1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn khai thác du lịch văn hoá trên địa bàn thọ xuân thanh hoá

83 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khai Thác Du Lịch Văn Hoá Trên Địa Bàn Huyện Thọ Xuân – Thanh Hoá
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Du Lịch
Thể loại Luận Văn
Thành phố Thanh Hoá
Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 0,97 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (1)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (2)
  • 3. Phạm vi nghiên cứu (3)
  • 4. Ph-ơng pháp nghiên cứu (3)
  • 5. Bố cục khoá luận (3)
    • 1.1. Một số vấn đề chung về văn hoá (4)
      • 1.1.1. Khái niệm văn hoá (4)
      • 1.1.2. Chức năng của văn hoá (6)
      • 1.1.3. Các thành tố của văn hoá (10)
    • 1.2. Khái quát về du lịch (14)
      • 1.2.1. Khái niệm du lịch (14)
      • 1.2.2. Du lịch văn hoá (16)
      • 1.2.3. Khách du lịch (18)
      • 1.2.4. Tài nguyên du lịch nhân văn (19)
    • 1.3. Vai trò của du lịch văn hoá trong hoạt động du lịch (20)
    • 2.1. Giới thiệu chung về huyện Thọ Xuân (24)
      • 2.1.1. Địa lý hành chính (24)
      • 2.1.2. Sự hình thành và phát triển (25)
    • 2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn trên địa bàn huyện Thọ Xuân (26)
      • 2.2.1. Các di tích lịch sử văn hoá (26)
      • 2.2.2. Mét sè lÔ héi truyÒn thèng (37)
      • 2.2.3. Làng nghề truyền thống (43)
    • 2.3. Công tác bảo tồn các giá trị văn hoá của huyện Thọ Xuân (44)
    • 2.4. Thực trạng khai thác du lịch văn hoá trên địa bàn huyện Thọ Xuân (47)
      • 2.4.1. Tình hình khai thác các tuyến, điểm và sản phẩm du lịch văn hoá (47)
      • 2.4.2. Hoạt động du lịch huyện Thọ Xuân trong thời gian qua (49)
      • 2.4.3. Nguồn lao động tham gia du lịch văn hoá (52)
      • 2.4.4. Công tác nguyên cứu thị tr-ờng, xúc tiến quảng bá tuyến, điểm du lịch văn hoá (53)
    • 2.5. Đánh giá chung (54)
      • 2.5.1. Những thành công (54)
      • 2.5.2. Những hạn chế (56)
      • 2.5.3. Nguyên nhân (58)
    • 3.1. Ph-ơng h-ớng phát triển du lịch văn hoá trên địa bàn huyện Thọ Xuân (60)
    • 3.2 Một số giải pháp phát triển du lịch văn hoá của huyện Thọ Xuân (63)
      • 3.2.1. Đầu t- tôn tạo và bảo tồn các tài nguyên du lịch nhân văn của huyện Thọ Xu©n (63)
      • 3.2.2. Tăng c-ờng cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng phục vụ cho hoạt động du lịch (65)
      • 3.2.3. Tăng c-ờng công tác bảo vệ môi tr-ờng và đảm bảo an ninh, an toàn tại diÓm tham quan (67)
      • 3.2.4. Đẩy mạnh nghiên cứu thị tr-ờng, xúc tiến và quảng bá du lịch văn hoá (68)
      • 3.2.5. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà n-ớc trong hoạt động du lịch (69)
      • 3.2.6. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực (70)
      • 3.2.7. Nâng cao nhận thức và thu hút cộng đồng địa ph-ơng tham gia vào hoạt động du lịch (71)
    • 3.3. Kiến nghị (73)
      • 3.3.1. Đối với Bộ văn hoá thể thao và du lịch (73)
      • 3.3.2. Đối với tỉnh Thanh Hoá (73)
      • 3.3.3. Đối với địa ph-ơng (74)
  • Tài liệu tham khảo (76)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Tài nguyên du lịch nhân văn là một trong những yếu tố hấp dẫn nhất đối với du khách Việc bảo tồn và phát triển sản phẩm du lịch văn hóa không chỉ giúp gìn giữ văn hóa bản địa mà còn thúc đẩy sự phát triển của du lịch văn hóa Hoạt động du lịch góp phần nâng cao hiểu biết, lòng tự hào dân tộc và tăng cường tình đoàn kết quốc tế.

Việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn tại huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch văn hoá, mang lại nhiều lợi ích cho địa phương.

Mục đích nghiên cứu của khoá luận là khảo sát các tài nguyên du lịch nhân văn tại Thọ Xuân, bao gồm di tích lịch sử, lễ hội truyền thống và làng nghề Nghiên cứu đánh giá kết quả khai thác tài nguyên du lịch, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác Mục tiêu là bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá, đồng thời tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, thu hút du khách đến tham quan.

Ph-ơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thành khoá luận, tác giả có sử dụng một số ph-ơng pháp sau:

- Ph-ơng pháp thống kê

- Ph-ơng pháp phân tích, tổng hợp

- Ph-ơng pháp thực địa

- Ph-ơng pháp bản đồ

- Ph-ơng pháp thu thập và xử lý thông tin.

Bố cục khoá luận

Một số vấn đề chung về văn hoá

Từ xa xưa, khái niệm “văn hoá” đã xuất hiện trong ngôn ngữ của con người, đặc biệt tại các quốc gia được coi là cái nôi của nền văn minh nhân loại Ở phương Đông, từ “văn hoá” trong tiếng Trung Quốc có nghĩa gốc là “văn trị giáo hoá”, thể hiện cách cai trị kết hợp với giáo dục Từ “văn” biểu thị sự thể hiện bên ngoài và vẻ đẹp do màu sắc tạo ra, trong khi “hoá” mang nghĩa chuyển thành, trở thành Tương tự, ở phương Tây, trong nền văn minh cổ Hi Lạp, từ “văn hoá” (cultus) ban đầu có nghĩa là trồng trọt, từ đó dần dần chuyển sang gieo trồng trí tuệ và tinh thần.

Nh- vậy, trong quan niệm của ng-ời cổ đại, dù ph-ơng Đông hay ph-ơng Tây thì văn hoá mang ý nghĩa giáo hoá con ng-ời

Văn hóa là dấu ấn đặc trưng của mỗi cộng đồng, phản ánh mọi hiện tượng tinh thần và vật chất Nó vừa mang tính phổ biến, vì con người luôn sống trong cả hai thế giới thực tại và biểu tượng, vừa mang tính cá biệt, khi mỗi cộng đồng có cách sống và lựa chọn riêng Sự khác biệt này bắt nguồn từ đời sống vật chất và tinh thần đa dạng của từng nhóm người.

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hoá nh-ng tựu chung lại có thÓ ®-a ra ba ý chÝnh:

- Văn hóa là cái làm phân biệt giữa con ng-ời với con vật

- Văn hoá là do giáo dục mà có

- Văn hoá là cái để phân biệt giữa cộng đồng này với cộng đồng khác

Văn hoá có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng để hiểu một cách đầy đủ, cần gắn văn hoá với con người Theo Ph May, nguyên tổng giám đốc UNESCO, "Văn hoá sinh ra cùng với con người và hiện diện trong mọi hoạt động của họ, từ sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần cho đến các mối quan hệ xã hội và thái độ đối với tự nhiên."

Theo GS Phan Ngọc, văn hóa không phải là một khái niệm độc lập mà tồn tại ở mọi khía cạnh của cuộc sống Văn hóa được hiểu là mối quan hệ giữa thế giới thực tại và thế giới biểu tượng, thể hiện qua những lựa chọn riêng biệt của từng dân tộc và cá nhân Sự khác biệt trong các lựa chọn này tạo ra những nền văn hóa đa dạng và phong phú.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng văn hóa là tổng hợp của các sáng tạo và phát minh của con người nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và cuộc sống Ông cho rằng, từ ngôn ngữ, chữ viết, đến đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, tất cả đều phản ánh cách mà con người thích ứng với cuộc sống Văn hóa không chỉ là những công cụ sinh hoạt hàng ngày mà còn là biểu hiện của sự sáng tạo và phát triển trong xã hội.

Văn hoá là một khái niệm bao quát, bao gồm mọi lĩnh vực trong đời sống Nhà nghiên cứu Herder cho rằng để mô tả thế giới, chúng ta chỉ cần hai từ: tự nhiên và văn hoá.

Văn hóa được định nghĩa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần mà con người và loài người tạo ra thông qua lao động và hoạt động thực tiễn trong suốt quá trình lịch sử.

Văn hóa là sự sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn và cái đẹp, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội Nó hiện diện trong mọi khía cạnh của cuộc sống con người, từ sản xuất vật chất, ăn uống, mặc đồ, đến các hoạt động văn hóa, giáo dục và nghệ thuật Văn hóa cũng bao gồm phong tục, tập quán, tín ngưỡng và tôn giáo, phản ánh toàn bộ hành vi ứng xử của con người trong đời sống hàng ngày.

1.1.2 Chức năng của văn hoá

Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo trong cuộc sống, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành trí tuệ, nhân cách và tâm hồn ngay từ khi mới sinh ra Qua việc tiếp nhận các giá trị văn hóa xã hội, con người phát triển trong một môi trường thứ hai, nơi nuôi dưỡng và hình thành bản sắc Văn hóa không chỉ có chức năng xã hội đặc biệt mà còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất, vị trí và vai trò của nó trong đời sống xã hội.

