(1) Nêu rõ vấn đề hoàn thiện chữ viết tiếng MNông (2) Hệ thống từ vựng của tiếng M’Nông Preh (3) Các trường từ vựng – ngữ nghĩa thường gặp trong tiếng M’Nông Preh (4) Biểu hiện của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông – Việt trên bình diện từ vựng – ngữ nghĩa
Mục đích nghiên cứu
Lí thuyết về sự tiếp xúc ngôn ngữ cung cấp những quan niệm và cơ sở khoa học quan trọng để nghiên cứu và giải quyết các hiện tượng ngôn ngữ liên quan đến vấn đề dân tộc Thông qua việc phân tích các tương tác ngôn ngữ giữa các nhóm dân tộc khác nhau, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự hình thành, phát triển và biến đổi ngôn ngữ trong bối cảnh văn hóa đa dạng Việc áp dụng lí thuyết này không chỉ giúp nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ mà còn góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị ngôn ngữ dân tộc.
Bài viết này phân tích sự giao thoa giữa ngôn ngữ M’Nông và tiếng Việt tại bon Đăk Blao, thị trấn Kiến Đức, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông Nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và ngữ nghĩa, đồng thời đảm bảo tính cập nhật và khoa học của thông tin Nội dung bài viết được xây dựng với tính phổ cập, tiện dụng và hệ thống, đồng thời tôn trọng thực tế khách quan của dữ liệu ngôn ngữ.
Nghiên cứu nguyên nhân và tác động của sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa M’Nông và tiếng Việt là cần thiết để hiểu rõ hơn về sự phát triển của ngôn ngữ Bài viết cũng sẽ đề cập đến thực trạng đào tạo và giáo dục trong việc sử dụng song ngữ và đa ngữ, đặc biệt là trong việc gìn giữ và phát triển tiếng M’Nông.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là tiếng Việt và tiếng M’Nông ở tỉnh Đăk Nông.
Đề tài nghiên cứu tập trung vào cộng đồng người M’Nông tại Bon Đăk Blao, thuộc thị trấn Kiến Đức, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông.
Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã thu hút sự chú ý từ sớm, đặc biệt qua cuốn “Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam những năm 90” của Viện Thông tin Khoa học Xã hội Tài liệu này đã tổng hợp thư mục nghiên cứu về ngôn ngữ dân tộc từ năm 1990 đến 2002, phản ánh sự phát triển và quan tâm đối với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trong giai đoạn này.
Có tổng cộng 58 công trình (sách, bài viết) liên quan đến vấn đề chung và 235 công trình nghiên cứu về các ngôn ngữ dân tộc khác nhau Một số công trình tiêu biểu có thể được nhắc đến.
+ Trần Trí Đôi (1999): Nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Hoàng Tuệ, Nguyễn Văn Tài, Hoàng Văn Ma (1984): Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và chính sách ngôn ngữ, NXB Khoa học Hà Nội.
Trong số nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã được nghiên cứu và công nhận, tiếng M’Nông nổi bật với những công trình nghiên cứu đáng chú ý Mặc dù tiếng Stiêng, tiếng Bana, tiếng Tày, và tiếng Mường cũng được biết đến, nhưng tiếng M’Nông vẫn là đối tượng chính trong nghiên cứu hiện nay Một số công trình nghiên cứu về tiếng M’Nông đã được giới chuyên môn công nhận và đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ và phát triển nghiên cứu ngôn ngữ này Những tài liệu này là nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn về tiếng M’Nông.
+ Nguyễn Thu Thủy (1985): Hệ thống ngữ âm tiếng M’Nông Gar (so sánh tiếng Gar với tiếng Preh), Tiểu luận tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Tổng hợp
+ Bùi Khánh Thế (1995): Tiếng M’Nông – Ngữ pháp ứng dụng, Sở Giáo dục và Đào tạo Đăk Lăk.
+ Nguyễn Văn Phổ (1995): Sơ lược về các loại hình câu tiếng M’Nông, Tiểu luận trường Đại học Tổng hợp TP.HCM.
+ Bùi Khánh Thế (2005): Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt nam, NXB Khoa học Xã hội.
+ Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Đăk Nông (2005): Dân ca và lời nói vần
+ Nguyễn Kiên Tường – Trương Anh ( chủ biên) (2009): Từ điển Việt –
M’Nông, NXB Bách khoa, Hà Nội.
Mảng đề tài tiếp xúc ngôn ngữ và song ngữ tại Việt Nam được thể hiện rõ qua thư mục nghiên cứu phong phú của Lý Tùng Hiếu, bao gồm 169 tài liệu trong "Thư mục chọn lọc về tiếp xúc ngôn ngữ" (Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, trang 289-305).
Nghiên cứu tiếng M’Nông đang được thực hiện bởi giảng viên và sinh viên của Đại học Tây Nguyên cùng Khoa Văn học & Ngôn ngữ thuộc Đại học KHXH & NV - ĐHQG TP.Hồ Chí Minh Các công trình nghiên cứu không chỉ tập trung vào Dân tộc học và Ngôn ngữ học mà còn bao gồm từ điển và truyện cổ M’Nông, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của cộng đồng M’Nông.
