1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn tìm hiểu hát sình ca của dân tộc cao lan ở xã đại phú huyện sơn dương tỉnh tuyên quang

91 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề tìm hiểu hát sình ca của dân tộc cao lan ở xã đại phú huyện sơn dương tỉnh tuyên quang
Trường học trường đại học
Chuyên ngành nghiên cứu văn hóa
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2023
Thành phố tuyên quang
Định dạng
Số trang 91
Dung lượng 1,09 MB

Cấu trúc

  • 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI (1)
  • 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU (3)
  • 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (4)
  • Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÃ ĐẠI PHÚ VÀ NGƯỜI CAO LAN Ở XÃ ĐẠI PHÚ, HUYỆN SƠN DƯƠNG, (5)
    • 1.1 Vài nét về Sơn Dương (5)
    • 1.2 Khái quát chung về xã Đại Phú (6)
      • 1.2.1 Điều kiện tự nhiên (6)
      • 1.2.2 Dân cư, dân tộc và tổ chức hành chính (10)
      • 1.2.3 Đặc điểm kinh tế (12)
    • 1.3 Khái quát về dân tộc Cao Lan ở xã Đại Phú (15)
      • 1.2.4 Lịch sử cư trú và phát triển (15)
      • 1.3.2 Nét nổi bật trong tổ chức - xã hội (17)
      • 1.2.5 Đặc điểm nổi bật về văn hoá vật chất - tinh thần (21)
  • Chương 2 SÌNH CA VÀ TỔ CHỨC HÁT SÌNH CA CỦA NGƯỜI CAO (27)
    • 2.1 Sình Ca tên gọi và ý nghĩa (27)
    • 2.2 Nguồn gốc hình thành và phát triển của Sình Ca (30)
    • 2.3 Phân loại Sình Ca (44)
    • 2.4 Đặc điểm diễn xướng (46)
      • 2.4.1 Hình thức tạo sình ca (46)
      • 2.4.2 Hình thức diễn xướng (47)
    • 2.5 Thể lệ một cuộc hát Sình Ca (48)
      • 2.6.1.1 Sình Ca trong hội Xuân (49)
      • 2.6.1.2 Sình Ca trong Đám Cưới (55)
      • 2.6.1.4 Sình Ca trong lao động sản xuất (57)
  • Chương 3 GIÁ TRỊ CỦA LÀN ĐIỆU SÌNH CA, BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ DU LỊCH (77)
    • 3.1. GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA SÌNH CA (77)
    • 3.1. giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ (77)
    • 3.2. Giá trị nhân văn và giáo dục (78)
    • 3.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHAI THÁC HÁT SÌNH PHỤC VỤ (82)
      • 3.2.1. Tình hình phát triển du lịch Tuyên Quang (82)
      • 3.2.2. Tình hình khai thác sình ca trong phát triển du lịch hiện nay (83)
      • 3.2.3. Một số khuyến nghị khôi phục và bảo tồn Sình Ca, Đưa Sình Ca vào (84)
        • 3.2.4.1. Đưa Sình Ca vào chiến lược phát triển du lịch (84)
        • 3.2.4.2. thu hút đầu tư du lịch, thu hút khách du lịch, tuyên truyền quảng bá cho (85)
        • 3.2.4.3. đầu tư nâng cấp,xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch (0)
        • 3.2.4.4. Bảo tồn Sình Ca (86)
    • 3.3. ý tưởng phát triển du lịch với văn hóa Cao Lan ở xã Đại Phú - Tuyên (88)

Nội dung

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Cộng đồng dân tộc cao Lan với làn điệu Sình Ca của họ ở xã Đại Phú, huyện Sơn Dương, Tỉnh Tuyên Quang

Phương thức tổ chức hát Sình Ca và nét văn hóa truyền thống của người Cao Lan qua lời hát

Chúng tôi tập trung nghiên cứu làn điệu Sình Ca của tộc người Cao Lan tại xã Đại Phú, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, do hạn chế về thời gian và chuyên môn cá nhân Việc so sánh sự thay đổi và khác biệt của hiện tượng văn hóa này ở các vùng khác nhau chưa thể thực hiện trong khuôn khổ khóa luận này.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong khóa luận này, chúng tôi tuân thủ nghiêm ngặt quan điểm của Chủ Nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về các vấn đề dân tộc và văn hóa xã hội Việc nghiên cứu làn điệu Sình Ca của dân tộc Cao Lan tại xã Đại Phú, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang được thực hiện theo phương pháp tiếp cận của chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Phương pháp chính để hoàn thành khóa luận này là thực hiện nghiên cứu dân tộc học điền dã, sử dụng các kỹ thuật như phỏng vấn, quan sát, ghi âm và chụp ảnh Qua các đợt điền dã tại địa phương, nghiên cứu sẽ tập trung vào việc tìm hiểu sâu sắc về làn điệu này.

Chúng tôi cũng áp dụng các phương pháp bổ sung như thống kê, phân tích và so sánh để đạt được kết quả tối ưu cho việc hoàn thành khóa luận này.

5 ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN

Bổ xung thêm tư liệu về làn điệu sình ca của dân tộc cao lan ở xã Đại Phú Huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang

Nghiên cứu và giải pháp bảo tồn, khai thác tiềm năng du lịch của làn điệu Sình Ca sẽ là tài liệu tham khảo quý giá cho những người làm du lịch tại xã miền núi Đây là công trình tổng thể đầu tiên nghiên cứu về Sình Ca, đưa nghệ thuật này vào du lịch, góp phần làm phong phú thêm sản phẩm du lịch Tuyên Quang và thu hút ngày càng nhiều du khách đến với vùng đất này.

BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì nội dung chính của khóa luận được trình bày trong 3 chương :

Chương 1 : Khái quát chung về xã Đại Phú, huyện Sơn Dương, Tỉnh Tuyên

Chương 2 : Sình Ca và tổ chức hát sình ca ở xã Đại Phú, huyện Sơn Dương,

Chương 3 : giá trị của làn điệu Sình Ca, bảo tồn, phát triển, phục vụ du lịch

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÃ ĐẠI PHÚ VÀ NGƯỜI CAO LAN Ở XÃ ĐẠI PHÚ, HUYỆN SƠN DƯƠNG,

Vài nét về Sơn Dương

Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, nổi tiếng với khu di tích lịch sử Tân Trào, nơi Bác Hồ đã chọn làm thủ đô lâm thời của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cách đây 65 năm Tại đây có mái đình Hồng Thái và cây đa Tân Trào, nơi đã che chở và bảo vệ an toàn cho các lãnh đạo đảng, nhà nước và các cơ quan trung ương trong cuộc cách mạng tháng 8 năm 1954 và suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sơn Dương là huyện miền núi thuộc tỉnh Tuyên Quang, cách thị xã Tuyên Quang khoảng 30 km theo quốc lộ 37 Trước năm 1976, huyện này thuộc tỉnh Tuyên Quang, nhưng sau đó được hợp nhất với Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên, và Sơn Dương trở thành huyện của tỉnh Tuyên Quang Huyện Sơn Dương giáp với tỉnh Thái Nguyên ở phía đông, tỉnh Phú Thọ ở phía tây, tỉnh Vĩnh Phúc ở phía nam, và huyện Yên Sơn ở phía bắc Với tổng diện tích 789,25 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 24,8% và đất lâm nghiệp chiếm 50,27%, Sơn Dương có đất đai màu mỡ, thích hợp cho việc trồng chè, mía, cây nguyên liệu giấy, và các loại cây ăn quả như vải, nhãn Ngoài nông nghiệp, Sơn Dương còn có tiềm năng về khoáng sản và vật liệu xây dựng, với các cơ sở chế biến quặng, thiếc, barit, và sản xuất các sản phẩm như gạch, đất sét nung, vôi bột, cùng với các ngành tiểu thủ công nghiệp như may mặc và sản xuất đồ mộc gia dụng.

