của thuế, như ở Pháp và Đức; và nhóm cuối cùng là các quốc gia đang phát triển trong khối thịnh vượng chung, nơi hệ thống thuế đơn giản dựa trên thông tin từ hệ thống kế toán.
Tổ chức nghề nghiệp, theo các tác giả như Robert et al (1998) và Nobes & Parker (1995), được xem là một yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống kế toán quốc gia Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác, như của Gray (1988), lại coi tổ chức nghề nghiệp là một yếu tố văn hóa.
Lý thuyết Gray được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Hofstede (1984) về các khuynh hướng văn hóa ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, bao gồm chủ nghĩa cá nhân/tập thể, khoảng cách quyền lực, né tránh/không né tránh những vấn đề chưa chắc chắn và nam tính/nữ tính Từ đó, Gray đã phát triển nhóm nhân tố ảnh hưởng đến các giá trị kế toán, bao gồm phát triển nghề nghiệp/kiểm soát theo luật định, thống nhất/linh hoạt, thận trọng/lạc quan và bảo mật/công khai.
– Lý thuyết của Gray được nhiều nhà nghiên cứu khác sử dụng như Nobes
Mặc dù lý thuyết của Gray đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu như của Haniffa & Cooke (2002) và Noravesh et al (2007), một số nghiên cứu thực nghiệm, chẳng hạn như của Finch (2009), cho thấy thiếu bằng chứng hỗ trợ cho lý thuyết này và nhấn mạnh rằng cần tiếp tục nghiên cứu thêm.
Nhân tố chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, với một số tác giả như Robert et al (1998) nhấn mạnh vai trò của các thể chế chính trị Đồng thời, Doupnik & Perera (2007) cho rằng mối quan hệ chính trị – kinh tế giữa các quốc gia, như giữa Hoa Kỳ với Canada và Mexico hay giữa Anh với các thuộc địa cũ, thể hiện sự liên quan chặt chẽ giữa hai lĩnh vực này.
Trong những năm gần đây, chính trị đã trở thành yếu tố quan trọng trong các chính sách quốc gia nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia trong tiến trình hội tụ quốc tế Zeff (2007) đã phân tích mối quan hệ chính trị giữa EU, Hoa Kỳ và IASB trong quyết định về hội tụ kế toán Đồng thời, Ramanna (2011) cũng chỉ ra rằng cách thức ba quốc gia Canada, Trung Quốc và Ấn Độ lựa chọn chiến lược tiếp cận và ghi nhận phụ thuộc vào mối quan hệ sức mạnh giữa các quốc gia này với IASB.
Các nhân tố ảnh hưởng đến CLTT trên BCTC tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập
Dựa trên cơ sở lý thuyết và tài liệu nghiên cứu, tác giả đã xác định sáu nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục ở tỉnh Long An.
- Hệ thống thông tin kế toán của đơn vị
Các nhân tố này đã được trình bày trong công trình nghiên cứu của Choi và Mueller
Nghiên cứu từ năm 1984 chủ yếu tập trung vào sự phát triển của hệ thống kế toán mà chưa xác định rõ trong một khu vực cụ thể Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền (2014) đã áp dụng kết quả nghiên cứu của Choi và Mueller vào môi trường kế toán khu vực công tại Việt Nam, từ đó đạt được những kết quả tích cực.
Qua các phân tích cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước, luận văn đưa ra mô hình nghiên cứu như sau:
Biến phụ thuộc trong mô hình: Chất lượng thông tin kế toán
Trong mô hình nghiên cứu, có 6 nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán, bao gồm: (1) Môi trường pháp lý, (2) Môi trường kinh tế, và (3) Môi trường văn hóa Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định độ tin cậy và tính chính xác của thông tin kế toán, từ đó ảnh hưởng đến quyết định của các bên liên quan.
(4) Môi trường chính trị, (5) Môi trường giáo dục, (6) Hệ thống thông tin kế toán của đơn vị
Môi trường pháp lý đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh, bao gồm hệ thống luật pháp và các quy định liên quan Nó được cấu thành từ bốn nhân tố chính, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và vận hành của các doanh nghiệp.
Luật ngân sách và các chính sách quản lý tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến chế độ kế toán của các đơn vị sự nghiệp công lập, đồng thời quyết định chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính của khu vực này.
Chuẩn mực, chế độ và chính sách kế toán khu vực công đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính của khu vực công, đặc biệt là tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập.
Chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính của khu vực công, đặc biệt tại các đơn vị sự nghiệp công lập, phụ thuộc vào cơ quan có thẩm quyền ban hành chuẩn mực kế toán cùng với các chế độ, chính sách và quy định trong lĩnh vực kinh tế công.
Mục tiêu báo cáo tài chính rõ ràng: Chuẩn mực, chế độ kế toán xác định mục tiêu
BCTC càng rõ ràng thì thông tin cung cấp trên BCTC càng hữu ích
Tính ổn định của nền kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các đơn vị sự nghiệp công lập, và điều này phụ thuộc vào bốn nhân tố chính.
Sự phát triển kinh tế tại các đơn vị SNGD công lập đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng kế toán và báo cáo tài chính Khi kinh tế các đơn vị này phát triển, hệ thống kế toán sẽ được cải thiện, dẫn đến việc sản xuất báo cáo tài chính chất lượng hơn tại các trường SNGD công lập.
Quy mô của các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập càng lớn thì chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) cũng được nâng cao.
Cạnh tranh giữa các đơn vị SNGD công lập tại tỉnh Long An ngày càng gia tăng, dẫn đến nhu cầu cao về việc cung cấp thông tin chính xác và hiệu quả Điều này thúc đẩy chất lượng thông tin kinh tế - xã hội (TTKT) ngày càng được cải thiện.
Quy định về việc sử dụng thu, chi ngân sách tại các đơn vị SNGD công lập là khác nhau, với mỗi đơn vị áp dụng định mức thu, chi riêng phù hợp với tình hình thực tế Yếu tố này ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thanh tra kiểm tra tại từng đơn vị.
Chủ nghĩa cá nhân và tham nhũng của những người quản lý, điều hành trong việc sử dụng tài chính công có thể làm giảm chất lượng báo cáo tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
Sự hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các cá nhân trong quy trình thực hiện hệ thống là yếu tố quan trọng, giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác kế toán Việc làm này không chỉ cải thiện quy trình làm việc mà còn đảm bảo thông tin được cung cấp một cách chính xác và đầy đủ hơn.
Tuân thủ các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là điều quan trọng trong tổ chức, giúp nâng cao tính minh bạch và công khai trong báo cáo Sự tuân thủ này không chỉ cải thiện chất lượng thông tin đầu ra mà còn góp phần vào hiệu quả hoạt động chung của tổ chức.