Nghiên cứu về sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa M’Nông và tiếng Việt vẫn còn hạn chế và chưa sâu sắc trong các tài liệu địa chí cũng như trong phần mở đầu của các nghiên cứu xã hội học, nhân học và lịch sử liên quan đến Tây Nguyên và cộng đồng M’Nông Bên cạnh đề tài niên luận của chúng tôi, cũng tồn tại một số nghiên cứu khác từ các tác giả khác, tập trung vào chính sách ngôn ngữ, giáo dục song ngữ và các vấn đề về cấu trúc ngôn ngữ.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sự tiếp xúc ngôn ngữ có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm đáp ứng các mục đích và yêu cầu cụ thể, bao gồm: phương pháp điều tra và miêu tả điền dã, phương pháp so sánh lịch sử và so sánh loại hình, phương pháp xác định khu vực ngôn ngữ, tìm đường đồng ngữ, cũng như phương pháp thực nghiệm ngôn ngữ học tâm lý.
Nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ qua phương pháp so sánh giúp xác định đặc điểm ngôn ngữ do nguồn gốc chung và ảnh hưởng vay mượn Đồng thời, phương pháp miêu tả khu vực ngôn ngữ hỗ trợ xác định phân bố của nhóm ngôn ngữ có nguồn gốc chung trong một lãnh thổ cụ thể Trong nhiều trường hợp, các phương pháp này cần được sử dụng bổ sung cho nhau để đạt hiệu quả cao nhất.
- Việc nghiên cứu sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông - Việt được tiến hành chủ yếu bởi ba phương pháp sau:
Phương pháp miêu tả khu vực ngôn ngữ giúp xác định phân bố của các nhóm ngôn ngữ có nguồn gốc chung trong một lãnh thổ cụ thể.
Phương pháp điều tra và miêu tả điền dã bao gồm việc đến địa bàn nghiên cứu, gặp gỡ trực tiếp đồng bào M’Nông để khảo sát và ghi chép thông tin Sau khi thu thập dữ liệu, tiến hành thống kê, phân loại, sắp xếp và tổng hợp các kết quả để có cái nhìn tổng quát và chính xác hơn về đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp so sánh trong ngôn ngữ giúp làm rõ các đặc điểm ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và ngữ nghĩa Qua việc phân tích, chúng ta có thể xác định những đặc điểm ngôn ngữ nào xuất phát từ nguồn gốc chung và những đặc điểm nào là kết quả của sự vay mượn hoặc chịu ảnh hưởng từ các ngôn ngữ khác.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Niên luận có ý nghĩa khoa học quan trọng trong việc củng cố các lý thuyết về Ngôn ngữ học Tiếp xúc Nó gợi ý các hướng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu song ngữ, kết hợp giữa Ngôn ngữ học, Xã hội học và Dân tộc học Bên cạnh đó, niên luận còn nhấn mạnh giá trị khoa học qua nghiên cứu sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ đơn lập, đồng thời cung cấp tư liệu quý giá cho các đề tài tương tự.
Niên luận này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng M’Nông tại Tây Nguyên Bằng cách khảo sát sự tiếp xúc giữa ngôn ngữ M’Nông và tiếng Việt, nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố ngôn ngữ và xã hội ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục song ngữ trong khu vực Bên cạnh đó, niên luận cũng tạo cơ sở để so sánh và đối chiếu với các ngôn ngữ khác thuộc ngữ hệ Nam Bahna, đồng thời cung cấp tư liệu quý giá cho các hội thảo về ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số cả trong và ngoài nước.
Bố cục
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, đề tài được cấu trúc thành 3 chương.
1.1 Lí thuyết về tiếp xúc ngôn ngữ
1.2 Đặc điểm về tộc người và ngôn ngữ M’Nông tại địa bàn khảo sátChương 2: Tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt dưới góc nhìn Ngôn ngữ học
2.1 Trên bình diện ngữ âm
2.2 Trên bình diện ngữ nghĩa
2.3 Trên bình diện từ vựng
2.4 Trên bình diện ngữ pháp
Chương 3: Ảnh hưởng của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt đến sự phát triển của ngôn ngữ
3.1 Nguyên nhân của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt
3.2 Ảnh hưởng của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt đến sự phát triển của ngôn ngữ
Tổng quan
Khái quát
- Việt Nam - bức tranh thu nhỏ của tình hình phân bố ngôn ngữ ở Đông Nam Á
Sự tiếp xúc ngôn ngữ tại khu vực này thể hiện sự độc đáo và đa dạng, với sự hiện diện của hầu hết các nhóm ngôn ngữ trong khu vực Đông Nam Á, bao gồm cả những ngôn ngữ hiếm gặp như nhóm ngôn ngữ Việt Mường Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng các ngôn ngữ này không chỉ tồn tại mà còn có sự tiếp xúc phong phú, bao gồm cả tiếp xúc trực tiếp giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ như Tày, Thái, Mường, Nùng, và giữa tiếng Thái với Khơ.