Trong giới nghiên cứu việc trình bày chức năng về văn hoá không phải đã có sự thống nhất hoàn toàn

Trong bài viết "Khái niệm văn hoá" thuộc tập "Khái niệm và quan niệm về văn hoá", PGS TS Tạ Văn Thạnh đã trình bày các chức năng của văn hoá, nhấn mạnh vai trò quan trọng của nó trong việc hình thành và phát triển xã hội Văn hoá không chỉ là tập hợp các giá trị, niềm tin và phong tục tập quán mà còn là yếu tố quyết định trong việc xây dựng bản sắc dân tộc và kết nối cộng đồng Các chức năng này bao gồm giáo dục, truyền thông, và tạo ra sự gắn kết xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền văn minh nhân loại.

- Chức năng chính của văn hoá là chức năng giáo dục, để thực hiện chức năng giáo dục thì có các chức năng sau đây:

+ Chức năng định h-ớng, đánh giá, xác định chuẩn mực điều chỉnh cách ứng xử của con ng-ời

+ Chức năng đảm bảo sự kế tục của lịch sử

Một số thành tố văn hóa, như nghệ thuật, thể thao và hội hè, không chỉ mang tính giải trí mà còn đảm nhiệm chức năng thẩm mỹ, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người.

PGS TSKH Trần Ngọc Thêm, laị xuất phát từ các đặc tr-ng của văn hoá mà ông đề xuất và khẳng định những chức năng của văn hoá:

- Chức năng tổ chức xã hội

- Chức năng điều chỉnh xã hội

- Chức năng phát sinh là đảm bảo sự kế tục của lịch sử

Giáo trình “Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam” do Viện Văn hoá và Phát triển biên soạn, trình bày rõ ràng chức năng của văn hoá trong bối cảnh phát triển đất nước Tài liệu này không chỉ giúp người đọc hiểu về lý thuyết văn hoá mà còn nêu bật vai trò của văn hoá trong việc định hướng chính sách và đường lối của Đảng.

Sự khác biệt trong cách trình bày các chức năng của văn hóa xuất phát từ góc độ tiếp cận đa dạng của từng tác giả, hoặc có thể là những cách diễn đạt khác nhau về mặt chức năng của văn hóa.

Giáo dục là một phần thiết yếu của văn hóa, đóng vai trò chuyển giao kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác Quá trình này không chỉ giúp cá nhân và cộng đồng tiếp thu kiến thức mà còn tạo điều kiện cho sự hòa nhập, phát triển và sáng tạo trong xã hội.

Tất cả các hoạt động văn hóa đều nhằm mục đích giáo dục con người, phát triển thể lực, trí lực, tình cảm và bồi dưỡng nhân cách cũng như trí tuệ Con người không chỉ là chủ thể sáng tạo văn hóa mà còn là môi trường sản xuất các sản phẩm văn hóa.

Khái quát về du lịch

Du lịch đã từ lâu được công nhận là một sở thích và hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người Hiện nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu thiết yếu trong đời sống văn hóa - xã hội của nhiều quốc gia trên toàn thế giới Hoạt động du lịch đang phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng ở nhiều quốc gia.

Ngày nay, thuật ngữ “du lịch” trở nên phổ biến, có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp nghĩa là đi một vòng Trong tiếng Việt, “du” có nghĩa là đi chơi, còn “lịch” mang ý nghĩa từng trải Người Trung Quốc gọi du lịch là “du lãm”, thể hiện việc đi chơi nhằm nâng cao nhận thức.

Du lịch là một hoạt động kinh tế xã hội quan trọng, thu hút hàng tỷ người trên toàn cầu Bản chất của du lịch nằm ở việc sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của khách hàng Ngoài ra, du lịch còn đóng góp vào việc chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế như giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và xây dựng, từ đó tăng cường tỷ trọng của khối dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.

Du lịch không chỉ đơn thuần là hoạt động giải trí mà còn phục hồi sức khoẻ và nâng cao khả năng lao động của con người Mỗi chuyến đi mang đến những trải nghiệm tinh thần phong phú nhờ vào sự đa dạng về tự nhiên, lịch sử, văn hoá và truyền thống của từng vùng, quốc gia Hoạt động du lịch gắn liền với việc di chuyển đến các địa điểm tạm thời Trong lịch sử, nhiều hoạt động như hành hương tôn giáo hay các cuộc thám hiểm của những nhân vật nổi tiếng như Christopher Columbus đã khởi đầu cho khái niệm du lịch Hiện nay, du lịch được hiểu là hoạt động di chuyển của cá nhân hoặc nhóm người rời khỏi nơi cư trú trong thời gian ngắn để nghỉ ngơi, giải trí hoặc chữa bệnh, và bao gồm tất cả các hình thức di chuyển trong và ngoài nước, ngoại trừ những mục đích như tị nạn chính trị hay tìm kiếm việc làm.

Du lịch đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc vào hoàn cảnh như thời gian và khu vực, cũng như từ góc độ nghiên cứu đa dạng Mỗi người có một cách hiểu riêng về du lịch, phản ánh sự phong phú của khái niệm này.

Vào năm 1963, tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch ở Roma, các chuyên gia đã định nghĩa du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và hoạt động kinh tế phát sinh từ những cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hoặc tập thể bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hoặc ở nước ngoài, với mục đích hòa bình Điểm đến lưu trú không phải là nơi ở thường xuyên của họ.

Khác với quan điểm trên, các tác giả “Bách khoa toàn thư Vịêt Nam” lại tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt:

Du lịch được hiểu là một hoạt động nghỉ dưỡng và tham quan tích cực của con người, diễn ra ngoài nơi cư trú Mục đích của du lịch là để nghỉ ngơi, giải trí và khám phá các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cũng như các công trình văn hóa nghệ thuật.

Du lịch được xem là một ngành kinh doanh tổng hợp, mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao hiểu biết về tự nhiên, truyền thống, lịch sử và văn hóa dân tộc Điều này không chỉ tăng cường tình yêu đất nước cho người dân mà còn thúc đẩy tình hữu nghị với các quốc gia khác Về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả lớn, được coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) năm 1999, du lịch được định nghĩa là một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng liên quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên Mục đích của du lịch bao gồm tiêu khiển, nghỉ ngơi, khám phá văn hóa, nghỉ dưỡng và nhiều lý do khác không liên quan đến việc kiếm sống.

Luật du lịch của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, định nghĩa du lịch tại chương I, điều 10 như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.”

Nh- vậy có thể thấy hoạt động du lịch có một số đặc điểm sau:

- Du lịch là hoạt động di chuyển của con ng-ời đến một nơi nào đó ngoài nơi ở th-ờng xuyên của mình

- Mục đích của du lịch là đáp ứng đ-ợc nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí của du khách

Du lịch yêu cầu sự hỗ trợ từ các cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng, cùng với các dịch vụ du lịch, để đáp ứng nhu cầu của du khách trong suốt chuyến đi.

Du lịch được xem là ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt, trong đó các đối tượng văn hóa là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn Tài nguyên du lịch tự nhiên thu hút du khách nhờ vẻ đẹp hoang sơ và độc đáo, trong khi tài nguyên du lịch nhân văn lại lôi cuốn bởi sự phong phú, đa dạng và tính truyền thống, cũng như đặc trưng địa phương Các đối tượng văn hóa, chính là tài nguyên du lịch nhân văn, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các loại hình du lịch văn hóa hấp dẫn.

Ngày nay, với sự phát triển của xã hội, nhu cầu nâng cao văn hóa và kiến thức cá nhân ngày càng tăng, thúc đẩy sự phát triển của du lịch văn hóa Con người dành thời gian rỗi để thư giãn tinh thần một cách tích cực, tham gia vào các hoạt động như xem triển lãm, tham quan bảo tàng, ca hát và chơi nhạc cụ.

Giá trị văn hóa lịch sử và các thành tựu chính trị, kinh tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển du lịch của một địa phương, vùng hoặc quốc gia Chúng thu hút đông đảo khách du lịch với nhiều mục đích và yêu cầu khác nhau Đồng thời, nhận thức về văn hóa cũng là yếu tố thúc đẩy động cơ du lịch của du khách.

Theo PGS Phạm Minh Tuệ, du lịch văn hóa chủ yếu nhằm nâng cao hiểu biết cá nhân, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã hội, chính sách và phong tục tập quán của mỗi quốc gia.

Vai trò của du lịch văn hoá trong hoạt động du lịch

Văn hóa và du lịch có mối quan hệ biện chứng, tương tác lẫn nhau, đặc biệt trong việc bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử và văn hóa Điều này không chỉ góp phần quan trọng vào tài nguyên du lịch mà còn ảnh hưởng đến yếu tố cầu trong thị trường du lịch.

Sản phẩm văn hoá đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch, tạo ra các loại hình du lịch đa dạng Khai thác tiềm năng văn hoá không chỉ giúp phát triển du lịch mà còn củng cố nền văn hoá bền vững, thúc đẩy sự hiểu biết và hòa bình giữa các nền văn hóa Sự phát triển du lịch cũng đồng nghĩa với sự thăng hoa văn hoá, góp phần vào giao lưu văn hoá giữa các dân tộc, làm cho nền văn hoá của mỗi dân tộc hòa nhập vào nền văn hoá chung của nhân loại.