Huyện Sơn Dương có hai tuyến đường quốc lộ quan trọng, bao gồm quốc lộ 37 kết nối Thái Nguyên và quốc lộ 2 từ thị xã Vĩnh Yên.

Sơn Dương đã chứng kiến sự phát triển đáng kể trong mạng lưới giao thông, với hệ thống đường ô tô hiện đã kết nối đến tất cả 33 xã và thị trấn Các tuyến đường liên xã, liên thôn và đường dân sinh cũng đã được mở rộng và nâng cấp, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội và du lịch của địa phương.

Huyện Sơn Dương có trên 17 vạn dân với 10 dân tộc anh em sống xen kẽ tại

Sơn Dương là vùng đất đa dạng với 33 xã và thị trấn, mỗi dân tộc như Tày, Dao, Sán Dìu, và Cao Lan đều mang những nét văn hóa đặc sắc riêng, từ phong tục tập quán đến thói quen canh tác Nhà ở của người Tày và Dao thường được xây dựng từ cây mai, cây vầu, và tre, với kiến trúc nhà sàn độc đáo, phù hợp với điều kiện sống của vùng núi Mỗi dân tộc còn sở hữu kho tàng văn học nghệ thuật phong phú, bao gồm các thể loại như hát đồng giao, truyện kể, tục ngữ, và thành ngữ, mang đậm tính nhân văn và giáo dục Du khách có thể thưởng thức những điệu hát truyền thống như hát quan làng, hát Páo Dung, và các điệu múa đặc sắc như múa nón, múa quạt Ngoài ra, ẩm thực nơi đây cũng rất phong phú với các món ăn độc đáo như mắm cá ruộng, thịt ướp, và bánh trứng kiến Với sự kết hợp giữa văn hóa phong phú và lịch sử cách mạng, Sơn Dương xứng đáng là điểm đến lý tưởng cho du khách bốn phương.

Khái quát chung về xã Đại Phú

Xã Đại Phú, nằm ở vùng cao huyện Sơn Dương, cách thị trấn Sơn Dương khoảng 34 km về phía nam, có vị trí địa lý tiếp giáp với xã Tuân Lộ ở phía Bắc, xã Sơn Nam ở phía Đông, xã Phú Lương ở phía Tây và huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) ở phía Nam.

Tổng diện tích đất tự nhiên của xã theo thống kê năm 2005 là 3.396,13 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 23% (779,73 ha), đất lâm nghiệp chiếm 53,2% (1.803,49 ha), đất chuyên dụng 3,56% (120,56 ha), đất thổ cư 1,83% (62,31 ha) và đất chưa sử dụng chiếm 18,41% (623,91 ha) Xã có tuyến đường liên huyện kết nối với quốc lộ 2C, cách trung tâm xã khoảng 5 km Nằm giữa thung lũng, xã được bao bọc bởi hai dãy núi: núi Bầu ở phía Bắc và núi Sáng Sơn ở phía Nam, với chiều dài 7 km từ xã Sơn Nam đến xã Phú Lương và chiều rộng 4 km Mặc dù không có hệ thống sông, xã có nhiều suối và hồ với trữ lượng nước dồi dào, cùng với hệ thống đồi núi phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Là một xã thuộc huyện miền núi của huyện Sơn Dương, Đại Phú có các kiểu địa hình sau:

Địa hình của xã chủ yếu là đồi và núi thấp, với độ cao dao động từ 300m đến 700m, trung bình khoảng 400m đến 500m Độ dốc trung bình của khu vực này nằm trong khoảng 25% đến 28% Kiểu địa hình này chiếm khoảng 10% tổng diện tích tự nhiên của xã và phân bố chủ yếu ở khu vực giáp ranh với tỉnh Vĩnh Phúc.

- Kiểu địa hình đồi, độ cao trung bình từ < 300 m, chiếm khoảng 30 % diện tích đất tự nhiên

Kiểu địa hình thung lũng chiếm khoảng 49% tổng diện tích đất tự nhiên của xã, với đất đai bằng phẳng và màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp của người dân.

Địa hình xã có độ dốc giảm dần về phía đông, bị chia cắt bởi nhiều suối, khe và đồi núi do sự chênh lệch về độ cao Mặc dù vậy, diện tích đất bằng lớn và chất đất tốt tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng cây hàng năm.

Xã Đại Phú nằm trong tiểu khu khí hậu phía nam, thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa Nơi đây có hai mùa rõ rệt trong năm: mùa mưa bắt đầu từ tháng.

Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa, trong khi mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 22 độ C, với nhiệt độ cao nhất lên tới 38 độ C và thấp nhất khoảng 6 độ C Độ ẩm trung bình trong năm đạt 80%.

Đại Phú không có hệ thống sông chảy qua, nhưng có nhiều suối và hồ chứa nước lớn cùng với hệ thống kênh mương thủy lợi, là nguồn nước chính cho tưới tiêu đồng ruộng và tiêu thoát nước Chế độ thủy văn của các suối và hồ thay đổi theo mùa, ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt của người dân, thường là từ giếng tự đào, với trữ lượng nước không ổn định Điều này tác động lớn đến sản xuất và đời sống của cộng đồng địa phương.

Tài nguyên đất trong khu vực bao gồm đất dốc tụ, đất feralit và đất vàng nâu Đất dốc tụ, hình thành từ sự tích tụ sản phẩm phong hoá, có độ phì cao và rất thích hợp cho trồng lúa nước, phân bố rộng rãi giữa các khu đồi, núi và thung lũng nhỏ Đất feralit biến đổi do quá trình cải tạo trồng lúa nước, chủ yếu nằm ở vùng tiếp giáp với đồi núi và các thung lũng ven suối, cũng rất phù hợp cho việc trồng lúa và các cây nông nghiệp Đất vàng nâu phát triển trên phiến sa thạch, tập trung ở các khu vực đồi núi thấp thoải, với tầng đất dày, thích hợp cho nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây lâu năm như chè và cây lâm nghiệp.

Xã có thổ nhưỡng phù hợp cho phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, cây lâm nghiệp và cây trồng hàng năm Vì vậy, trong thời gian quy hoạch, cần đầu tư phát triển để tận dụng tốt nguồn tài nguyên đất đai, đồng thời sử dụng và bảo vệ đất bền vững, đặc biệt là diện tích đất đồi núi thấp có rừng và đất trồng cây hàng năm.

Với tổng diện tích 14,34 ha ao, hồ, đập nuôi trồng thủy sản và 197,73 ha các con sông, suối, mặt nước chuyên dụng, khu vực này sở hữu nguồn nước mặt phong phú, hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và duy trì cân bằng môi trường sinh thái Bên cạnh đó, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.500mm cũng cung cấp một nguồn nước quan trọng cho sinh hoạt và sản xuất.

Xã Đại Phú có tổng diện tích đất rừng lên tới 1.734,22 ha, chiếm 57,54% diện tích đất nông nghiệp Trong đó, diện tích đất rừng sản xuất đạt 487,23 ha, tương đương 28,10% tổng diện tích đất lâm nghiệp Nhờ vào việc khoanh nuôi bảo vệ và các chính sách giao đất, giao rừng, diện tích rừng ngày càng được mở rộng Đến năm 2009, diện tích đất rừng phòng hộ đạt 1.246,99 ha, chiếm 71,90% tổng diện tích đất lâm nghiệp.

Diện tích đất rừng của xã Đại Phú đang phát triển mạnh mẽ, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước đầu nguồn và ngăn chặn xói mòn, rửa trôi Việc khôi phục đất rừng đã giúp các thảm thực vật trước đây có nguy cơ biến mất phát triển trở lại, làm tăng sự đa dạng sinh học Đặc biệt, rừng và đất rừng của xã Đại Phú đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng nông – lâm kết hợp, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho lao động địa phương.