Mối quan hệ ngôn ngữ giữa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, bao gồm sự tiếp xúc gián tiếp giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ của các dân tộc sống ở vùng hẻo lánh như Mú, Kháng, Mèo, Dao Bên cạnh đó, sự tiếp xúc liên tục giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ Mường, Tày, Thái cũng diễn ra thường xuyên Ngoài ra, còn có sự tiếp xúc cách quãng giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường, vốn đã tách ra nhưng hiện nay lại phân bố gần gũi với tiếng Việt Hơn nữa, sự tương tác giữa các ngôn ngữ cùng họ như tiếng Thái, Tày Nùng với các nhóm Bố Y, Giấy, Cao Lan, Sán Chỉ cũng rất đáng chú ý, cùng với sự giao thoa giữa các ngôn ngữ khác họ như nhóm Khơ Me và các ngôn ngữ Tạng - Miến.
Trong bối cảnh nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ, hầu hết các vấn đề quan trọng như nguồn gốc lịch sử, biến đổi cấu trúc ngôn ngữ, song ngữ, đa ngữ, pha trộn, vay mượn, và thâm nhập giữa các ngôn ngữ đã được đặt ra Các vấn đề về hòa hợp và phân bố ngôn ngữ cũng được xem xét Nhiều quan điểm nghiên cứu như phân ly và quy tụ cùng các phương pháp khác nhau đã được áp dụng bởi nhiều tác giả trong các công trình nghiên cứu khác nhau với mức độ khác nhau.
Việc áp dụng lý thuyết về sự tiếp xúc ngôn ngữ để nghiên cứu và giải quyết các hiện tượng ngôn ngữ liên quan đến dân tộc thực chất là một cách tiếp cận mới, hệ thống hơn Điều này không hề xa lạ với những người nghiên cứu ngôn ngữ học dân tộc học tại Việt Nam.
Lý thuyết về tiếp xúc ngôn ngữ
1.2.1 Các định nghĩa và khái niệm
Tiếp xúc ngôn ngữ được định nghĩa là sự tương tác giữa các ngôn ngữ, xảy ra khi các cộng đồng người có ngôn ngữ khác nhau cần giao tiếp do điều kiện địa lý, lịch sử và xã hội Theo O.S Akhmanova (1966), hiện tượng này không chỉ là sự giao thoa mà còn là sự tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ, ảnh hưởng đến cấu trúc và từ vựng của chúng V.N Jarceva (1990) nhấn mạnh rằng các yếu tố xã hội như nhu cầu kinh tế, chính trị và văn hóa là động lực chính thúc đẩy sự tiếp xúc này, giúp các nhóm dân tộc và ngôn ngữ giao lưu và hiểu biết lẫn nhau.
Tiếp xúc ngôn ngữ, ban đầu là một lĩnh vực lý thuyết, đã phát triển qua các cuộc thảo luận của các nhà ngôn ngữ học về nghiên cứu so sánh lịch sử Khi nghiên cứu chuyển sang so sánh đồng đại, giá trị ứng dụng của nó ngày càng được nhấn mạnh Kể từ cuốn sách của U Weinreich, nhiều công trình nghiên cứu đã xuất hiện, không chỉ tập trung vào các ngôn ngữ Ấn - Âu mà còn mở rộng sang các vấn đề ứng dụng và chính trị - xã hội Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học đã xác định ba nhóm vấn đề chính trong nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ: song ngữ, giao thoa ngôn ngữ và quy tụ ngôn ngữ (Rozentzveig V, 1968) Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ M’Nông cũng liên quan đến những vấn đề này.
1.2.2 Các lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học tiếp xúc
- Ngôn ngữ học tiếp xúc nghiên cứu 3 địa hạt chính là nghiên cứu môi trường,nghiên cứu biến đổi và nghiên cứu hoạch định
1.2.3 Đặc điểm tình hình tiếp xúc ngôn ngữ ở Tây Nguyên
Tình hình tiếp xúc ngôn ngữ của dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên thể hiện ba đặc điểm chính Thứ nhất, các ngôn ngữ trong khu vực đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, nhưng mối quan hệ về nguồn gốc giữa chúng chưa được làm rõ, dẫn đến sự phức tạp trong việc phân loại nguyên nhân của các hiện tượng ngôn ngữ tương đồng Những hiện tượng này có thể xuất phát từ quan hệ họ hàng, sự phát triển nội tại của ngôn ngữ, hoặc là kết quả của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Thứ hai, trình độ phát triển và chức năng xã hội của các ngôn ngữ tiếp xúc không đồng đều, với phạm vi tiếp xúc chủ yếu là khẩu ngữ.
Ở Việt Nam, các ngôn ngữ tiếp xúc được phân chia thành hai loại: có chữ viết và không/chưa có chữ viết Các ngôn ngữ như Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, Mường thuộc loại không/chưa có chữ viết, trong khi các ngôn ngữ như Việt (Kinh), Thái, Tày, Khơ Me, Chàm đã có chữ viết Các ngôn ngữ có chữ viết có thể được chia thành hai nhóm: nhóm có chữ viết từ lâu đời (Việt, Khơ Me, Chàm, Thái) và nhóm có chữ viết mới (M’Nông, Mèo) Những ngôn ngữ lâu đời thường đi kèm với một truyền thống văn học và văn hóa phong phú, trong khi các ngôn ngữ khác không có ưu thế này Một số ngôn ngữ từng có chữ viết nhưng hiện nay đã không còn được sử dụng (như Thái Tây Thanh Hóa – Nghệ An), hoặc chỉ còn lại dấu tích lịch sử từ việc sử dụng chữ viết Hán (như Dao).