Khách du lịch có cơ hội trải nghiệm và khám phá các thành tựu văn hóa phong phú của các dân tộc, từ đó nâng cao lòng yêu nước và nhận thức xã hội Những trải nghiệm này góp phần hình thành và củng cố các phẩm chất đạo đức tốt đẹp như lòng yêu nước, tình bạn và tinh thần lao động, điều này ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển toàn diện của nhân cách mỗi cá nhân trong xã hội.

Phát triển du lịch văn hóa không chỉ thúc đẩy giao lưu và hợp tác quốc tế mà còn mở rộng sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc Qua đó, du lịch văn hóa giúp con người ở các khu vực khác nhau hiểu biết lẫn nhau và gần gũi hơn.

Việc tìm hiểu sản phẩm văn hóa không chỉ nâng cao nhận thức của người dân về văn hóa, mà còn khuyến khích ý thức bảo vệ và gìn giữ văn hóa bản địa Điều này giúp tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại từ du khách, làm phong phú đời sống xã hội, tăng cường sự gắn kết cộng đồng và khơi dậy lòng tự hào dân tộc.

Mỗi quốc gia và dân tộc đều sở hữu những nét văn hóa đặc trưng riêng, và thông qua sản phẩm văn hóa du lịch, chúng ta có thể giới thiệu và quảng bá hình ảnh đất nước, con người đến bạn bè quốc tế Điều này không chỉ giúp nâng cao nhận thức về văn hóa địa phương mà còn tạo nền tảng cho việc phát triển các tour du lịch văn hóa hấp dẫn.

Phát triển du lịch văn hóa không chỉ giúp bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, kinh tế, chính trị, thương mại và xã hội.

Du lịch văn hóa không chỉ gia tăng doanh thu cho ngành du lịch mà còn đóng góp vào việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa Mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch có thể được thể hiện qua các phương tiện và sản phẩm văn hóa cụ thể, tạo ra sự kết nối chặt chẽ giữa hai lĩnh vực này.

Các sản phẩm văn hóa như tranh vẽ, điêu khắc, hàng thủ công mỹ nghệ và đồ lưu niệm từ các làng nghề hay di tích lịch sử luôn thu hút khách du lịch Hiện nay, tại các điểm du lịch, việc bày bán hàng thủ công truyền thống và tham quan các cửa hàng này đã trở thành một hình thức giải trí phổ biến Những sản phẩm mua được ở đây thường có giá trị lưu niệm cao hơn so với những món hàng tương tự được bán tại siêu thị hay khách sạn.

Biểu diễn dân ca và các loại hình văn nghệ truyền thống, hiện đại tại các cơ sở lưu trú hoặc địa phương sẽ mang đến cho du khách trải nghiệm âm nhạc tuyệt vời Ngoài ra, việc cung cấp băng hình và băng nhạc để khách mua cũng là phương tiện hiệu quả trong việc quảng bá và gìn giữ văn hóa địa phương.

Các điệu nhảy dân tộc thu hút du khách nhờ sự sôi động và mạnh mẽ, cùng với các hình thức và phương thức biểu diễn đầy màu sắc Trang phục cổ truyền dân tộc, âm nhạc và điệu nhảy không chỉ tạo nên sức cuốn hút mà còn góp phần duy trì và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc.

Văn hóa không chỉ bao gồm các giá trị vật chất như công trình đương đại, trường đại học và cơ sở nghiên cứu, mà còn bao gồm giá trị tinh thần từ việc học hỏi kinh nghiệm trong các chuyến đi Những giá trị này làm cho du lịch trở nên đa dạng và năng động Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt động du lịch văn hóa phong phú, như các tour du lịch văn hóa, tuần lễ du lịch văn hóa và liên hoan ẩm thực Các sự kiện văn hóa lớn như Lễ hội đền Hùng, Festival Huế và hành trình di sản miền Trung đã tạo ra mối liên kết sâu sắc giữa văn hóa và du lịch, thu hút du khách cả trong và ngoài nước.

Thiết kế tour du lịch kết hợp với văn hóa là yếu tố quan trọng thu hút du khách và giới thiệu giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới Với tiềm năng du lịch nhân văn phong phú và chính sách phát triển hợp lý, Việt Nam hứa hẹn sẽ trở thành điểm đến lý tưởng cho du khách Các vùng miền núi và dân tộc thiểu số sở hữu nét văn hóa độc đáo, từ lối sống đến kiến trúc nghệ thuật, tạo ra sản phẩm du lịch đặc sắc Phát triển du lịch văn hóa không chỉ bảo tồn bản sắc dân tộc mà còn mang lại lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống cộng đồng và thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền.

Huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá, nổi bật với truyền thống lịch sử văn hoá phong phú và là nơi khởi nguồn triều đại tiền Lê và hậu Lê, đánh dấu một giai đoạn huy hoàng của dân tộc Với nguồn tài nguyên du lịch nhân văn đa dạng, việc khai thác các giá trị này không chỉ góp phần bảo tồn văn hoá địa phương mà còn làm phong phú thêm sản phẩm du lịch, từ đó nâng cao sức hấp dẫn cho ngành du lịch tỉnh Thanh Hoá.

Thọ Xuân, Thanh Hóa, là vùng đất giàu văn hóa và lịch sử với hàng ngàn năm hình thành, để lại nhiều dấu ấn qua các đền, chùa, lăng tẩm, cung điện, lễ hội và làng nghề truyền thống Với nguồn tài nguyên du lịch nhân văn phong phú, Thọ Xuân thu hút đông đảo du khách đến khám phá và trải nghiệm.

Giới thiệu chung về huyện Thọ Xuân

Huyện Thọ Xuân, tọa lạc hai bên bờ sông Chu - một trong những con sông lớn nhất tỉnh Thanh Hoá, có diện tích 303,1 km² và dân số khoảng 328.400 người Huyện này giáp với huyện Thiệu Hoá ở phía đông và huyện ở phía đông nam.

Triệu Sơn là huyện nằm ở phía Tây Nam giáp huyện Thường Xuân, phía Tây Bắc giáp huyện Ngọc Lặc, và phía Đông Bắc giáp huyện Yên Định Huyện Thọ Xuân có địa hình bán sơn địa với sự kết hợp giữa núi và đồng bằng trung du Hệ thống giao thông tại đây rất thuận lợi, bao gồm quốc lộ 15 chạy theo hướng Bắc - Nam ở phía Tây huyện, đi qua thị trấn Lam Sơn, và đường 47 kết nối với thành phố Thanh Hóa Ngoài ra, giao thông đường thủy cũng phát triển với con sông Chu gặp sông Mã, chảy ra biển Đông.

Huyện Thọ Xuân, nằm tại tỉnh Thanh Hóa, bao gồm 3 thị trấn: huyện lỵ Thọ Xuân, thị trấn Sao Vàng và thị trấn Lam Sơn Ngoài ra, huyện còn có 38 xã, trong đó có các xã như Xuân Khánh, Xuân Thành, Xuân Phong, Xuân Trường, Xuân Hoà, Xuân Giang, và nhiều xã khác như Xuân Minh, Xuân Vinh, Xuân Bái, Xuân Lam, Xuân Thiên, Xuân Tín, Xuân Lai, Xuân Lập, Xuân Tân, Xuân Yên, Xuân Châu, Xuân Sơn, Xuân Thắng, Xuân Phú, Phú Yên, Quảng Phú, Hạnh Phúc, Bắc Lương, Nam Giang, và Tây.

Hồ, Thọ Nguyên, Thọ Lộc, Thọ Hải, Thọ Diên, Thọ Lâm, Thọ X-ơng, Thọ Minh, Thọ Lập, Thọ Thắng, Thọ Tr-ờng

2.1.2 Sự hình thành và phát triển

Huyện Thọ Xuân, với truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam Trong thời kỳ thuộc Hán (111 TCN - 210 SCN), Thọ Xuân thuộc huyện T-Phố, sau đó từ năm 581 đến 905 thuộc huyện Di Phong, và cuối cùng là Tr-ờng Lâm.

Thời Trần, Thọ Xuân thuộc huyện Cổ Lôi, và từ năm 1466, nơi đây được gọi là Lôi D-ơng Đến năm 1826, thời Nguyễn, huyện Lôi D-ơng đã hợp nhất với huyện Thụy Nguyên thành phủ Thọ Xuân Lỵ sở Thọ Xuân trước năm 1895 đóng tại Thịnh Mỹ (nay là xã Thọ Diên) và sau đó chuyển về Xuân Phố (hiện nay là Xuân Trường) Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, phủ Thọ Xuân được đổi tên thành huyện Thọ Xuân.

Từ thời tiền sử, Thọ Xuân đã có người sinh sống, với nhiều dấu ấn lịch sử rõ nét về thời kỳ dựng nước Các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều hiện vật như trống đồng, thạp đồng và công cụ sản xuất tại khu vực tả ngạn sông Chu.

Từ thế kỷ X, Thọ Xuân đã trở thành vùng đất phát triển, và đến thế kỷ XV, nơi đây là căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn Với truyền thống yêu nước và cách mạng, Thọ Xuân đã sản sinh ra nhiều vị vua kiệt xuất như Lê Đại Hành.

Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Túc Tông cùng với những nhân tài như Lê Lai, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn Linh, Trịnh Khắc Phục đã góp phần làm rạng danh quê hương Truyền thống vẻ vang này được hình thành từ phong trào Cần Vương, với Thọ Xuân là căn cứ chống Pháp Theo tiếng gọi của Đảng, người dân Thọ Xuân đã tích cực tham gia đóng góp sức người và vật chất cho các cuộc kháng chiến cứu quốc.