Xã Đại Phú, với tổng dân số 10.349 người và 2.143 hộ gia đình vào năm 2009, là nơi sinh sống của ba dân tộc Kinh, Cao Lan và Hoa, tập trung tại 27 thôn bản Mỗi tộc người đều có nền văn hóa truyền thống phong phú và đa dạng Người dân nơi đây cần cù, chịu khó và nhanh chóng tiếp thu các kiến thức kỹ thuật mới để phát triển sản xuất Nghề nghiệp chính của họ là nông nghiệp, với thu nhập chủ yếu từ các sản phẩm nông nghiệp.

Xã Đại Phú sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi với vị trí địa lý, thuỷ văn, khí hậu, đất đai và nguồn nước phong phú Bên cạnh đó, tài nguyên rừng và nguồn nhân văn đa dạng cũng tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng tại đây.

1.2.2 Dân cư, dân tộc và tổ chức hành chính

Các dân tộc trên địa bàn

Khái quát về dân tộc Cao Lan ở xã Đại Phú

1.2.4 Lịch sử cư trú và phát triển

Truyền thuyết kể rằng, khi đất và nước chưa tồn tại, Bàn Vương đã xuống biển mượn một con kỳ Lân và mang lên trời, tạo ra chín mặt trời xung quanh mặt đất Tuy nhiên, Thích Ca đã tiêu diệt bảy mặt trời để chiếu sáng mà không thiêu đốt Vào năm Vĩnh Chinh thứ ba, một trận hồng thủy đã làm ngập trái đất, chỉ còn lại đỉnh núi Côn Lôn Trong khi mọi sinh vật đều chết, Phục Huy và em gái sống sót trong quả bầu Tại đỉnh núi, họ gặp Rùa đen, được khuyên nên lấy nhau Mặc dù họ đã đánh Rùa và chặt cây, nhưng Rùa vẫn sống lại và tiếp tục khuyên họ Cuối cùng, khi họ châm lửa từ hai đống củi, khói bay lên quấn vào nhau tạo thành hình trôn ốc, biểu tượng cho sự kết nối và tình yêu.

Hai người nhận ra rằng định mệnh đã sắp đặt cho họ kết hôn Sau một đêm, người con gái mang thai, và sau 10 tháng trên đỉnh núi Côn Lôn, họ sinh ra một khối thịt và máu hình con Rùa Khối thịt này được chia thành 300 mảnh, trở thành những dòng họ của loài người.

50 họ trở thành các dòng họ của chúa đất và thần thánh Vậy nên các vua chúa, thần thánh đều cùng một nguồn gốc

Sau này, số đàn ông tăng lên so với đàn bà, nhưng họ thiếu thốn quần áo, thắt lưng, và không biết xây nhà hay gieo hạt, sống hoang dã và không có kiến thức Họ có hành vi giao cấu bừa bãi với cả người trong dòng họ Tuy nhiên, Phục Huy đã trở lại để dạy họ cách làm ăn và ăn mặc Lỗ Ban hướng dẫn họ xây dựng nhà cửa, Ngọc Hoàng dạy cách sử dụng lửa để nấu chín thức ăn, và Chu Hoàng giúp họ hiểu về hôn nhân và mối quan hệ gia đình Thần Nông đã dạy họ kỹ thuật gieo trồng lúa, trong khi Bàn Cổ cung cấp giống lúa cho họ.

Truyền thuyết Bàn Cổ kể rằng ông có hai con trai và mười hai con gái, trong đó con trai cả là tổ tiên của người Hán và con trai thứ là tổ tiên của người Kinh Mười hai cô con gái không được gả chồng hết, dẫn đến việc một cô con gái, tổ tiên của người Mán Đại Bản, lấy chồng là người khỉ đuôi dài, vì vậy phụ nữ của họ mặc trang phục áo vạt dài giống đuôi khỉ Một cô khác kết hôn với tổ tiên của người Cao Lan, khiến phụ nữ ở đây mặc áo thêu hình thang trên bả vai, tượng trưng cho những vết cắn của chó, và dưới cánh tay khâu những miếng vải xanh, trắng, biểu trưng cho dấu chân chó.

Theo tài liệu và lời kể từ người cao tuổi ở làng Đại Phú, tổ tiên của người Cao Lan từng sinh sống tại vùng tây Hương Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc Do chiến tranh và khó khăn trong cuộc sống, họ đã rời quê hương vào thời nhà Minh, di chuyển qua Quảng Tây và đến Nam Ninh, rồi định cư tại Bắc Việt Nam Tại đây, người Cao Lan được vua Nam ủy quyền cấp văn bằng để lập nghiệp, đánh dấu sự hiện diện của họ tại Việt Nam qua bốn thế hệ Người Cao Lan đông nhất vào năm 1791, nhưng một số đã đến sớm hơn vào năm 1743.

Tộc người Cao Lan có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư vào Việt Nam trong thời kỳ nhà Minh, bao gồm hai nhóm chính là Cao Lan và San Chí Người dẫn dắt cuộc di cư là tù trưởng Ninh Văn Bính, sau khi ông qua đời, tù trưởng Hoàng Văn Thân tiếp tục lãnh đạo Do cuộc sống khó khăn, họ đã di cư đến các tỉnh Lục Ngạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ và Tuyên Quang Tuy nhiên, chế độ cai quản tại các tỉnh này đã khiến họ phải rời đi, tìm kiếm cơ hội định cư tại Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa Nhưng do là tộc người ít ỏi, người Cao Lan bị vua Mường cấm cư trú, dẫn đến việc họ phải trở về quê cũ ở phía đông bắc Việt Nam, tập trung chủ yếu tại Tuyên Quang cách đây 300-400 năm (khoảng thế kỷ 17).

18) Và Đại Phú là một trong những nơi người Cao Lan lựa chọn, từ đây họ bắt đầu an cư, lập nghiệp

Cuộc sống mới của đồng bào Cao Lan ở Đại Phú mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng họ luôn giữ tinh thần lạc quan và yêu đời Trong quá trình định cư, họ tích lũy kinh nghiệm và học hỏi từ các cộng đồng khác, từ đó cải tiến canh tác Họ đã khai phá đất đai, trồng lúa nước, ngô, bông vải, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc, qua đó sáng tạo ra một kho tàng văn hóa dân gian phong phú Hiện nay, đời sống của họ đã được cải thiện đáng kể, những hủ tục lạc hậu đã được loại bỏ, và họ đã tiếp thu những nét văn hóa của các tộc người khác, làm phong phú thêm vốn văn hóa của dân tộc mình.

1.3.2 Nét nổi bật trong tổ chức - xã hội

Người Cao Lan di cư vào Việt Nam muộn hơn so với các tộc người khác, nên họ sống xen kẽ với các dân tộc như Tày, Nùng và Dao Đồng bào thường cư trú tập trung trong một hoặc nhiều làng, với địa điểm sinh sống phụ thuộc vào đất đai màu mỡ, rừng núi và sông suối để phục vụ cho sản xuất và đời sống Tại Đại Phú, người Cao Lan chủ yếu sống xen kẽ với người Kinh và Hoa, tập trung tại các thôn gần chân hai ngọn núi Sáng và Bầu, như thôn Mãn Hóa, Dung Giao, Đồng Xay, Đồng Na và Cây Thông.

Danh giới sống của tộc người Cao Lan được xác định bởi các mốc tự nhiên như rừng, dòng chảy, ngọn núi và độ dốc Họ tôn trọng quyền sở hữu của những người đi trước, với mỗi bản làng được chia thành các khu vực cư trú, canh tác và khu thờ cúng như đình, chùa, miếu mạo.

Cấu trúc cư trú truyền thống của người Cao Lan ở Đại Phú dựa vào dòng họ, với các gia đình sống quây quần thành từng cụm Họ không có nghĩa địa chung, vì theo quan niệm, khi người Cao Lan qua đời, linh hồn sẽ trở về Dương Châu, nơi có nhà thờ của từng dòng họ để chôn cất người quá cố Do đó, khi có người mất, gia đình thường chọn đất chôn cất theo hướng phù hợp với dòng họ của mình, thay vì sử dụng nghĩa địa chung như người Kinh.