Ngôn ngữ tiếp xúc ở Việt Nam được phân loại theo chức năng xã hội, bao gồm tiếng Việt dùng cho giao tiếp giữa các dân tộc, các ngôn ngữ địa phương như tiếng Tày, Nùng, Thái cho giao tiếp trong khu vực, và các ngôn ngữ của các tộc người nhỏ như Khơ Mú, Mèo, Mường, Dao Ngôn ngữ có phạm vi giao tiếp rộng sẽ đảm nhiệm nhiều chức năng xã hội hơn, trong khi ngôn ngữ hẹp thường chỉ được sử dụng trong các hoạt động kinh tế tại làng bản hoặc trong gia đình Trước đây, sự tiếp xúc ngôn ngữ diễn ra tự nhiên hoặc bị ảnh hưởng bởi chính sách phân chia và áp bức, nhưng từ sau Cách mạng Tháng Tám, nó đã chuyển sang chịu tác động tích cực của chính sách giải phóng dân tộc, đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Các đặc điểm này chắc chắn ảnh hưởng đến hình thức của các ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, cũng như định hướng phát triển của các ngôn ngữ hiện tại.
1.2.4 Các hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ
Sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ có thể dẫn đến sự phát triển quy tụ trong một liên minh ngôn ngữ hoặc hiện tượng giao thoa ngôn ngữ Điều này bao gồm sự biến đổi của các ngôn ngữ và tình trạng song ngữ diễn ra trong cộng đồng hoặc ở từng cá nhân.
Đặc điểm về tộc người và ngôn ngữ M’Nông tại địa bàn khảo sát
M’Nông là tên gọi chung cho một tộc người, phản ánh thói quen và tính phổ biến trong việc chỉ các nhánh thuộc cộng đồng dân tộc này, đang sinh sống tại một phần lãnh thổ Việt Nam Tên tự gọi của cộng đồng này là Bu Noong.
Tiếng M’Nông, giống như nhiều ngôn ngữ khác, có sự đa dạng và phong phú do quá trình giao lưu giữa các tộc người và văn hóa Điều này dẫn đến sự xuất hiện của một số tiếng địa phương, tương đương với phương ngữ, ở các khu vực khác nhau, với những điểm tương đồng và khác biệt về ngữ âm và từ vựng Hiện nay, chữ viết của tiếng M’Nông chỉ sử dụng bộ chữ M’Nông Preh.
M’Nông là tên gọi chung để chỉ ngôn ngữ, tiếng nói và chữ viết của một nhóm dân tộc, trong khi khi phân biệt các nhánh và nhóm trong ngôn ngữ này, người ta thường sử dụng cụm từ M’Nông kèm theo tên của từng nhóm, ngành hoặc nhánh, chẳng hạn như M’Nông Nâr (hoặc Bu Nâr) và M’Nông Prâng.
- Để thống nhất trong sự hình dung về diện mạo địa lí của tiếng M’Nông, có thể dùng các cách gọi như sau:
Tiếng M’Nông là ngôn ngữ của cộng đồng tộc người M’Nông, đóng vai trò là công cụ giao tiếp của cư dân trong khu vực cụ thể Ngôn ngữ này thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), phản ánh văn hóa và bản sắc của dân tộc M’Nông.
+ Phương ngữ dùng để chỉ hai biến thể địa lí lớn của tiếng M’Nông là M’Nông Đông và M’Nông Tây.
1.3.2 Thành phần và sự phân bố dân cư
Theo thống kê từ tài liệu công bố gần đây (30/12/2009), tỉnh Đăk Nông có 29 dân tộc thiểu số, chiếm 32,4% tổng dân số Trong khu vực Tây Nguyên, Đăk Nông là nơi cư trú đông nhất của người M’Nông, và họ cũng là nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất tại tỉnh này.
Người M’Nông là một trong những dân tộc bản địa của Việt Nam, cùng với các dân tộc như Mạ, Ê-đê, Kơho và Stiêng Dân tộc này bao gồm nhiều nhánh nhóm khác nhau, phản ánh sự đa dạng văn hóa của khu vực Theo thông tin từ Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Đăk Nông, số liệu về dân tộc M’Nông đã được cập nhật trước tháng 7 năm nay.
2004, các tộc người trong cộng đồng M’Nông có số lượng và phân bố như sau:
1) Nhánh M’Nông Preh có tổng số 13.890 người, cư trú ở hầu hết các huyện, thị của tỉnh Đăk Nông như: đăk R’Lấp, Krông Nô, Cư Jut, Đăk Mil, Đăk Song, Gia
2) Nhánh M’Nông Noong gồm 10.962 người, cư trú tập trung ở huyện Đăk
R’Lấp, một số sống ở hai huyện Đăk Mil, Đăk Song.
3) Nhánh M’Nông Nâr cư trú chủ yếu ở huyện Đăk R’Lấp, ở xã Thuận An,
Huyện Đăk Mil, xã Đăk N’Drung, xã Trường Xuân, huyện Đăk Song.