Tài nguyên du lịch nhân văn trên địa bàn huyện Thọ Xuân

Thọ Xuân hiện nay lưu giữ nhiều di tích lịch sử quan trọng như Khu di tích lịch sử Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn, chùa Linh Cảnh, đền Quần Đội và cụm di tích làng Xuân Phả Ngoài ra, nơi đây còn tổ chức nhiều lễ hội đặc sắc như lễ hội Lam Kinh, thu hút đông đảo du khách tham gia.

Thọ Xuân nổi bật với các di tích lịch sử, lễ hội truyền thống như lễ hội làng Xuân Phả và lễ hội Cao Sơn, cùng với các làng nghề đặc sắc như bánh gai Tứ Trụ, bánh răng bừa, nón lá Thọ Lộc và nem nướng Những yếu tố này tạo nên điều kiện lý tưởng cho Thọ Xuân trở thành một điểm đến du lịch văn hóa hấp dẫn cho cả du khách trong nước và quốc tế.

2.2.1 Các di tích lịch sử văn hoá

Huyện Thọ Xuân, thuộc tỉnh Thanh Hoá, nổi bật với nhiều di tích lịch sử quý giá Dù trải qua chiến tranh và thiên tai, huyện vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo tồn di sản văn hóa nhờ sự quan tâm của chính quyền địa phương Hiện nay, Thọ Xuân còn lưu giữ hàng trăm di tích có giá trị, trở thành tài sản vô giá và niềm tự hào của người dân nơi đây.

Khu di tÝch Lam Kinh

Khu di tích lịch sử Lam Kinh tọa lạc tại xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa 51km về phía Tây Bắc Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia bởi Bộ Văn hóa - Thông tin vào năm 1962, Lam Kinh là một địa danh quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Lăng Lê Thái Tông và bia Vĩnh Lăng tại Lam Kinh tóm tắt sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ, do Nguyễn Trãi biên soạn Lam Kinh, khởi nguồn cho thời kỳ hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với cuộc kháng chiến chống giặc Minh và thống nhất giang sơn Nằm ở huyện Thọ Xuân, nơi đây đã sản sinh ra hai triều đại nhà Lê (Tiền Lê, Hậu Lê) Gần một ngàn năm trước, Cao Hoàng Đế Lê Lợi đã chọn nơi này làm điểm dừng chân khi thấy bầy chim tụ hội Thánh điện Lam Kinh được bao bọc bởi núi Dầu ở phía bắc, sông và núi Chúa ở phía nam, rừng Phú Lâm bên tả ngạn và núi Hương, Hàm Rồng bên hữu ngạn, tạo nên một vị trí địa lý tuyệt đẹp và linh thiêng.

Hiện nay, di tích Lam Kinh chỉ còn lại nền điện và các bậc thềm đá, trong đó nổi bật là bậc thềm lên dãy sau nhà với hình chạm khắc rồng Rồng được thể hiện trong tư thế xoải bước trên sông, với chân trước vuốt râu và đầu dữ tợn, trên mình rồng có những đám mây mềm mại Hình ảnh rồng ở điện Lam Kinh rất giống với rồng tại điện Kính Thiên trong Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), vì cả hai đều được chạm khắc theo phong cách nghệ thuật thời Lê.

Ngọ Môn, với kiến trúc hoành tráng bao gồm 3 gian, 2 tầng mái và 3 hàng cột, dẫn vào sân rồng rộng lớn tại khu chính điện Lam Kinh Sân rồng có diện tích lên tới 3539,25m², tạo không gian ấn tượng cho du khách Chính điện Lam Kinh gồm 3 toà điện lớn: Điện Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh, được xây dựng trên khu đất rộng rãi Điện Quang Đức và Diên Khánh có 9 gian, mỗi gian rộng 707,77m², trong khi điện Sùng Hiếu có diện tích nhỏ hơn, chỉ 229,5m² Để lên chính điện, du khách sẽ bước qua thềm rồng với chín bậc, tạo nên một lối đi trang trọng và uy nghi.

Có hai lối lên dẫn vào khu vực chính, với hai bên lối giữa được trang trí bằng hình rồng tạc tròn Phía sau điện Diên Khánh là khu Thái miếu triều Lê Sơ, bao gồm 9 toà thờ, trong đó Thái miếu thờ Thái Hoàng và Thái Phi.

Khu hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được xây dựng theo trục nam - bắc trên một khoảng gò đồi hình chữ v-ơng, với bốn mặt thành dài 314 m và bề ngang 254 m Tường thành phía bắc có hình cánh cung với bán kính 1,61 m và chiều dài 1 m Người dân xứ Thanh thường nói "về" Lam Kinh, biểu thị sự trở về với khu di tích lịch sử và nơi khởi nguồn của những chiến tích hào hùng, nơi diễn ra Hội thề Lũng Nhai Hàng năm, vào tháng 8 âm lịch, lễ hội Lam Kinh được tổ chức, kỷ niệm ngày giỗ của

Lê Lợi (22/8/1433) đ-ợc cử hành trọng thể

Khu điện Lam Kinh hiện đang được đầu tư tôn tạo nhằm khôi phục lại vẻ đẹp của một Tây kinh xưa, góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống và kiến trúc độc đáo của Việt Nam thế kỷ XV Dự án này hứa hẹn sẽ biến nơi đây thành một điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước.

Tu bổ di tích Lam Kinh gặp nhiều khó khăn vì hiện trạng chỉ còn lại phế tích, do đó cần một quá trình nghiên cứu khoa học kỹ lưỡng để đảm bảo tính trung thực của di tích.

Khu di tích Lam Kinh (Thọ Xuân) đã trải qua nhiều thăng trầm của xã hội và thiên nhiên, dẫn đến tình trạng gần như hoang phế Trong thời gian dài, di tích bị lãng quên với cây cỏ mọc rậm rạp, bia đá lún nghiêng, nhiều tượng đá bị vỡ và các lăng mộ bị sạt lở Sông Ngọc và hồ T©y cũng đang bị cạn dần, trong khi s©n và thềm rồng bị x©m phạm và hư hỏng nặng Để khắc phục tình trạng này, vào ngày 22/10/1994, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt dự án tổng thể cho khu di tích.

Theo chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Văn hóa - Thông tin, UBND tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành thi công dự án khu Lam Kinh Tuy nhiên, một trong những khó khăn lớn nhất là thiếu cơ sở khoa học về tư liệu, thư tịch, kiến trúc, cũng như các đồ tế lễ trong khu điện, miếu thờ Hiện tại, chỉ còn lại nền móng nhà, tường thành và các tảng đá kệ chôn cột của khu chính điện.

Trong giai đoạn đầu của dự án trùng tu khu di tích, dưới sự quan tâm của các bộ, ngành và địa phương, nhiều hạng mục quan trọng đã được tu bổ và tôn tạo, bao gồm lăng mộ, bia ký của các vị vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiển Tông, Lê Túc Tông, cùng với di tích của Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, đền Lê Thái Tổ và đền Trung Túc Vương Lê Lai Ngoài ra, các con giống, quan hầu bằng đá, cầu Bạch, nhà bảo tàng trưng bày hiện vật và khu đón tiếp khách cũng đã được khôi phục.

Giai đoạn hai đã hoàn thành quy hoạch cắm mốc xây dựng hàng rào bao quanh di tích bằng cây xanh và tháp hình, giải phóng mặt bằng hơn 60 ha và trồng rừng bổ sung hơn 50 ha Đồng thời, việc khôi phục hồ Như Áng, hồ Tây, sông Ngọc và giếng cổ đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường sinh thái Hồ Tây đặc biệt đã thay đổi cách sống của người dân khu vực ven hồ, từ sản xuất nông nghiệp, đánh bắt tôm cá tự nhiên đến các dịch vụ như cho thuê thuyền và bán hàng lưu niệm, tạo ra nhiều cơ hội việc làm ổn định.

Công tác bảo tồn các giá trị văn hoá của huyện Thọ Xuân

Thọ Xuân là huyện có bề dày lịch sử văn hóa hàng nghìn năm, nổi bật với nhiều sự kiện lịch sử hào hùng và là quê hương của nhiều danh nhân, anh hùng Đặc biệt, đây là nơi phát tích của hai vương triều Tiền Lê và Hậu Lê, khẳng định vị thế quan trọng trong lịch sử dân tộc Với tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng, Thọ Xuân xứng đáng trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách.

Di sản văn hóa của khu vực bao gồm cả di sản vật thể và phi vật thể Về di sản vật thể, có hơn 200 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, trong đó có 6 di tích cấp quốc gia và 31 di tích cấp tỉnh, cùng với các danh lam nổi bật như Núi Mục Sơn và Đập Bái Thượng Di sản văn hóa phi vật thể cũng rất phong phú, bao gồm nhiều trò diễn dân gian, lễ hội và nghề truyền thống như trò Xuân Phả, ca trù và Bánh gai Tứ Trụ.

Du lịch huyện Thọ Xuân đã có những chuyển biến tích cực nhờ nhận thức về ngành du lịch như một ngành công nghiệp không khói, đặc biệt từ khi luật Di sản văn hóa được ban hành Các cấp, ngành trong tỉnh đã chú trọng công tác tôn tạo và tu bổ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị lịch sử văn hóa tại Thọ Xuân đạt kết quả khích lệ, với việc kiểm kê di tích và triển khai các dự án trùng tu như khu di tích lịch sử Lam Kinh, khu di tích lịch sử Lê Hoàn, và di tích cách mạng Lê Văn Sỹ.