Luật tục của người Mán Cao Lan phản ánh truyền thống nông thôn bản địa, với mỗi làng thường có một người có uy tín, am hiểu và dày dạn kinh nghiệm được cộng đồng tôn trọng bầu làm Khám Thủ và Thổ.

Từ để quản lý làng bản điều hành mọi công việc của làng về kinh tế - xã hội, an ninh, xã giao

Hôn nhân là một vấn đề được cộng đồng làng rất coi trọng, với việc gả con gái và lấy dâu luôn được làng chứng kiến Trong trường hợp có con gái mang thai ngoài ý muốn, gia đình phải thông báo với làng để tổ chức lễ xin tha.

Nơi thờ cúng lễ hội của người Cao Lan được tổ chức tại một khu đất rộng và bằng phẳng trong làng, nơi có miếu, đình chùa do người cai quản, thường là ông Khám Thủ hay Ông Thổ Từ Mỗi làng góp 1-2 sào ruộng cho người cai quản canh tác, gọi là làng trả thù lao Vào dịp Tết Nguyên Đán, từ ngày 23 đến 26 tháng Chạp, dân làng tổ chức lễ cúng chung và thắp nhang vào ngày 30 và mùng một Tết Tại Đại Phú, ngôi đền Hợp Chung là nơi diễn ra các hoạt động này Khi xuân đến, từ ngày 02 đến 10 tháng Giêng, cả làng mở hội, vui chơi và thực hiện lễ xuống đồng để cầu cho mùa màng bội thu và an thịnh, thu hút đông đảo người dân tham gia các trò chơi dân gian.

Người Cao Lan có bốn tết chính trong năm, bao gồm Tết Nguyên Đán, Tết Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ và Tết Vu Lan vào ngày 15 tháng 7 âm lịch Ngoài ra, họ còn tổ chức ba tết phụ: Tết Nguyên Tiêu vào ngày 15 tháng 1 âm lịch, Tết Cơm Mới vào ngày mùng 8 âm lịch và Tết Đông Chí vào ngày mùng 10 tháng 10 âm lịch Trong đó, Tết Vu Lan được người Cao Lan đặc biệt coi trọng vì họ tin rằng đây là ngày tôn vinh mẹ, mang ý nghĩa quan trọng trong văn hóa và đời sống của họ.

Kết hôn trong cộng đồng người Cao Lan trước đây diễn ra khi nữ từ 15-16 tuổi và nam từ 17-18 tuổi, nhưng hiện nay đã tuân theo luật hôn nhân và gia đình của nhà nước Tục ở rể phổ biến trong dân tộc này do hai lý do chính: nhà có toàn con gái hoặc gia đình còn gặp khó khăn về kinh tế Thời gian ở rể thường từ 1 đến 3 năm trước khi xin ra ở riêng hoặc trở về quê nội, tuy nhiên, cũng có những người chọn ở lại để chăm sóc cho bố mẹ vợ cho đến khi qua đời Người Cao Lan thường đặt ra hai nguyên tắc trong hôn nhân để duy trì sự ổn định và bền vững trong gia đình.

 Nguyên tắc thứ nhất: việc hôn nhân phải tính theo dòng họ, người có cùng dòng họ kể cả cách nhau 5 đời cũng không được phép lấy nhau

 Nguyên tắc thứ hai: có chung thờ cúng tổ tiên, hương hoả thì không được kết hôn

SÌNH CA VÀ TỔ CHỨC HÁT SÌNH CA CỦA NGƯỜI CAO

Sình Ca tên gọi và ý nghĩa

Sình Ca, một thể loại nghệ thuật dân gian, ra đời từ truyền thuyết về nàng Lưu Ba của dân tộc Cao Lan, một câu chuyện tình cảm động và đầy bi thương Tình yêu mãnh liệt của nàng đã truyền cảm hứng cho những lời hát thiết tha, thể hiện tâm tư sâu sắc Sau khi qua đời, nàng được tôn vinh làm bà chúa của thơ ca, với tên gọi Sình Ca thể hiện sự kính trọng, trong đó "Sịnh" có nghĩa là thần, chúa Nàng đã để lại cho dân tộc Cao Lan một kho tàng âm nhạc phong phú, với số bài hát nhiều hơn cả lá rừng, mỗi người dân đều nhớ một đoạn, góp phần tạo nên trường ca độc đáo của cộng đồng mình.

Sình Ca, theo cách gọi của người dân xã Đại Phú, mang ý nghĩa là xướng hát, thể hiện niềm vui và tâm tình của con người trong các dịp lễ hội, ngày xuân hay đám cưới Đây là cơ hội để nam nữ thanh niên giao lưu, làm quen và trao đổi cảm xúc qua lời hát Sình Ca không chỉ là hình thức hát đối đáp giao duyên mà còn là dịp để thể hiện sự thông minh và hiểu biết, khơi gợi tình cảm giữa các chàng trai và cô gái thông qua những câu thơ, tạo nên không khí ấm áp và gắn kết.

Trong lễ hội làng Đại Phú, sau các trò chơi dân gian, phần được mong đợi nhất là những câu hát Sình Ca, nơi các nam thanh nữ tú thể hiện tài năng trước người mình yêu Tiếng hát ấm áp vang vọng giữa đồi núi, mang theo những lời yêu thương ngọt ngào, làm say đắm lòng các cô gái trẻ Những thiếu nữ Cao Lan duyên dáng trong bộ váy chàm mới, với đôi má ửng hồng như hoa rừng, khiến các chàng trai mê mẩn.

Anh thì ở xa Hôm nay đến đây Gặp em không biết em dã có người tình hay chưa?

Nếu có người tình rồi thì chúc em đẹp duyên đôi lứa Còn nếu chưa có thì đừng có trách anh…

Chàng trai khéo léo bày tỏ tình cảm của mình với cô gái, cho thấy anh đã yêu mến cô từ lâu Cô gái đáp lại một cách nhẹ nhàng, mong muốn chàng trai tin tưởng vào tình cảm của mình và đừng nghi ngờ cô.

Người yêu chưa có anh ơi?

Quẳng dao xuống nước cho đời chứng minh Dao nổi thì em bạc tình

Dao chìm dưới nước tình này trắng trong…

Họ hát và tâm sự với nhau suốt đêm, hẹn gặp lại để tiếp tục bày tỏ tình cảm và thi tài Qua những đêm hát giao duyên, tình yêu giữa chàng trai và cô gái nảy nở, dẫn đến việc ra mắt gia đình và tính chuyện cưới xin Tình yêu của người Cao Lan giản dị nhưng sâu sắc, gắn bó suốt đời và cùng nhau xây dựng cuộc sống Sình Ca đã trở thành linh hồn văn hóa của người Cao Lan, được lưu giữ trong sách vở để truyền lại cho thế hệ sau Dân tộc Cao Lan thường nhắc nhở nhau rằng "sình ca hó, làn có cồng," thể hiện sự khó khăn và vô tận của việc hát Sình Ca, nơi mà những câu thơ có thể được thảo luận mãi không ngừng và luôn có sự thách đố lẫn nhau.

Hát Sình Ca là hình thức nghệ thuật phản ánh nhịp sống của cộng đồng, ra đời để thỏa mãn nhu cầu tinh thần và cảm xúc của mỗi thành viên trong làng Nó giúp mọi người thêm yêu cuộc sống và trân trọng con người Nội dung của Sình Ca rất đa dạng, bao gồm các chủ đề như hội xuân, lao động sản xuất, đám cưới, đám tang và đặc biệt là sự kiện Sình Ca ba đêm với 12 đêm hát, mỗi đêm mang một nội dung khác nhau, tạo nên sự phong phú và độc đáo cho hình thức nghệ thuật này.