4) Nhánh M’Nông Prâng (với 3.849 người) cư trú ở một số xã giáp huyện
Krông Nô, gần với người Mạ.
5) Người Mạ (còn ghi là Châu Mạ, Châo Mạ), có số dân khá đông (6.325 người) so với các nhánh M’Nông địa phương ở tỉnh Đăk Nông, cư trú tập trung tại huyện Đăk Song - khu vực giáp với tỉnh Lâm Đồng Đây là một nhóm có ngôn ngữ riêng Tuy nhiên, người Mạ vẫn nghe được tiếng của các nhánh M’Nông như: Noong, Prâng, Preh và Nâr.
1.3.3 Một số đặc điểm văn hóa-xã hội của người M’Nông
Đơn vị cư trú trong xã hội truyền thống được gọi là bon, tương đương với thôn, làng, xóm, ấp của người Việt Người đứng đầu bon làng, hay còn gọi là trưởng bon, được xưng hô là “r nu”.
Người M’Nông hiện nay đã chuyển từ lối sống truyền thống trong nhà rông sang định cư cố định, với mỗi cộng đồng có phong cách sống riêng biệt, lựa chọn giữa nhà trệt hoặc nhà sàn.
Nghề nông nghiệp truyền thống của người M’Nông chủ yếu là trồng lúa trên rẫy, với phương pháp thu hoạch lúa bằng tay Họ cũng trồng lúa nước ở các vùng lầy mà không cấy mạ, sử dụng cuốc thay vì cày Ngoài ra, các hộ gia đình thường nuôi heo, bò và gà để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
Hôn nhân gia đình của người M’Nông theo chế độ mẫu hệ, trong đó con cái mang họ mẹ và người vợ giữ vị trí chính trong gia đình, nhưng người chồng không bị phân biệt đối xử Họ sống tôn trọng lẫn nhau, và cha mẹ thường ở với con gái út khi về già Theo truyền thống, người M’Nông phải cà răng khi đến tuổi trưởng thành mới được yêu đương và kết hôn Phong tục cưới xin bao gồm ba bước chính: dạm hỏi, lễ đính hôn và lễ cưới, tuy nhiên có thể tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai gia đình Người M’Nông thường thích có nhiều con, đặc biệt là con gái, và tên chính thức của con thường được đặt sau một năm sinh.
Tục lệ ma chay của người M’Nông bao gồm việc ca hát và gõ chiêng trống bên áo quan suốt ngày đêm trong tang lễ Sau khi hạ huyệt, họ dùng cây, que và lá cây trai để kín miệng hố trước khi lấp đất Sau 7 ngày hoặc một tháng, gia chủ sẽ tổ chức lễ đoạn tang Tuy nhiên, hiện nay, một số bon làng tại tỉnh Đăk Nông, như bon Đăk Blao, đã không còn duy trì tục lệ này.
- Văn hóa dân gian: Người M’Nông đã sáng tạo ra nhiều loại hình, hoạt động và sản phẩm văn hóa, nghệ thuật độc đáo.
• Nhạc cụ có: cồng, chiên, kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, kèn độc huyền, đàn tám dây, sáo dọc,…
Kho tàng truyện cổ và dân gian của đồng bào M’Nông Preh rất phong phú, bao gồm nhiều thể loại như truyện kể, tục ngữ, ca dao, dân ca và lời nói vần Những tác phẩm tiêu biểu như Mprơ, Têt ta wêu, Hơi ngơ đang được tìm hiểu và khai thác, góp phần gìn giữ văn hóa và truyền thống của cộng đồng.
Trong văn hóa truyền thống của người M’Nông, lễ hội đóng vai trò quan trọng và đa dạng trong đời sống cộng đồng, bao gồm các lễ như lễ mừng lúa mới, lễ hội ăn trâu và lễ mừng nhà mới Trong số đó, lễ hội ăn trâu, hay còn gọi là lễ hội đâm trâu, là sự kiện đặc biệt và nổi bật nhất.
Tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt dưới góc nhìn Ngôn ngữ học
Trên bình diện ngữ âm
2.2 Trên bình diện ngữ nghĩa
2.3 Trên bình diện từ vựng
2.4 Trên bình diện ngữ pháp
Chương 3: Ảnh hưởng của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt đến sự phát triển của ngôn ngữ
3.1 Nguyên nhân của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt
3.2 Ảnh hưởng của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông-Việt đến sự phát triển của ngôn ngữ
- Việt Nam - bức tranh thu nhỏ của tình hình phân bố ngôn ngữ ở Đông Nam Á
Sự tiếp xúc ngôn ngữ tại đây thể hiện sự độc đáo, với sự hiện diện của hầu hết các nhóm ngôn ngữ trong khu vực, bao gồm cả những ngôn ngữ hiếm gặp như nhóm ngôn ngữ Việt Mường Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng các ngôn ngữ này không chỉ tồn tại mà còn tương tác trong nhiều kiểu tiếp xúc khác nhau, chẳng hạn như sự giao thoa giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ Tày, Thái, Mường, Nùng, cũng như giữa các ngôn ngữ Thái và Khơ.