Hàng năm Thọ Xuân đã tổ chức nhiều lễ hội truyền thống nh- lễ hội

Lễ hội Lam Kinh, lễ hội Xuân Phả và Lê Hoàn đã thu hút sự quan tâm của du lịch thông qua các chương trình quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, báo chí, tờ rơi và áp phích Những hoạt động này đã giúp giới thiệu các gian hàng hội trợ truyền thống và các phòng trưng bày triển lãm, từ đó đón nhận hàng nghìn lượt khách đến tham quan và dâng hương.

Nhằm phát triển du lịch Thọ Xuân thành trung tâm du lịch phía tây tỉnh Thanh Hóa, Uỷ Ban Nhân Dân huyện Thọ Xuân đã đề ra kế hoạch đầu tư vào cơ sở hạ tầng du lịch, bao gồm hệ thống giao thông, khách sạn, nhà nghỉ và các dịch vụ đi kèm như ăn uống, vận chuyển, đồ lưu niệm Huyện cũng chú trọng nâng cao nhận thức của chính quyền và người dân về vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội Đồng thời, huyện đề nghị tỉnh Thanh Hóa thành lập Ban quản lý di tích cấp huyện và đào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức về di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh để nâng cao chất lượng công tác du lịch.

Gần đây, sự thiếu nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền và ban quản lý di tích về luật Di sản và Nghị định 92/2004/ND-CP đã dẫn đến sai phạm trong việc tu bổ, tôn tạo di tích Chùa Đầm tại xã Xuân Thiên, huyện Thọ Xuân Việc này đã gây ra những tranh cãi không tốt trong cộng đồng, ảnh hưởng đến giá trị nguyên gốc của di tích và gây tổn hại lớn cho tiềm năng du lịch văn hoá của huyện Thọ Xuân cũng như tỉnh Thanh Hoá.

Nhiều di tích địa phương đang tự huy động kinh phí để sửa chữa và tu bổ, tuy nhiên, họ không tuân thủ đúng các hướng dẫn văn bản hoặc không xin ý kiến từ chuyên ngành, dẫn đến việc tu bổ không đồng nhất và làm hỏng nguyên trạng của di tích Hơn nữa, do nhà nước chưa có kinh phí hỗ trợ, việc hướng dẫn và uốn nắn các cơ sở cũng gặp nhiều khó khăn.

Các nhà nghiên cứu vẫn chưa đủ điều kiện về tài chính, kỹ thuật và cơ sở vật chất để thực hiện các dự án lớn nhằm nghiên cứu và bảo tồn, phục hồi cũng như phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.

Nhiều điểm di tích lịch sử văn hóa chưa thu hút được đông đảo khách du lịch, dẫn đến việc khai thác tài nguyên du lịch còn mang tính tự phát và quy mô nhỏ Điều này gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên, vì hiệu quả chưa đạt được như mong đợi.

Thực trạng khai thác du lịch văn hoá trên địa bàn huyện Thọ Xuân

Thọ Xuân là một điểm đến hấp dẫn với nhiều tài nguyên du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa Hiện nay, khu vực này đã phát triển các tour du lịch văn hóa kết hợp với các tuyến điểm nổi bật trong tỉnh Thanh Hóa như Thanh Hóa - Thọ Xuân, Thanh Hóa - Thọ Xuân - Cẩm Thủy - Vĩnh Lộc, và Thanh Hóa - Thọ Xuân - Sầm Sơn Những tuyến du lịch này mang đến cho du khách trải nghiệm phong phú và đa dạng về văn hóa và lịch sử.

Sầm Sơn – Di tích lịch sử Lam Kinh – Suối Cá thần Cẩm L-ơng – Thành nhà Hồ

Du khách đến bãi biển Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sẽ được trải nghiệm không khí trong lành và thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng Họ có thể tham gia tour “Sầm Sơn – Di tích lịch sử Lam Kinh – Suối Cá thần Cẩm Lương – Thành nhà Hồ” để khám phá giá trị kiến trúc của triều đại phong kiến Việt Nam và tìm hiểu về vùng đất lịch sử nơi dòng họ Lê Lợi khởi nghiệp Đây là một tuyến du lịch mới được khai thác, hứa hẹn mang đến nhiều trải nghiệm thú vị cho du khách.

Thành phố Thanh Hoá nổi bật với tour du lịch hấp dẫn đến di tích Lam Kinh và đền thờ Lê Lai ở Sầm Sơn Chỉ mất khoảng một giờ đi ô tô từ thành phố, du khách có cơ hội khám phá cầu Bạch, Thềm Rồng, Thái miếu, bia Vĩnh Lăng và thắp hương tại mộ các vua Lê Ngoài ra, du khách còn có thể thưởng thức bánh gai Tứ Trụ trong khung cảnh núi non hùng vĩ, giúp họ hiểu rõ hơn về vùng đất và con người Thọ Xuân.

Tuyến du lịch này không chỉ đưa du khách trở về với nghĩa quân Lam Sơn và triều đại Hậu Lê, mà còn khám phá quê hương của vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) Đây là một trong những vị vua đã mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân nhờ những cải cách vượt bậc so với các triều đại phong kiến trước.

Việc triển khai du lịch văn hóa tại Thọ Xuân còn thiếu kế hoạch cụ thể, dẫn đến sản phẩm du lịch chưa đạt chất lượng cao và chưa phong phú, đa dạng Khu vực này chưa tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, mang bản sắc dân tộc, đặc biệt là các di tích lịch sử, làng nghề và lễ hội truyền thống Một số điểm du lịch văn hóa nổi bật tại Thọ Xuân bao gồm Khu di tích lịch sử Lam Kinh và lễ hội Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn cùng Lễ hội Lê Hoàn, và cụm di tích làng Xuân Phả với lễ hội làng Xuân Phả Những điểm này đã và đang được khai thác, bảo tồn để phục vụ du lịch.

Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa khai thác hiệu quả các di tích lịch sử trong chương trình tham quan, dẫn đến sự thiếu kết nối với các hoạt động du lịch tại tỉnh Thanh Hoá và huyện Thọ Xuân Việc phát triển du lịch chủ yếu diễn ra một cách tự phát, đôi khi gây ra tình trạng quá tải mà không mang lại lợi ích cho di tích Do đó, các doanh nghiệp du lịch cần nghiên cứu và tích hợp các di tích vào chương trình của mình để đáp ứng nhu cầu du khách Đồng thời, các địa phương và ngành văn hóa cần chú trọng đầu tư hợp tác với doanh nghiệp du lịch nhằm tôn tạo và trùng tu di tích, từ đó thu hút thêm lượng khách đến tham quan và tham gia các lễ hội.

2.4.2 Hoạt động du lịch huyện Thọ Xuân trong thời gian qua

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của tỉnh Thanh Hoá và sự quan tâm từ các bộ, ngành, du lịch Thọ Xuân đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ của địa phương và nỗ lực của toàn ngành.

Thọ Xuân, với đặc điểm địa lý và lịch sử độc đáo, là nơi giàu tiềm năng văn hóa truyền thống Nơi đây không chỉ là nơi kết tinh của văn hóa Việt Nam mà còn gắn liền với truyền thống xây dựng huyện và chống giặc ngoại xâm của người dân Điều này đã tạo ra một tiềm năng du lịch văn hóa phong phú, điển hình như khu di tích lịch sử Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn, cụm di tích làng Xuân Phả và chùa Linh Cảnh, thể hiện những giá trị kiến trúc nghệ thuật đáng tự hào của các nghệ nhân tài hoa.

Hiện nay, khách du lịch đến các di tích lịch sử văn hóa Thọ Xuân chủ yếu là người Việt Nam, với mục đích tâm linh và tìm hiểu lịch sử, nghệ thuật kiến trúc Họ thường chỉ tham quan trong ngày và ghé thăm những điểm nổi bật như Khu di tích lịch sử Lam Kinh và đền thờ Lê Hoàn, đặc biệt vào các ngày lễ hội lớn Hiện tại, chưa có nhiều khách du lịch quốc tế đến tham quan, và phần lớn du khách thường kết hợp nghỉ mát ở Sầm Sơn với việc tham quan các di tích Tuy nhiên, lượng khách đến Sầm Sơn chủ yếu tập trung vào mùa hè, dẫn đến sự phụ thuộc vào mùa vụ, mặc dù các di tích ở đây là nguồn tài nguyên du lịch văn hóa quý giá.

Hoạt động kinh doanh du lịch tại Thọ Xuân đã có sự khởi sắc rõ rệt, với lượng khách du lịch và doanh thu tăng nhanh qua các năm Theo báo cáo của Phòng Văn hóa Thông tin Thọ Xuân, từ năm 2003 đến 2008, tổng lượng khách du lịch đến Thọ Xuân đã tăng từ 400.080 lên 632.428 lượt, tương đương với mức tăng 58,08% Doanh thu du lịch trong cùng thời gian này cũng ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ, từ 50.010 triệu đồng lên 94.864 triệu đồng, tăng 89,69%.

Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch huyện Thọ Xuân ( 2004 –

L-ợng khách đến Thọ Xuân trong giai đoạn (2004 – 2005) mới chỉ có khách nội địa Nguồn khách này đến từ các huyện và các tỉnh lân cận: Thành phố Thanh Hoá, Sầm Sơn, Ninh Bình, Nghệ An, Nam Định…Nhìn chung, khách đến và đi về trong ngày rất hiếm l-u trú qua đêm, mức chi tiêu trung bình thấp từ 90.000 VNĐ - 150.000 VNĐ/ 1 l-ợt khách

Khu di tích lịch sử Lam Kinh là điểm thu hút chính của huyện Thọ Xuân, chiếm từ 80% đến 90% tổng lượng khách nội địa đến tham quan du lịch tại đây.

Thành phần khách nội địa đến Thọ Xuân chủ yếu được chia thành ba nhóm: khách hành hương đến các di tích với mục đích tâm linh, học sinh và sinh viên đến để học tập, cùng với các nhà nghiên cứu.

Thời gian thu hút khách đông nhất tại lễ hội Lê Hoàn vào ngày 8/3 và lễ hội Lam Kinh vào các ngày 21, 22/8 âm lịch hàng năm, cùng với các tháng đầu xuân từ tháng Giêng đến tháng 3, là thời điểm lý tưởng để hành hương và trải nghiệm văn hóa đặc sắc.

Việc khai thác di tích phục vụ du lịch hiện nay còn mang tính tự phát và quy mô nhỏ, dẫn đến hiệu quả chưa cao và gây lãng phí tài nguyên Bảo tồn các di tích đang dần được chú trọng, tuy nhiên, tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch văn hóa của huyện vẫn chưa được phát huy tối đa.

Thọ Xuân mới đang ở dạng tiềm năng ch-a thu hút đ-ợc nhiều khách du lịch đến tham quan

Đánh giá chung

Thọ Xuân là một vùng đất cổ với nhiều danh thắng gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Theo thống kê năm 2006, Thanh Hoá có 133 di tích thắng cảnh quốc gia, trong đó Thọ Xuân chiếm 6 di tích, cùng với nhiều di tích khác đang chờ xếp hạng, cho thấy bề dày văn hóa của khu vực này Ngoài ra, Thọ Xuân còn nổi bật với các lễ hội truyền thống như lễ hội Xuân Phả, lễ hội Cao Sơn và các làng nghề như bánh Gai Tứ Trụ, bánh Răng Bừa Đây chính là nguồn tài nguyên phong phú để phát triển du lịch văn hóa và các loại hình du lịch kết hợp khác như du lịch nghiên cứu và khảo cổ.

Trong 3 năm ( 2006 -2008), thông qua nguồn hỗ trợ của các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp, uỷ ban nhân dân huyện Thọ Xuân đã và đang thực hiện trùng tu, tôn tạo và phục hồi đ-ợc một số di tích với nguồn vốn hơn 4 tỷ đồng B-ớc đầu đã và đang phát huy đ-ợc nhiều giá trị, tôn vinh các anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá đồng thời đáp ứng đ-ợc nhu cầu tín ng-ỡng tâm linh của nhân dân và thu hút hàng nghìn l-ợt khách thăm quan du lịch từ khắp mọi miền của đất n-ớc

Trong 10 năm qua, tiềm năng du lịch văn hóa đã được khai thác hiệu quả, với các sản phẩm từ làng nghề truyền thống như bánh gai Tứ Trụ, bánh răng bừa và nón lá được bán trực tiếp cho du khách, tạo ra nhiều đơn đặt hàng lớn Các di tích lịch sử như Lam Kinh và đền thờ Lê Hoàn cũng đã được đưa vào khai thác, kết hợp với các tuyến du lịch khác trong tỉnh Đặc biệt, sự phát triển du lịch kết hợp giữa di tích và lễ hội đã thu hút một lượng lớn khách du lịch Năm 2008, huyện Thọ Xuân đã tổ chức thành công lễ kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa Lam Sơn, thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách.

Lê Thái Tổ đăng quang và 575 năm ngày mất của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi

Lễ hội Lam Kinh năm 2008 được tổ chức với quy mô cấp tỉnh, góp phần nâng cao hoạt động du lịch lễ hội và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Thành công trong việc phát triển du lịch văn hóa Thọ Xuân chủ yếu nhờ vào công tác tuyên truyền và quảng bá liên tục, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng Các hoạt động này không chỉ nâng cao hình ảnh du lịch của tỉnh mà còn góp phần thu hút du khách trong nước và khu vực Đồng thời, việc đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch cũng được chú trọng để gia tăng sức hấp dẫn cho điểm đến.

Uỷ ban nhân dân huyện đang tích cực tuyên truyền và nâng cao nhận thức của người dân về bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn, nhằm gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc và thúc đẩy sự phát triển của du lịch văn hoá.

Cơ sở hạ tầng du lịch tại Thọ Xuân đã được cải thiện đáng kể nhờ vào nhiều nguồn vốn từ các chương trình dự án Hiện nay, các trục đường giao thông chính của huyện đang được hoàn thiện, và tuyến xe buýt liên tỉnh kết nối đến các di tích lịch sử và danh thắng trong khu vực ngày càng mở rộng Mạng lưới thông tin liên lạc cũng đã phát triển đến tận các xã, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.

38 b-u điện văn hoá xã và 3 b-u điện lớn nằm ở 3 thị trấn

Huyện Thọ Xuân sở hữu tiềm năng lớn về tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là lịch sử văn hóa và các di tích lịch sử Tuy nhiên, ngành du lịch địa phương vẫn gặp nhiều khó khăn và chưa được xem là động lực phát triển kinh tế xã hội Mặc dù lượng khách du lịch tăng nhanh, nhưng sự phát triển này không bền vững và chưa thu hút được khách du lịch quốc tế Việc quảng bá du lịch quốc tế tại huyện Thọ Xuân vẫn còn hạn chế.

Mặc dù Thọ Xuân sở hữu nhiều di tích lịch sử và danh thắng hấp dẫn, nhưng chúng chưa được khai thác triệt để cho hoạt động du lịch, dẫn đến lượng khách tham quan vẫn còn hạn chế Hai lễ hội thu hút đông đảo du khách nhất tại đây là Lễ hội Lam Kinh và Lễ hội Lê Hoàn.

Du khách tham gia lễ hội chủ yếu vào mùa xuân để đi lễ, tham quan chùa chiền và thưởng thức không khí hội hè, thể hiện tính chất mùa vụ rõ rệt Đối tượng khách chủ yếu đến từ các tỉnh lân cận như Ninh Bình, Nghệ An và khu vực nội địa, trong khi lượng khách du lịch quốc tế vẫn còn hạn chế, dẫn đến doanh thu du lịch chưa cao.

Hầu hết các điểm du lịch văn hóa tại các khu vực phát triển như Hà Nội, Hải Phòng, và Quảng Ninh chưa được khai thác hiệu quả trong các tour du lịch Mặc dù một số công ty lữ hành đã thiết lập chương trình tham quan tại Thọ Xuân, nhưng chủ yếu vẫn chỉ kết hợp trong tuyến du lịch liên tỉnh Việc phát triển các tuyến du lịch nội vùng còn hạn chế, sản phẩm du lịch thiếu sự đa dạng và hấp dẫn, dẫn đến tính cạnh tranh thấp Tài nguyên du lịch phân tán và chưa có sự kết nối chặt chẽ, trong khi yếu tố tâm linh chưa được khai thác đúng mức.

Các cơ sở lưu trú vẫn chưa được hình thành đầy đủ, trong khi một số nhà hàng đã được xây dựng nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách, dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp Hệ thống giao thông hiện tại chủ yếu tập trung vào việc vận chuyển hàng hóa, chưa chú trọng đến khai thác vận chuyển khách du lịch.

Việc trùng tu di tích, mặc dù đã được thực hiện, nhưng nhiều công trình sau trùng tu đã mất đi vẻ cổ kính, thay vào đó là sự kệch cỡm Cụ thể, nền đất cổ bị thay thế bằng nền xi măng và đá hoa, trong khi cột gỗ cũng được thay bằng cột xi măng Những thay đổi này đã làm mất đi sự tôn nghiêm và nét văn hóa đặc trưng của di tích.

Hoạt động du lịch tại huyện Thọ Xuân hiện chưa được tổ chức chặt chẽ, thiếu sự kết hợp giữa tham quan các di tích và các loại hình du lịch khác như tham quan làng nghề, dẫn đến sự đơn điệu và tốn thời gian di chuyển, không thu hút được du khách Đội ngũ lao động trong ngành du lịch còn thiếu hụt về trình độ chuyên môn, với tỷ lệ lao động trong lĩnh vực này rất nhỏ Hoạt động du lịch chủ yếu dựa vào kinh nghiệm mà không có đào tạo chuyên môn Hiện tại, huyện Thọ Xuân chưa có Phòng du lịch và vẫn thiếu các văn bản cụ thể về cơ chế chính sách thu hút đầu tư, cũng như quy hoạch các tuyến, điểm tham quan du lịch.

Nhiều người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về giá trị của các di tích đối với hoạt động du lịch, dẫn đến tâm lý chưa sẵn sàng tham gia vào du lịch Họ cũng chưa khám phá hết các giá trị tiềm năng của những di tích này.

Ph-ơng h-ớng phát triển du lịch văn hoá trên địa bàn huyện Thọ Xuân

Phương hướng phát triển du lịch Thọ Xuân trong những năm tới tập trung vào việc khai thác tối đa tiềm năng cảnh quan tự nhiên và tài nguyên nhân văn, đồng thời đảm bảo môi trường sinh thái Địa phương sẽ đa dạng hóa các sản phẩm du lịch để thu hút đầu tư, tăng tỷ trọng du lịch trong GDP, tạo việc làm cho người lao động và nâng cao dân trí Ngoài ra, việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và phát huy văn hóa địa phương cũng là mục tiêu quan trọng Để thực hiện các mục tiêu này, Thọ Xuân cần phát triển du lịch văn hóa theo hướng hiện đại hóa và công nghiệp hóa.