Sình Ca là hình thức hát ví (giao duyên) độc đáo của dân tộc Cao Lan, nổi bật với số lượng bài hát phong phú nhất so với các dân tộc thiểu số khác Hình thức nghệ thuật này đã được truyền từ đời này sang đời khác, đa dạng về nội dung, hình thức thể hiện, không gian và thời gian Nếu có cuộc thi nào về bài hát dài nhất của các dân tộc, Sình Ca chắc chắn sẽ được vinh danh là bài hát dài và ý nghĩa nhất Việt Nam, với những lời ca yêu thương mãnh liệt, thắm thiết mà các đôi trai gái trao gửi cho nhau.

Ca còn nhiều bài hát mang tính triết lý, trữ tình sâu sắc như:

Cây gãy thường do tham lam với nhiều quả, giống như người chết yểu vì nói lời không thật Quả ớt, mặc dù cay, nhưng vẫn nên ăn cả vỏ để tận dụng hết giá trị dinh dưỡng, trong khi quả chuối ngọt ngào nhưng cần nhớ bỏ vỏ bên ngoài trước khi thưởng thức.

Vợ tuy xấu vẫn là chung chăn gối Tình duyên dù đẹp vẫn có thể chia ly…

Hay : làng phồng mòi líu, mòi phồng làng

Hợp slình lầy nhừ phồng tòi làng, lầy như phồng tàng tắc hếch páo Làng phồng quậy nình tắc an sàng, cháu sởi mìn sín mù slây hếch Nhộc sời mìn sín lời mấy slây.

Sà đê mấy slây phồn mấy hếch Slinh chước nhờn nậy tạy tộ cạy…

Anh gặp em rồi, em gặp anh Giống như cá chép gặp được ao

Cá chép vào ao ăn báu vật Đôi ta gặp mặt để sắm giường chung Rượu bày trước mặt vẫn sầu

Thịt đầy mâm cỗ chẳng ăn đâu chè, cơm có đủ anh đều ngáy bụng còn để đó nhớ lời nhau…

Nguồn gốc hình thành và phát triển của Sình Ca

Theo truyền thuyết của người Cao Lan, nàng Lau-Slam, một nữ thần sắc đẹp, là tác giả của làn điệu Sình Ca Tại xã Đại Phú, câu chuyện về nàng Lau-Slam được coi là một trong những di sản văn hóa đặc sắc nhất của dân tộc Cao Lan, phản ánh nền nghệ thuật dân gian phong phú Nàng đã sáng tạo ra những áng thơ ca bất hủ, vẫn được gìn giữ và bảo tồn cho đến ngày nay Truyền thuyết về nàng Lau-Slam không chỉ là tài sản văn hóa phi vật thể của người Cao Lan ở Đại Phú mà còn là niềm tự hào của toàn bộ tộc người Cao Lan trên đất nước Việt Nam.

Sình Ca gắn liền với câu chuyện huyền thoại về nàng Lưu Ba, một truyền thuyết hấp dẫn từ thuở xa xưa Để hiểu rõ hơn về Sình Ca, chúng ta hãy cùng khám phá lại câu chuyện dài và đầy ý nghĩa này.

Nàng Lưu Ba, mồ côi cha mẹ từ nhỏ và sống cùng anh trai trong cảnh nghèo khó, đã gắn bó sâu sắc với thiên nhiên Nhờ sự gần gũi với cây cỏ và chim muông, nàng đã học được những âm thanh véo von của các loài chim và có khả năng bắt chước tiếng hót của chúng, khiến giọng hát của nàng trở nên tuyệt vời Khi nàng cất tiếng hát, mọi thứ xung quanh dường như ngừng lại để lắng nghe, từ dòng suối đến những con vật trong rừng Nàng còn đi khắp làng để học các điệu hát dân gian, và mỗi lần lên rừng, nàng lại cất lên những lời ca đầy âm hưởng của núi rừng, hòa quyện với tiếng suối chảy và tiếng chim hót Giọng hát của nàng thu hút sự chú ý của các chàng trai trong bản, ai cũng muốn chiêm ngưỡng sắc đẹp và tài năng của nàng, nhưng không ai có thể so bì với giọng hát mê hồn đó, ngoại trừ chàng Dừn, người duy nhất có thể thi tài với nàng.

Trong những đêm trăng sáng, bản làng yên tĩnh lắng nghe tiếng hát của nàng Lưu Ba và chàng Dừn, họ không ngừng đối đáp, trao gửi những lời ca ngọt ngào Những tiếng hát ấy vang vọng qua đêm, hứa hẹn tình yêu và niềm vui Nàng Lưu Ba chúc mọi người sống lâu trăm tuổi, người trẻ luôn vui vẻ, và dân làng có mùa màng bội thu, trâu đầy núi rừng.

Chàng Dừn và nàng Lưu Ba là một đôi trai tài gái sắc, nhưng vì nghèo khó nên họ không thể đến được với nhau Mỗi mùa lễ hội, nàng Lưu Ba luôn nhớ thương chàng Dừn, nhưng bị chị dâu ghen ghét cản trở, không cho nàng đi hội Khi nàng bị buộc phải luộc bánh chưng mãi không chín do bị chị dâu hãm hại, nàng đã tìm cách thoát khỏi nhà và lên đường đi dự hội Sau nhiều ngày vất vả, nàng xuất hiện tại ngày hội thứ ba như một ngọn gió thơm, thu hút ánh nhìn của mọi người Tại hội ném còn, nàng đã ném quả còn trúng tay một chàng trai đẹp trai nhất vùng, theo tục lệ, họ trở thành người yêu của nhau Sự kiện này khiến chàng trai vui mừng, nhưng cũng gây ra sự ghen tuông và tức giận từ những chàng trai nhà giàu, dẫn đến một cuộc ẩu đả tại hội.

Nàng Lưu Ba rất bực dọc, nàng cất lên tiếng hát vang trời :

…mới lơ…ơ…ớ… các chàng trai,

Trong rừng nở trăm hoa đẹp

Bướm xanh khép cánh hoa vàng

Ong quan hút mật hoa toăng

Lệ làng có sẵn từ xưa

Hoa đẹp không ưa ghen ghét…

Tiếng hát của nàng Lưu Ba vang lên như ánh nắng mới, mang lại không khí vui tươi cho ngày hội Tuy nhiên, khi ngày hội kết thúc, nàng trở về sống với anh trai và người chị dâu độc ác Chị dâu đã bày mưu hãm hại nàng, lừa nàng leo lên cây rồi chặt gốc, khiến nàng ngã xuống và bất tỉnh Trong lúc nguy cấp, các loài động vật như gà rừng, chim và kiến đồng loạt kêu lên, báo hiệu sự độc ác Thế nhưng, dù cây ngã về hướng nào, gió vẫn thổi lại đỡ, giúp nàng không bị tổn thương nặng Nhờ sự giúp đỡ của các loài thú rừng và chim, nàng tỉnh dậy, hồi sinh với sức sống mới, khiến rừng hoa nở trắng và bông lau phất cờ trong gió Trong khi đó, chị dâu tưởng nàng đã chết, mang hết của cải về nhà và giả vờ than khóc, còn bịa đặt rằng nàng bị hổ bắt mất.

Người anh trai với đôi mắt vàng như lá úa, trong cơn giận dữ đã vội vàng tìm kiếm dao dài nhưng chỉ thấy dao ngắn và gãy Thất vọng, anh ngồi thắp hương cho em gái, cầu nguyện cho linh hồn cô trở về Khi nước mắt rơi, bỗng nghe tiếng gọi từ cầu thang: “Mở cửa cho em, anh trai ơi! Em đã về đây.” Anh giật mình, lạnh toát mồ hôi, không thể tin rằng em gái mình vẫn còn sống.

- em đã là ma rồi, anh đã cúng ma ba ngày và ba đêm thức hoài thương nhớ!

Ngoài cửa, Lưu Ba thì một mực van xin:

Không đâu, anh ơi, em thật sự về đây! Dù núi cao không có gió, không mưa cũng làm đất lở, chị dâu muốn hại em nhưng trời không cho phép Người anh trai nửa tin nửa ngờ, vẫn gặng hỏi để tìm hiểu sự thật.