Mối quan hệ ngôn ngữ giữa các dân tộc thiểu số và tiếng Việt rất đa dạng, bao gồm tiếp xúc gián tiếp giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ của các dân tộc sống ở vùng hẻo lánh như Mú, Kháng, Mèo, Dao Ngoài ra, còn có tiếp xúc liên tục giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ Mường, Tày, Thái, và tiếp xúc cách quãng với các ngôn ngữ từ nhóm Việt - Mường Sự tương tác cũng diễn ra giữa các ngôn ngữ cùng họ như tiếng Thái, Tày Nùng với các nhóm Bố Y, Giấy, Cao Lan, Sán Chỉ, và giữa các ngôn ngữ khác họ như các ngôn ngữ thuộc nhóm Khơ Me với ngôn ngữ Tạng - Miến.
Trong bối cảnh nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ, nhiều vấn đề quan trọng đã được đặt ra, bao gồm nguồn gốc lịch sử và sự biến đổi cấu trúc ngôn ngữ, song ngữ, đa ngữ, cũng như hiện tượng "pha trộn", "vay mượn" và "thâm nhập" giữa các ngôn ngữ Các vấn đề liên quan đến sự hòa hợp và gần gũi giữa các ngôn ngữ, khu vực phân bố ngôn ngữ, cùng với các quan điểm nghiên cứu như phân ly và quy tụ, đã được áp dụng bởi nhiều tác giả trong các công trình khác nhau với mức độ khác nhau.
Việc áp dụng lý thuyết về sự tiếp xúc ngôn ngữ để nghiên cứu và giải quyết các hiện tượng ngôn ngữ liên quan đến vấn đề dân tộc là một cách tiếp cận mới mẻ và có hệ thống hơn Điều này không chỉ giúp làm sáng tỏ các sự kiện quen thuộc trong lĩnh vực ngôn ngữ học dân tộc học ở Việt Nam mà còn mở ra những hướng nghiên cứu sâu sắc và phong phú hơn.
1.2 Lý thuyết về tiếp xúc ngôn ngữ
1.2.1 Các định nghĩa và khái niệm
Tiếp xúc ngôn ngữ được định nghĩa là sự tương tác giữa các ngôn ngữ do các yếu tố địa lý, lịch sử và xã hội, dẫn đến nhu cầu giao tiếp giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau (O.S Akhmanova, 1966) Hiểu một cách đơn giản, đây là sự ảnh hưởng qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ, tác động đến cấu trúc và vốn từ của chúng Các điều kiện xã hội của tiếp xúc ngôn ngữ thường được thúc đẩy bởi nhu cầu giao tiếp giữa các nhóm dân tộc và ngôn ngữ, liên quan đến các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội (V.N Jarceva chủ biên, 1990, Từ điển bách khoa về ngôn ngữ học).
Tiếp xúc ngôn ngữ, ban đầu là lĩnh vực lý thuyết, đã được hình thành qua các cuộc thảo luận của các nhà ngôn ngữ học về nghiên cứu so sánh lịch sử Khi chuyển sang so sánh đối chiếu đồng đại, giá trị ứng dụng của nó ngày càng nổi bật, dẫn đến sự ra đời của nhiều công trình nghiên cứu dựa trên lý thuyết của U Weinreich Nghiên cứu không chỉ tập trung vào các ngôn ngữ Ấn - Âu mà còn mở rộng sang các vấn đề ứng dụng và chính trị - xã hội Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học đã khái quát ba nhóm vấn đề căn bản liên quan đến tiếp xúc ngôn ngữ: song ngữ, giao thoa ngôn ngữ và quy tụ ngôn ngữ (Rozentzveig V, 1968) Sự hình thành và phát triển ngôn ngữ M’Nông cũng có mối liên hệ với các vấn đề này.
1.2.2 Các lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học tiếp xúc
- Ngôn ngữ học tiếp xúc nghiên cứu 3 địa hạt chính là nghiên cứu môi trường,nghiên cứu biến đổi và nghiên cứu hoạch định
1.2.3 Đặc điểm tình hình tiếp xúc ngôn ngữ ở Tây Nguyên
Tình hình tiếp xúc ngôn ngữ của dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên có ba đặc điểm chính Đầu tiên, các ngôn ngữ tiếp xúc đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, nhưng mối quan hệ nguồn gốc giữa chúng vẫn chưa được làm rõ, tạo ra sự phức tạp trong việc phân loại nguyên nhân của các hiện tượng ngôn ngữ tương tự Những hiện tượng này có thể xuất phát từ quan hệ thân thuộc, sự phát triển nội tại của các ngôn ngữ, hoặc do quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Thứ hai, trình độ phát triển và chức năng xã hội của các ngôn ngữ này không đồng đều, và phạm vi tiếp xúc chủ yếu diễn ra qua hình thức khẩu ngữ.