* Lựa chọn h-ớng khai thác, phát triển bền vững

Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành Quốc tế (WTTC), du lịch bền vững được định nghĩa vào năm 1996 là khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và khu vực du lịch, đồng thời bảo đảm khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai.

Bên cạnh đó, việc khai thác và phát triển phải góp phần tôn vinh những giá trị văn hoá của địa ph-ơng

Khai thác phát triển du lịch văn hoá phải góp phần hỗ trợ nhân dân đia ph-ơng và thu hút cộng đồng dân c- địa ph-ơng tham gia

Quảng bá du lịch văn hóa địa phương cần cung cấp thông tin đầy đủ và giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc, nhằm thu hút du khách.

Khai thác phát triển du lịch văn hoá góp phần bảo vệ môi tr-ờng cảnh quan di tÝch

Để bảo tồn di tích và phát triển các làng nghề, cần tập trung huy động nguồn vốn đầu tư từ Tổng cục, Sở du lịch và các nguồn lực khác như tư nhân, tập thể và cộng đồng Việc này sẽ góp phần tôn tạo và phát triển các giá trị văn hóa độc đáo, khôi phục nét văn hóa địa phương.

* Xây dựng các loại hình du lịch

Để phát triển du lịch bền vững, cần khai thác mạnh mẽ nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là du lịch văn hóa, kết hợp với các loại hình du lịch khác như du lịch sinh thái, du khảo đồng quê và du lịch nghỉ dưỡng Đồng thời, việc giữ gìn và phát huy các bản sắc văn hóa truyền thống cũng như bảo vệ môi trường cảnh quan là rất quan trọng trong quá trình này.

Xây dựng các tuyến điểm tham quan đa dạng với nhiều chương trình du lịch phong phú là một hướng đi quan trọng Trước mắt, cần tập trung vào những điểm đến có cảnh quan đẹp, nhằm phát triển du lịch kết hợp hiệu quả.

Khu di tích lịch sử Lam Kinh kết hợp với du lịch làng nghề và du khảo đồng quê, trong khi khu đền thờ Lê Hoàn kết hợp với du lịch cộng đồng và du khảo đồng quê, tạo nên những trải nghiệm phong phú cho du khách.

* Xây dựng các công trình du lịch gắn với an ninh và bảo vệ môi tr-ờng

Du lịch văn hóa mang đến cơ hội cho du khách tiếp xúc trực tiếp với người dân địa phương, những người gìn giữ và phát triển văn hóa bản địa cùng với các phong tục tập quán độc đáo Việc xây dựng các chương trình du lịch gắn liền với an ninh không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho du khách mà còn giúp người dân địa phương trở nên gần gũi và thân thiện hơn Hình thức du lịch này không chỉ thu hút du khách mà còn để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng họ khi khám phá những vùng đất mới.

* Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực

Để đáp ứng nhu cầu cấp bách và chuẩn bị cho tương lai trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, việc chú trọng đào tạo lại và đào tạo mới cho nhân lực, bao gồm hướng dẫn viên và cán bộ quản lý, là vô cùng cần thiết.

Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về du lịch và môi trường cho cộng đồng, đặc biệt tại các khu vực có di tích lịch sử và làng nghề truyền thống, nhằm phát huy tinh thần cộng đồng trong việc khai thác du lịch.

* Nâng cao chất l-ợng các dịch vụ

Để nâng cao chất lượng dịch vụ, cần tập trung vào ba yếu tố chính: thái độ phục vụ, sự đa dạng của tiện nghi hàng hóa và dịch vụ, cùng khả năng sẵn sàng phục vụ Việc áp dụng quy định nghiêm ngặt về chất lượng dịch vụ và giá cả là rất quan trọng, đồng thời ứng dụng khoa học vào quy trình này giúp xác định giá bán sản phẩm du lịch một cách hợp lý, tránh ảnh hưởng tiêu cực đến sản phẩm.

Mục tiêu phát triển du lịch Thọ Xuân đến năm 2020 là xây dựng huyện trở thành một trong những khu du lịch văn hóa hấp dẫn nhất của Thanh Hoá và khu vực Bắc Trung Bộ, nhấn mạnh giá trị lịch sử với kinh đô của một trong những triều đại nổi tiếng của Việt Nam.

Chỉ tiêu phát triển du lịch Thọ Xuân giai đoạn 2010 - 2020

Chỉ tiêu Đơn vị tính 2010 2015 2020

2.Tổng doanh thu Triệu đồng 82 170 280

(Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Thanh Hoá)

Thọ Xuân sở hữu nguồn tài nguyên phong phú cho phát triển du lịch, đặc biệt là các tour du lịch văn hóa Để thu hút ngày càng nhiều khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế, Thọ Xuân cần khai thác tối đa nguồn tài nguyên du lịch nhân văn của huyện Mục tiêu là đưa Thọ Xuân trở thành một trong những vùng trọng điểm du lịch của Thanh Hóa, góp phần xây dựng huyện thành khu vực tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

Một số giải pháp phát triển du lịch văn hoá của huyện Thọ Xuân

Để phát triển du lịch bền vững, việc khai thác tài nguyên cần đi đôi với bảo vệ và tôn tạo Các nguồn lợi từ du lịch phải được sử dụng để đóng góp vào việc bảo tồn và phục hồi các di tích văn hóa.

Việc tuyên truyền rộng rãi về tầm quan trọng của các di tích và di vật văn hóa là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân Điều này không chỉ giúp bảo tồn các giá trị văn hóa cho các thế hệ mai sau mà còn góp phần phát triển hoạt động du lịch Do đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục cho cộng đồng để họ hiểu rõ hơn về vai trò của di sản văn hóa.

- Xây dựng ý thức bảo tồn các di tích lịch sử văn hoá, lễ hội, các làng nghề truyÒn thèng

- Xây dựng nếp sống văn hoá, tuyên truyền nếp sống văn minh trong giao thiệp với mọi ng-ời cũng nh- đối với khách du lịch ở nơi công cộng

- Xây dựng ý thức bảo vệ môi tr-ờng tự nhiên, không tự xả rác bừa bãi tại các điểm công cộng Đối với các di tích

Việc trùng tu di tích cần bảo tồn nguyên vẹn giá trị cổ xưa, đồng thời hạn chế tối đa việc sử dụng bê tông Chỉ nên bê tông hóa những khu vực cần thiết như lối đi, trong khi các phần còn lại như nền đất cũ, nền gạch Bát Tràng, đá ong và cột gỗ cần được giữ nguyên.

Để bảo vệ các cây cổ, điểm khảo cổ và tượng cổ, cần thiết lập rào chắn và quản lý chặt chẽ nhằm ngăn chặn tình trạng mất trộm tượng và sắc phong Cần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, lấn chiếm di tích lịch sử - văn hóa Hơn nữa, việc hoàn thiện quy hoạch chi tiết các di tích là rất quan trọng để phục vụ cho hoạt động du lịch hiệu quả.

Để khai thác và bảo tồn các tài nguyên nhân văn một cách hiệu quả, cần có sự lựa chọn cẩn thận, tránh nhầm lẫn giữa bản sắc dân tộc với những yếu tố sai lệch như đồng bóng, bói toán và yểm bùa.

Để hạn chế ảnh hưởng của khói hương đến việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các di tích, chúng ta có thể đặt một bát hương lớn trước cửa và ghi chú "du khách vui lòng thắp hương tại đây" Cách làm này không chỉ giảm thiểu tình trạng cay mắt cho du khách mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ.

Để bảo vệ các hiện vật, cần lắp đặt thêm biển chỉ dẫn như "tránh sờ lên hiện vật" Ngoài ra, nên bố trí thùng rác trong di tích nhằm bảo vệ môi trường.

Tóm lại việc trùng tu, tôn tạo di tích phảI đảm bảo phát triển bền vững Đối với các lễ hội truyền thống

Để tổng kết về lễ hội của địa phương, cần xác định số lượng lễ hội, thời gian tổ chức, vị trí diễn ra, cũng như giá trị văn hóa nghệ thuật của từng lễ hội, bao gồm cả phần lễ và phần hội cùng các hoạt động đi kèm.

Việc khôi phục và bảo tồn các lễ hội không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch văn hóa mà còn ảnh hưởng tích cực đến đời sống tinh thần của người dân địa phương Cần nâng cao ý thức của cộng đồng trong việc gìn giữ các hoạt động lễ hội, đồng thời khai thác những lễ hội đặc trưng để giới thiệu văn hóa truyền thống độc đáo của Thọ Xuân đến bạn bè trong nước và quốc tế Kết hợp các lễ hội truyền thống trong tỉnh sẽ tạo ra những chuyên đề văn hóa hấp dẫn, thu hút du khách Ngoài ra, việc kết hợp các di tích và lễ hội truyền thống với các tài nguyên du lịch khác tại Thọ Xuân sẽ tạo ra những chuyến đi dài ngày thú vị cho du khách trong cùng một địa phương.

Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá và các ban ngành liên quan đang nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi để duy trì các di tích lịch sử tại huyện Thọ Xuân Chính quyền khuyến khích tổ chức các hoạt động văn hoá, nghệ thuật dân gian truyền thống gắn với lễ hội, phục hồi nghi thức lễ hội và phổ biến rộng rãi về nguồn gốc cùng các giá trị truyền thống độc đáo Đồng thời, việc giới thiệu và tuyên truyền giá trị của di tích cũng nhằm thu hút khách tham quan, đặc biệt là đối với các làng nghề truyền thống.

Một số làng nghề ở Thọ Xuân hiện nay đang có nguy cơ bị thất truyền, để khắc phục điều này cần triển khai một số vấn đề:

Khôi phục và phát triển các làng nghề phải h-ớng nó phù hợp với tình hình thị tr-ờng

S-u tầm nghiên cứu các nguồn t- liệu về các làng nghề của Thọ Xuân

Từ đó để đ-a ra h-ớng khôi phục góp phần h-ớng nghiệp cho ng-ời dân địa ph-ơng

Xây dựng một bảo tàng nhỏ về các làng nghề tại địa phương sẽ giúp bảo tồn và giới thiệu văn hóa truyền thống Bảo tàng này sẽ trưng bày các hiện vật độc đáo và cung cấp các sản phẩm thủ công chất lượng cao, thu hút du khách và tạo điều kiện cho nghệ nhân địa phương phát triển.

Ví dụ: Các x-ởng thủ công có gian tr-ng bày các sản phẩm, có gian nghệ nhân trực tiếp làm để khách có thể xem và cảm nhận

Để phát triển nghề nghiệp, cần tổ chức các cuộc thi tay nghề với giải thưởng hấp dẫn, đồng thời thành lập câu lạc bộ và hội thảo dành cho nghệ nhân, doanh nhân và nhà nghiên cứu Bên cạnh đó, việc mở các lớp dạy và truyền nghề cũng rất quan trọng để nâng cao kỹ năng và kiến thức cho cộng đồng.

Huyện cần tạo điều kiện để phát triển rộng các làng nghề: chế độ đãi ngộ với các nghệ nhân, kêu gọi nhà đầu t-

3.2.2 Tăng c-ờng cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng phục vụ cho hoạt động du lịch Để khai thác tốt nguồn tài nguyên sẵn có phục vụ phát triển du lịch thì cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ phục vụ cho du lịch có một vai trò rất quan trọng ở Thọ Xuân, mặc dù đã xây dựng đ-ợc một số hệ thống cơ sở vật chất khá hoàn chỉnh song để khai thác tốt nguồn tài nguyên sẵn có trên địa bàn phục vụ cho phát triển du lịch cần làm:

Cần hoàn thiện hệ thống đường liên thôn và cải thiện các tuyến đường để đảm bảo giao thông thuận tiện, đặc biệt là các đường nối từ trung tâm huyện đến các di tích trong mùa mưa Chính sách đầu tư xây dựng là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho du khách Đồng thời, ưu tiên đầu tư cho trung tâm tư vấn và hướng dẫn du lịch nhằm nâng cao năng lực hoạt động và mở rộng các tour, tuyến phục vụ nhu cầu tham quan của du khách.

Tại các điểm tham quan, cần thiết phải xây dựng nhà lễ tân để tiếp đón khách trước khi họ vào tham quan Các nhà lễ tân này nên được thiết kế theo kiểu kiến trúc truyền thống và bao gồm quầy bán hàng lưu niệm, tạo thuận lợi cho du khách.

Kiến nghị

3.3.1 Đối với Bộ văn hoá thể thao và du lịch Đề nghị Chính phủ, Bộ kế hoạch đầu t- và Bộ văn hoá thể thao du lịch bố trí kế hoạch vốn ngân sách đầu t- xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch và các dự án du lịch (tôn tạo khu di tích lịch sử Lam Kinh, Đền thờ Lê Hoàn) để khai thác có hiệu quả hơn nữa nguồn tài nguyên du lịch của Thọ Xuân đặc biệt là tài nguyên du lịch nhân văn Tr-ớc mắt cần chú trọng vào các dự án cụ thể: dự án trung tâm hỗ trợ giới thiệu các sản phẩm làng nghề và quảng bá du lịch; Tôn tạo khu di tích lịch sử Lam Kinh

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần xem xét và công nhận một số lễ hội lớn của huyện Thọ Xuân, như Lễ hội Lam Kinh, là lễ hội quốc gia Việc này không chỉ tôn vinh giá trị văn hóa địa phương mà còn góp phần phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa.

Lê Hoàn, lễ hội Xuân Phả… để khai thác, quảng bá phục vụ du lịch

3.3.2 Đối với tỉnh Thanh Hoá

Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá cần khẩn trương xây dựng quy hoạch chi tiết cho các vùng trọng điểm và kế hoạch phát triển du lịch văn hoá tại Thọ Xuân trong những năm tới, nhằm khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch văn hoá Lam Kinh được xác định là khu du lịch văn hoá có giá trị lớn không chỉ cho tỉnh mà còn cho toàn vùng du lịch Bắc Trung Bộ Đồng thời, Uỷ ban cần chỉ đạo huyện Thọ Xuân khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên du nhân văn để phục vụ cho hoạt động du lịch của tỉnh Thanh Hoá.

Uỷ ban nhân dân tỉnh đã quyết định bổ sung kinh phí để tôn tạo các di tích văn hóa bị hư hại và xuống cấp Những di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng cần được khôi phục và bảo vệ một cách nghiêm ngặt, tránh làm mất đi các giá trị lịch sử Cần giải quyết triệt để tình trạng lấn chiếm và xâm phạm di tích do thiếu quản lý Việc thực hiện phương án bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cần được tiến hành nhanh chóng.

3.3.3 Đối với địa ph-ơng Đề nghị Uỷ ban nhân dân huyện Thọ Xuân sớm xúc tiến xây dựng đề án khôi phục các làng nghề để bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống gắn với phát triển sản xuất hàng hoá phục vụ du lịch.Trình uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề nghị các đơn vị lữ hành trên địa bàn tỉnh sớm đ-a các tuyến du lịch văn hoá của Thọ Xuân kết hợp với các điểm tham quan của huyện khác vào các ch-ơng trình du lịch cụ thể

Các địa phương cần chủ động xây dựng các điểm du lịch văn hóa và áp dụng biện pháp bảo tồn cũng như phát triển các loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống.

Chương 3 đã trình bày phương hướng phát triển du lịch văn hóa tại huyện Thọ Xuân, đồng thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị hợp lý Những đề xuất này hy vọng sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa, tại Thọ Xuân ngày càng phát triển hơn.

Thọ Xuân, huyện có bề dày lịch sử và văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam, sở hữu hàng trăm di tích lịch sử và lễ hội truyền thống phong phú Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch văn hóa tại Thọ Xuân, góp phần làm phong phú thêm các loại hình du lịch của tỉnh Thanh Hóa, từ đó hình thành nên những tour và tuyến du lịch hấp dẫn.

Mặc dù Thọ Xuân sở hữu tài nguyên du lịch phong phú, nhưng khu vực này vẫn chưa khai thác hiệu quả để phát triển du lịch Cơ sở hạ tầng và kỹ thuật chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng hiện có Quản lý và thu hút vốn đầu tư cũng chưa được chú trọng, dẫn đến việc cần nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.

Bài viết "Khai thác du lịch văn hoá trên địa bàn huyện Thọ Xuân – Thanh Hoá" nêu rõ tầm quan trọng thực tiễn của việc phát triển du lịch văn hoá tại Thọ Xuân Tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại hiện tại, với hy vọng rằng các ngành, cấp quản lý và doanh nghiệp sẽ sử dụng tài liệu này làm cơ sở tham khảo trong việc khai thác tiềm năng du lịch văn hoá của huyện.

Khóa luận này vẫn còn nhiều hạn chế do khả năng nghiên cứu của tác giả và nguồn tài liệu chưa phong phú Tác giả rất mong nhận được sự bổ sung và góp ý từ các thầy cô để hoàn thiện hơn.

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:48

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Báo cáo hoạt động du lịch năm 2008. Phòng văn hóa thông tin huyện Thọ Xuân Khác
2. Luật du lịch, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội năm 2005 Khác
3. Hội hè Việt Nam, nhà xuất bản văn hóa dân tộc, năm 1990 Khác
4. Nguyễn Văn Hòe-Vũ Văn Hiếu, Du lịch bền vững, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội Khác
5. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, nhà xuất bản giáo dục Khác
6. Dương Văn Sáu, lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch, trường Đại học văn hóa Hà Nội Khác
7. Di tích và danh thắng Thanh Hóa, nhà xuất bản Thanh Hóa năm 2007 Khác
8. Lễ hội Thanh Hóa, Nhà xuất bản Thanh Hóa năm 2007 Khác
9. Trần Đức Thanh, nhập môn khoa học du lịch, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2000 Khác
10. Nguyễn Minh Tuệ và cộng sự, địa lý du lịch, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1999 Khác
11. Bùi Thị Hải Yến, Tuyến điểm du lịch Việt Nam, nhà xuất bản giáo dục Khác
12. Non nước Việt Nam, nhà xuất bản Hà Nội, năm 2005 Khác
13. Bùi Thị Hải Yến, quy hoạch du lịch, nhà xuất bản giáo dục Khác
14. Bùi Thị Hải Yến, tài nguyên du lịch, nhà xuất bản giáo dục Khác
15. Di tích lịch sử Lam Kinh, nhà xuất bản Thanh Hóa Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w