- ớ em gái của ta thật ư? Em không chết thật à? Ai cứu sống em về đó? Em hãy vào nhà đi, em hãy kể lại đầu đuôi câu chuyện đi!

Người chị dâu trong buồng nhìn qua khe cửa, sợ toát mồ hôi,không hé răng nói nửa lời, nàng Lưu Ba từ tốn ngọt ngào:

Chị dâu yêu quý, xin chị hãy ra đây cho em chào một tiếng Những bài học từ thiên nhiên cho thấy, con khỉ chết vì tham ăn quả, chim gáy vì tham ăn vừng, cành cây gãy do tham quả, và con người cũng gặp họa vì những lời nói không chân thật.

Sáng sớm hôm sau, chồng gọi vợ dậy để chuẩn bị mổ gà đãi cả làng ăn mừng, nhưng sau ba lần gọi mà không thấy vợ trở mình, anh hốt hoảng nói với em gái.

- ới em gái ơi ! chị dâu của em chết rồi!

Lưu Ba nghe thấy anh kêu, nàng vào buồng lay chị dâu và gọi:

Chị dâu ơi, giờ không phải là lúc chị đi đâu! Dù ớt có cay, ta vẫn ăn cả vỏ, và dù chuối ngọt, ta cũng bỏ vỏ ngoài Chị hãy dậy cho em nhìn một chút, vì chị sẽ sống cùng anh trai em cả đời Một câu nói hay như quả ớt cay cũng trở nên ngọt ngào, còn lời nói không hay như quả vả chát lại có thể thành chua.

Lời của Lưu Ba vang lên bên tai chị dâu, khiến chị như được hồi sinh, môi trở nên hồng hào, đôi mắt từ từ mở ra Nước mắt chị rơi xuống ướt đẫm gối bông, và chị tỉnh dậy khi ánh nắng bắt đầu chiếu sáng.

Kể từ khi em gái trở về nhà, người anh trai mỗi đêm đều cài cửa, ban ngày tìm hoa cho Lưu Ba để cài tóc mà không cảm thấy buồn Tuy nhiên, trong lòng nàng vẫn không thể quên chàng trai đã cùng nàng hát những lời thề ước Khi gặp con chim la lông trắng, nàng đã hỏi thăm về chàng.

Hỡi anh! Em đang gọi anh từ cuối núi và đầu nguồn, vọng vào vách núi và gió Anh có nghe thấy không? Em đang tìm kiếm anh, anh ơi!

Tiếng gọi của nàng vang xa, vọng vào vách đá vọng lại trả lời “ không đâu, không có đâu”

Núi non trùng điệp và rừng rậm bát ngát, nàng kiên quyết vượt qua rừng sâu và lội suối để tìm kiếm chàng trai yêu quý Trên hành trình, nàng tình cờ gặp một đàn chim công, chúng vui vẻ cất tiếng cười và mách bảo cho nàng biết điều gì đó.

- Chàng Dừn đang ngày đêm thương nhớ nàng, đang đi làm nơi giàu sang phú quý để kiếm tiền về cưới nàng làm vợ

Phân loại Sình Ca

Kho tàng văn hóa văn nghệ của người Cao Lan rất phong phú và đa dạng, bao gồm cả những loại đã được ghi chép và những loại vẫn được truyền khẩu qua các thế hệ Một ví dụ điển hình là làn điệu Sình Ca, mặc dù đã được ghi lại trong sách, nhưng vẫn được hát theo cách truyền thống Những người yêu thích Sình Ca, như nghệ nhân Sầm Dừn ở xã Đại Phú, không chỉ đam mê hát mà còn sáng tác những câu hát mới để truyền dạy cho con cháu và thế hệ trẻ trong làng.

Theo tài liệu và từ những người am hiểu về Sình Ca ở xã Đại Phú, làn điệu Sình Ca được phân chia thành hai loại chính dựa trên yếu tố thời gian và không gian, bao gồm Sình Ca ban ngày và Sình Ca ban đêm.

 Sình Ca ban đêm ( hát trong nhà)

Hình thức hát sình ca chủ yếu diễn ra trong nhà, nơi mọi người tham gia hát đối đáp Theo lời kể của những người cao tuổi ở làng Đại Phú, sình ca ban đêm từng được tổ chức trong 36 đêm, mỗi đêm tương ứng với một quyển sách hát có nội dung khác nhau Tuy nhiên, hiện nay, tài liệu lưu giữ cho thấy sình ca chỉ kéo dài 12 đêm liên tục với 12 quyển sách, mỗi quyển mang nội dung riêng biệt Nội dung chủ yếu xoay quanh việc nam nữ tìm hiểu và tâm tình với nhau qua những lời ca tha thiết, trữ tình và đầy ý nghĩa.

Sình ca ban đêm không chỉ là một hình thức giải trí mà còn là một cuộc thi tài năng, nơi người hát thể hiện khả năng đối đáp nhanh nhạy và thông minh Để thành công, người hát cần có kiến thức sâu rộng về cuộc sống và hiểu rõ đối tượng mà mình giao tiếp Sự hiểu biết này giúp họ tạo ra những lời đối đáp giàu ý nghĩa, dễ dàng chạm đến cảm xúc của người nghe Mục tiêu cuối cùng của sình ca là tạo ra không gian để tâm sự, trò chuyện và xây dựng tình cảm giữa các đối tác.

Diễn trường Sình Ca ban ngày mang đến không gian rộng rãi và cảnh sắc mùa xuân ấm áp, tạo nên sự hấp dẫn và mê hoặc cho người tham gia hát Sự kết hợp giữa thiên nhiên và âm nhạc khiến trải nghiệm hát Sình trở nên thú vị hơn bao giờ hết.

Cà phê ban ngày chủ yếu thu hút nam nữ thanh niên đang trong độ tuổi tìm hiểu và yêu đương, tạo cơ hội để họ làm quen và khám phá tình cảm với nhau Đây là không gian lý tưởng cho những cặp đôi đã quen biết có thể thể hiện tình cảm và thổ lộ những cảm xúc thầm kín.

Trong dịp lễ tết và hội hè của làng, nam thanh nữ tú thường tập trung tại đình từ sớm để tham gia hát Sình Ca Họ hy vọng tìm thấy người bạn tâm đầu ý hợp, để bày tỏ những tình cảm mới mẻ của tình yêu trong không khí hội làng mùa xuân.

Trong lễ hội, tiếng dân tộc Cao Lan gọi Sình Ca ban là “Vèo ca”, một hình thức hát gọi để các nam nữ thanh niên có cơ hội gặp gỡ và tâm sự tình cảm Họ tự biên soạn và diễn xuất những lời hát Sình Ca, thể hiện tình cảm với nhau qua những câu đối đáp phù hợp với từng tình huống Qua việc vừa hát vừa dạo chơi, họ có thể trò chuyện và bộc lộ tình cảm mà không thể làm giữa đám đông Lời ca trong các bài hát đối đáp này mang đậm tính chất trữ tình, thể hiện tình yêu đôi lứa và gắn kết họ lại với nhau, chuẩn bị cho hôn lễ khi tình yêu đã chín muồi.

Ngoài hát trong dịp lễ hội, dân làng ở Đại Phú còn hát Sình Ca trong đám cưới,đám tang và trong lao động sản xuất

Trong đám cưới, đối tượng hát chủ yếu là nam nữ thanh niên chưa lập gia đình Tuy nhiên, trong giai đoạn nhà trai xin phép vào nhà gái (hát làm mùn – tiếng Cao Lan), nhà trai có thể mời người đã có vợ hoặc chồng, nhưng yêu cầu họ phải hát hay và nhanh trí trong đối đáp Mục đích chính của việc này là để đón cô dâu về nhà trai một cách suôn sẻ.