Ở Việt Nam, các ngôn ngữ tiếp xúc được phân loại thành ngôn ngữ có chữ viết và ngôn ngữ chưa có chữ viết Những ngôn ngữ như Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, Mường thuộc nhóm chưa có chữ viết, trong khi các ngôn ngữ như Việt (Kinh), Thái, Tày, Khơ Me, Chàm đã có chữ viết Trong số này, một số ngôn ngữ đã có chữ viết từ lâu đời, như Việt, Khơ Me, Chàm, Thái, thường gắn liền với truyền thống văn học và văn hóa phong phú, trong khi các ngôn ngữ khác không có ưu thế tương tự Ngoài ra, có những ngôn ngữ từng có chữ viết nhưng nay chỉ còn tồn tại trong phạm vi hẹp hoặc đã không còn được sử dụng, như Thái Tây Thanh Hóa – Nghệ An, hoặc những ngôn ngữ trước đây sử dụng chữ Hán mà giờ chỉ còn là dấu tích lịch sử như Dao.
Ngôn ngữ tiếp xúc ở Việt Nam được phân loại theo chức năng xã hội, bao gồm tiếng Việt cho giao tiếp giữa các dân tộc trong cả nước, cùng với các ngôn ngữ khu vực như tiếng Tày – Nùng, tiếng Thái, và các ngôn ngữ của các tộc người nhỏ như tiếng Khơ Mú, tiếng Mèo, tiếng Mường, tiếng Dao Ngôn ngữ có phạm vi giao tiếp rộng mang lại nhiều chức năng xã hội phong phú, trong khi ngôn ngữ hẹp thường chỉ phục vụ cho sinh hoạt kinh tế ở làng bản hoặc gia đình Trong lịch sử, sự tiếp xúc ngôn ngữ diễn ra tự nhiên nhưng cũng bị ảnh hưởng bởi chính sách chia rẽ và áp bức Hiện nay, từ sau Cách mạng Tháng Tám, sự tiếp xúc ngôn ngữ chịu tác động tích cực từ chính sách giải phóng các dân tộc, khuyến khích đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc.
Các đặc điểm này ảnh hưởng rõ rệt đến diện mạo của các ngôn ngữ qua từng giai đoạn lịch sử, đồng thời định hình hướng phát triển của ngôn ngữ trong hiện tại.
1.2.4 Các hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ
Sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ có thể dẫn đến sự phát triển quy tụ trong một liên minh ngôn ngữ hoặc hiện tượng giao thoa ngôn ngữ Điều này bao gồm sự biến đổi của các ngôn ngữ và tình trạng song ngữ diễn ra trong cộng đồng hoặc ở từng cá nhân.
1.3 Đặc điểm về tộc người và ngôn ngữ M’Nông tại địa bàn khảo sát 1.3.1 Về tên gọi tộc người và tên gọi ngôn ngữ
M’Nông là tên gọi chung của một tộc người, thường được sử dụng để chỉ các nhánh trong cộng đồng dân tộc sống tại một vùng lãnh thổ của Việt Nam Tên tự gọi của cộng đồng này là Bu Noong.
Tiếng M’Nông, giống như nhiều ngôn ngữ khác, có sự đa dạng phong phú do quá trình giao lưu giữa các tộc người và văn hóa Điều này dẫn đến sự xuất hiện của một số tiếng địa phương, tương đương với các phương ngữ, tại các khu vực khác nhau, với những điểm tương đồng và khác biệt về ngữ âm và từ vựng Hiện nay, chữ viết của tiếng M’Nông chỉ sử dụng bộ chữ M’Nông Preh.
M’Nông là tên gọi chung để chỉ ngôn ngữ, tiếng nói và chữ viết, nhưng khi phân biệt các nhánh, nhóm trong ngôn ngữ này, người ta thường sử dụng cụm từ M’Nông kèm theo tên của nhóm, ngành, nhánh, như M’Nông Nâr (hoặc Bu Nâr) và M’Nông Prâng.
- Để thống nhất trong sự hình dung về diện mạo địa lí của tiếng M’Nông, có thể dùng các cách gọi như sau:
Ngôn ngữ M’Nông là công cụ giao tiếp của cộng đồng dân tộc M’Nông, thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic) Nó phản ánh toàn bộ tiếng nói và văn hóa của cư dân sống trong khu vực nhất định.
+ Phương ngữ dùng để chỉ hai biến thể địa lí lớn của tiếng M’Nông là M’Nông Đông và M’Nông Tây.
1.3.2 Thành phần và sự phân bố dân cư
Trên bình diện ngữ pháp
Phương thức ngữ pháp tiếng M’Nông tương tự như tiếng Việt, sử dụng trật tự từ, hư từ, ngữ điệu và sự kết hợp của cả ba Tuy nhiên, trong cú pháp, đặc biệt ở cấp độ cụm từ, tiếng M’Nông Preh có những kết cấu đảo ngược so với tiếng Việt về trật tự và thường sử dụng thêm phụ từ.
2.3.1.1 Các công cụ ngữ pháp và các ngữ
Tiếng M’Nông Preh, giống như tiếng Việt, bao gồm các đơn vị ngôn ngữ như thực từ và từ ngữ ngữ pháp, bao gồm danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ, phụ từ, trạng từ, tình tái từ và giới từ Ngoài ra, nó cũng có các ngữ như ngữ danh từ, ngữ động từ và ngữ tính từ.