Hát trong đám tang của người Cao Lan, hay còn gọi là cục tờu, là những lời hát tống tiễn hình nhân đi theo gánh hàng cho người đã khuất, thường do thầy cúng hoặc người già trong dòng họ thể hiện Những lời hát này không chỉ mang ý nghĩa dặn dò mà còn bày tỏ tình cảm và đạo lý, thể hiện lòng thương tiếc và biết ơn đối với người đã mất, đồng thời báo hiếu của con cháu Mặc dù đám tang thường đầy nỗi đau thương, nhưng người Cao Lan tin rằng tiếng hát Sình Ca sẽ giúp giảm bớt nỗi buồn cho gia đình và xoa dịu nỗi đau mất mát.

Sình Ca trong lao động sản xuất là hình thức hát không theo quy tắc, khác với các cuộc hát Sình truyền thống Người lao động sử dụng vốn hiểu biết cá nhân để giao tiếp, nhằm giải tỏa mệt mỏi và làm cho công việc trôi chảy hơn Họ thường hỏi thăm tiến độ công việc của nhau, vì theo quan niệm, khi tinh thần vui vẻ và có sự giao tiếp, công việc sẽ hoàn thành nhanh chóng hơn.

Sình Ca là một thể loại nghệ thuật phong phú và đa dạng, với mỗi loại mang đến nội dung riêng biệt phù hợp với mục đích cụ thể.

Đặc điểm diễn xướng

2.4.1 Hình thức tạo sình ca

Sình ca của dân tộc Cao Lan là hình thức đối đáp giao duyên giữa nam và nữ, thể hiện nét văn hóa truyền thống độc đáo của người Cao Lan và khắc họa bản sắc riêng của tộc người này.

Sình Ca của người Cao Lan có lối diễn xướng độc đáo với hình thức đối đáp giữa nam và nữ, khác biệt so với các thể loại hát giao duyên khác Theo những nghệ nhân và người già trong xã Đại Phú, quá trình tổ chức một cuộc Sình Ca vào đầu xuân rất đặc biệt Các chàng trai thường nghe đồn về những cô gái hát hay ở làng bên và quyết tâm tìm đến để thử tài Trong những đêm đầu xuân, họ rủ nhau sang làng đó, ghé thăm nhà người quen Khi biết có khách, các cô gái trong làng sẽ xin phép chủ nhà để hát lời chào, từ đó bắt đầu cuộc hát Sình Ca đầy thú vị.

Sình Ca là một hình thức nghệ thuật biểu đạt cảm xúc sâu sắc, nơi mọi người cùng chia sẻ tâm tư và lắng nghe nhau Qua từng lời ca, người hát gửi gắm những suy nghĩ và tình cảm của mình, tạo nên không gian giao lưu ấm áp và gần gũi.

Sình Ca được tổ chức vào nhiều thời điểm khác nhau, nhưng đặc biệt nhất là trong lễ hội và những đêm tìm bạn hát.

Khi tham gia hội, các chàng trai cô gái thường đi theo từng nhóm để tự tin hơn và hỗ trợ nhau khi gặp bạn hát Trong hát Sình ca, không có nhóm nào chủ động, mà bất kỳ nhóm nào cũng sẽ cất vang lời mời gọi khi nghe tiếng cười nói từ nhóm khác Họ cùng nhau ca hát và khuyến khích nhau thể hiện, với ý nghĩa rằng khi đã đến đây thì phải hát lên, không thể im lặng khi người khác đã cất lời Khi nhận được lời mời gọi, các cô gái sẽ quay lại nhìn, ném bã trầu và đáp lại, thể hiện sự đồng ý tham gia hát cùng.

Sình Ca, giống như các hình thức hát dân ca khác, được tổ chức theo hình thức đối đáp giữa các tốp nam nữ Trong mỗi tốp, các cặp nam nữ sẽ lần lượt hát đối với nhau, với một người dẫn hát từ bên nam đảm nhiệm vai trò chủ trì Người dẫn hát cần có khả năng hát giỏi và phản ứng nhanh để điều phối cuộc hát Mỗi cặp hát có thể trình bày từ vài câu đến nhiều bài, cho đến khi không còn đối đáp được thì họ sẽ nhường cho cặp tiếp theo Các chàng trai cô gái cao Lan sử dụng Sình Ca để thể hiện tình cảm và tìm kiếm người yêu, không bên nào muốn thua kém bên nào Họ chuẩn bị trước những bài hát và dùng sự thông minh, sáng tạo để đối đáp về nhiều chủ đề từ thiên nhiên đến cuộc sống Tiếng hát của họ vang lên suốt đêm, ngọt ngào và tha thiết, và khi chia tay, họ vẫn lưu luyến hẹn nhau tiếp tục hát vào những đêm sau.

Trong Sình Ca, các cặp hát thường đối đáp qua lời ca, vì chỉ có một làn điệu duy nhất Nếu bên nào không giải thích được ý nghĩa của lời hát, bên đó sẽ thua và không đạt được mục đích Khi cần chuyển đoạn hay chủ đề, người hát chỉ cần sử dụng câu: "hãy dừng đoạn… để hát đoạn…" hoặc "dừng khúc hát đi đường để hát bài vừa tới."

Tạm dừng đoạn hát vào thôn, cho phép tôi khám phá sâu hơn vào làng với những câu hỏi tế nhị, dí dỏm được lồng ghép trong từng câu hát, tạo nên sự gần gũi và thân mật giữa mọi người Hình thức diễn xướng này làm nổi bật vẻ đẹp văn hóa của Sình.

Sình Ca không chỉ là một hình thức giao tiếp hàng ngày mà còn là món ăn tinh thần, giúp người cao lan xích lại gần nhau hơn và thể hiện tâm tư tình cảm Những đêm Sình Ca thu hút đông đảo chàng trai, cô gái, là nơi họ bắt đầu những mối tình đẹp, thể hiện sự tự do yêu đương thoát khỏi lễ giáo phong kiến, cho phép họ tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời mà không bị ràng buộc hay ngăn cấm.

Thể lệ một cuộc hát Sình Ca

Sình ca của dân tộc Cao Lan là một phần quan trọng trong di sản văn hóa, có nguồn gốc lâu đời và được ghi chép bằng chữ Hán Theo tài liệu nghiên cứu và lời kể của các bậc cao niên ở làng Đại Phú, Sình ca có thể đã xuất hiện từ rất sớm với những quy định và thể lệ chặt chẽ Dù chỉ là những giao ước không thành văn, nhưng trong các buổi hát sình, cả ban ngày lẫn ban đêm, thể lệ được thực hiện một cách nghiêm túc, thể hiện sự tôn trọng và gìn giữ truyền thống văn hóa của cộng đồng.

Thể lệ của Sình Ca tương tự như một số loại dân ca khác, bao gồm hai nhóm hát: nhóm nam và nhóm nữ Các thành viên trong mỗi nhóm thường có độ tuổi xấp xỉ nhau Mỗi nhóm cần chọn một người dẫn đầu, người này sẽ đại diện cho nhóm trong việc đối đáp với nhóm bên kia Để đảm nhận vai trò này, người dẫn đầu phải là người thông minh, nhanh nhẹn và có khả năng ứng khẩu tốt.

Các chàng trai và cô gái tham gia hát đối đáp thường là những người chưa có gia đình, và họ phải đến từ những làng khác nhau, không cùng họ hàng hay có quan hệ huyết thống Đây là hình thức giao duyên nam nữ, nơi tình cảm được thể hiện qua lời hát Trong mỗi cuộc hát, họ thường hỏi thăm về gia đình, quê quán và họ hàng của nhau để tránh vi phạm quy định, vì nếu cùng làng hay cùng họ, cuộc hát sẽ phải dừng lại.

Trong Sình Ca, có những ngoại lệ đặc biệt khi hát trong đám cưới, đám tang và lao động sản xuất, không bị ràng buộc bởi quy định hay luật lệ nào Mục đích của việc hát không phải chỉ để thể hiện tình yêu nam nữ, vì vậy bất kỳ ai cũng có thể tham gia Những người hát say mê, quên cả ăn uống và giấc ngủ, hòa mình vào âm điệu suốt đêm Âm nhạc trở thành cầu nối giữa thanh niên nam nữ, giúp họ thể hiện tình cảm và gắn kết với nhau qua những câu hát, như một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ.

2.6 NỘI DUNG CỦA HÁT SÌNH CA

Sình Ca ban ngày có không gian rộng lớn và bao gồm nhiều thể loại cũng như nội dung phong phú, như hát trong hội xuân, đám cưới, đám tang và trong lao động sản xuất.

2.6.1.1 Sình Ca trong hội Xuân

Hội xuân của đồng bào dân tộc Cao Lan diễn ra sau Tết Nguyên Đán đến hết tháng Ba âm lịch, là thời gian để thanh niên tụ họp và tham gia các hoạt động văn hóa, đặc biệt là hát Sình Ca Trong lễ hội làng Đại Phú, các trò chơi dân gian kết hợp với hình thức hát dân ca giao duyên nam nữ, thể hiện tâm sự sâu lắng và nội dung phong phú của nghệ thuật văn hóa dân tộc Qua những buổi hát Sình Ca, nhiều mối tình đẹp đã nảy nở, và trong những ngày lễ hội, họ tự do giao lưu giữa các làng Đây là dịp để mọi người vui chơi, mừng xuân và gác lại công việc đồng áng, tạo cơ hội cho những lời ca tiếng hát hồn nhiên, thu hút họ đến gần nhau và phát triển tình yêu thương.

Hình thức hát Sình Ca trong hội xuân, còn gọi là Hát Gọi (vèo ca), rất phong phú và ấn tượng Vào mùa xuân, nam nữ thanh niên các làng thường đi chơi hội, nhưng do các làng khác nhau nên họ thường không quen biết nhau Trên đường đến hội, khi nhóm con trai (gái) của một làng nhìn thấy nhóm con trai (gái) của làng bên cạnh từ xa, họ sẽ đối đáp bằng Hát Gọi Nếu bên nào nhìn thấy đối tượng trước, họ sẽ cất lời hát gọi, và bên kia sẽ đáp lại, tiến lại gần nhau hơn Với khoảng cách xa giữa núi rừng, đèo dốc, người hát cần có giọng hát tốt, không chỉ ngân nga mà còn phải hát cao và phóng xa để thu hút sự chú ý.

Em đội nón đi dịch dịch như thế

Em đi đến phương nào bảo anh biết Để anh khăn gói cùng đi…

Cu slu nình muồi Mầy sềnh lão mình sì nui nình Dực sì nui nình cắn cắn hợi

Núi nình sập shốc dắt sì can dịch:

Tôi xin hỏi cô Không biết lão nương hay nữ nương Nếu là lão nương xin cứ rảo bước Nếu là nữ nương dừng lại chút thời gian

Sau khi nghe thấy bên kia có lời gọi mời chòng ghẹo như vậy, các cô gái cũng cất lên lời đối đáp để thay lời đồng ý :

Em đội nón đi dạo chơi xóm thôn cao

Em đi phương cao bảo anh thật Anh hãy cùng em đi thật nào…

Trong không khí gần gũi, chàng trai và cô gái Cao Lan đã mời gọi nhau hát, với mục đích chòng ghẹo nhau Những lời hát thường bắt đầu từ chàng trai, nhằm khơi gợi phản ứng từ cô gái Qua những câu hát tế nhị, họ dần tạo dựng sự gần gũi và tình cảm, thể hiện sự châm biếm và ngọt ngào trong giao tiếp.

Khi tôi đi sau, tôi thấy chị rất đẹp và chị quay lại để kiểm tra xem mình có thật sự đẹp không Hình ảnh ấy thật cuốn hút, khiến tôi không thể rời mắt.

Mỗi khi gặp em trên đường, anh không khỏi ngắm nhìn đôi giày nhỏ xinh của em và muốn hỏi em về những lời hát Thông thường, khi bị trêu chọc, các cô gái sẽ quay lại nhìn và ném bã trầu, một phong tục của người Cao Lan xưa, thể hiện sự đồng ý tham gia hát cùng Miếng trầu được coi là khởi đầu của câu chuyện, nên hành động ném bã trầu là dấu hiệu cho thấy họ đã sẵn sàng cất tiếng hát.

Em cũng muốn yêu anh Anh hát với em, em phải ở lại hát Không ở lại anh không bằng lòng…

Hát một bài ca để hỏi anh Hỏi anh rằng hát đối với ai?

Hỏi anh rằng hát đối với người nào?

Hãy hát ra bảo thật với em

Lúc này họ đã khéo léo thay đổi cách xưng hô từ “tôi” còn xa lạ sang “anh”,

Các chàng trai thường gửi đến các cô gái những lời hát vừa vui tươi vừa ý nghĩa, không chỉ mang tính chất trêu đùa mà còn chứa đựng những thông điệp sâu sắc Trong những khoảnh khắc này, các cô gái lắng nghe một cách chăm chú mà không cần phải đáp lại.

Núi cao, mỗi kẽ lá như một đoá hoa, nhưng anh ở xa không hay biết Chỉ lo lắng rằng em chưa chồng nhưng đã có hứa hẹn, cành nêu đã cấm gió đùa qua Gió lay mầm non cành nêu, nhưng đã ăn hỏi thì em đã là vợ người khác Mẹ không còn mong em trở về nữa, vì ngày cưới đã định sẵn!

Ngày cưới đã định anh khó tranh Ngày cưới định rồi em có chủ Như đường gặp sông khó lội quanh Ngày cưới đã định!

Ngày cưới đã định em thành người khác bản Ngày cưới đã định em thành người có chủ

Dòng nước đứt đoạn anh không bơi

Ngày cưới đã được ấn định, em sẽ về nhà chồng ở thôn khác Dù biết rằng em đã có người, anh vẫn không thể quên tình cảm dành cho em Khi em kết hôn, hãy cho anh biết để anh chúc phúc cho em Chúc em tìm được người chồng xứng đáng và có cuộc sống hạnh phúc!

Chớ nghe người ta mà vứt bỏ anh mình

Dù xuất giá được sống với người chồng tốt đừng để anh trai thất vọng mỗi khi mong anh về đi lấy chồng tốt!

Khi em rời khỏi nhà, em gửi lời chúc mẹ, rồi tiếp tục hành trình về nhà chồng Em lo lắng không biết ai sẽ giúp đỡ cha mẹ khi em đi xa, và giữa dòng sông, núi non, em tự hỏi anh có hiểu được nỗi lòng của em không.

Ai ai cũng bảo em là vợ người khác Còn anh chưa vợ chỉ mong em Không được kết đôi với em nghĩ thật buồn

Anh mới lấy bát gạo thắp hương cầu khấn Hợp lòng nhưng sợ lời nói không chân thật Bởi em nhiều tình, nhiều bạn cũ

Nên mặc anh năm này qu nưm khác bơ vơ đêm nây có nêu cắm xung quanh

Mai mốt đến lấy tháng năm sinh Giờ lành, ngày tốt người đến đợi Dòng nước đã đứt nối sao đành…

Bài hát này thể hiện ý nghĩa sâu sắc về truyền thống của người Cao Lan, khi họ cắm cây nêu để đánh dấu quyền sở hữu đất đai, tượng trưng cho việc cô gái đã được dạm hỏi và trở thành người đã có chủ Đồng thời, lời hát cũng nhắc nhở cô gái khi đi lấy chồng không được quên những người đã nuôi dưỡng và chăm sóc mình khôn lớn Những câu hát chứa đựng nhiều tâm sự và giá trị văn hóa, phản ánh mối liên kết giữa hôn nhân và trách nhiệm đối với gia đình.

GIÁ TRỊ CỦA LÀN ĐIỆU SÌNH CA, BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ DU LỊCH

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:53

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w