Trong tiếng M’Nông, các đơn vị ngôn ngữ có khái niệm, chức năng và phạm vi sử dụng tương tự như trong tiếng Việt Do đó, chúng tôi sẽ tập trung vào việc khai thác những dấu vết của sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa hai ngôn ngữ này.
Phương thức ngữ pháp tiếng M’Nông được phân thành hai phần chính: phần đầu tiên sử dụng trật tự từ giống như trong tiếng Việt.
Sắp xếp theo thứ tự các thành phần chức năng trong câu như trật tự tiếng Việt(chủ ngữ - vị ngữ - bổ ngữ).
Vd: Gâp leù seát tât Dak Noong (Tôi đã về đến Đăk Nông)
Gâp tăng nai nti ngơi ma nau neù jêh! Tôi đã nghe thầy nói về điều gì đó rồi Ê hăn nti may? Mẹ đã nói với con rồi mà!
Ngôn ngữ M’Nông có cấu trúc ngữ pháp đặc trưng, trong đó có trường hợp đảo vị trí từ ngữ theo cách ngược so với tiếng Việt Dưới đây là một số ví dụ minh họa cho những đặc điểm riêng biệt trong phương thức ngữ pháp của tiếng M’Nông Preh.
M’Nông Preh là một trong những địa danh nổi bật của vùng đất Tây Nguyên, nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa độc đáo Nơi đây không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc đều có những phong tục tập quán riêng biệt Văn hóa M’Nông Preh thể hiện rõ nét qua các lễ hội truyền thống, nghệ thuật dân gian và ẩm thực đặc trưng, thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước Việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tại M’Nông Preh là vô cùng quan trọng, giúp gìn giữ bản sắc dân tộc và thúc đẩy du lịch bền vững tại khu vực này.
- A=aơ gâp guù rêh ta Krông Nô (Bây giờ tôi ở sống tại Krông Nô Bây giờ tôi sống ở Krông Nô).
Bây giờ tôi không còn tức giận em nữa, và những kỷ niệm đẹp đã trở lại trong tâm trí tôi.
Bây giờ em sẽ đi thông báo cho mẹ cha ở nhà.
Sáng mai, con hãy đến đó để xem những gì nó làm với rắn.
- Yuh ri’ dôl rui (Chị ấy đang quay xa)
- Hên mra = ư dơi hên (Chúng tôi sẽ làm được chúng tôi Chúng tôi sẽ làm cho chúng tôi được).
- Hó n’drăp ndơ au né oh hia? (Đã chuẩn bị đồ đĩ em hả? Đã chuẩn bị đồ của mày chưa hả em?).
Mẹ ơi, hôm nay con đã tìm thấy cây mục để ăn.
- Hơi sau, ôi aơ may hăn chiăp rpu sao yâ! (Ơ cháu, sáng nay mày đi chăn trâu cháu nhé! Cháu ơi, sáng nay cháu đi chăn trâu cháu nhé!).
- Kah ôi nar mbâ păng jă kon păng hăn uùm (Đến trưa, cha nó rủ con nó đi tắm Đến trưa, người cha rủ con đi tắm)
- Kah ôi taơ jă ê kon păng luh ta mir (Đến sáng mai rủ con nó ra tại rẫy Đến sáng hôm sau nó rủ con đi rẫy)
Ngày xưa, có một cặp vợ chồng sống hạnh phúc cùng với đứa con của họ.
- Kăl e geh du hê ndăm M’Bich (Ngày xưa có một người chàng M’Bich
Ngày xưa có một chàng M’Bich)
- Moh trau sa khăn may nar ao? (Cái gì canh ăn chúng mày hôm nay
Chúng mày ăn canh gì hôm nay?).
Hôm nay, mình đã từ cầu và gọi chị mình dưới nước.
- Năm aơ bon he geh ba (Năm nay làng mình có lúa Năm nay làng mình được mùa).
Bây giờ tôi sẽ dẫn tất cả các bạn đến nhà cô ấy.
- Neùmay mbruh gâp! (Đó đã mày lừa dối tao! Mày đã lừa dối tao đó!)
- Nơ m’he tâm róng đah oh (Anh mới thương nhau với em Anh mới thương em).
Trăn ơi, bạn có thấy rìu của tôi đã rơi xuống thác không?
- Ri’ bun păng leù joá (Rồi mang thai nó đã lâu Rồi nó mang thai đã lâu)
- Ri’ leù sê’t mi may (Đó đã về anh rể mày Anh rể mày đã về đó)
- Sai păng ne leù jêng bu nuih ngăn (Chồng nó đã thành người thật Chồng nó đã thật sự thành người).
- Sau nar aơ tă ndar geh ook ngăn ka! (Cháu hôm nay, từ cầu có bắt lắm cá!
Hôm nay ở cầu cháu bắt nhiều cá lắm!)
- Ur păng neù leù đeh (Vợ nó đó đã sinh Người vợ đó đã sinh)
2.3.2 Biểu hiện của sự tiếp xúc ngôn ngữ M’Nông – Việt trên bình diện ngữ pháp
- Sự tiếp xúc trên bình diện ngữ pháp có thể nói là rất ít so với các bình diện ngữ âm, từ vựng và ngữ nghĩa