Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự phát triển của du lịch nông nghiệp và nông thôn đã thu hút sự chú ý của các học giả toàn cầu từ những năm 1990 Các nghiên cứu đầu tiên về lĩnh vực này được thực hiện bởi một số học giả ở Châu Âu như Mormont (1987) và Bethemont.
Năm 1994, Nitsch và der Straaten (1995), Hjalager (1996) đã nghiên cứu sự phát triển của du lịch nông thôn ở Châu Âu trong suốt một thế kỷ, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý giá Trên toàn cầu, nhiều quốc gia đã triển khai các chương trình du lịch nông nghiệp nổi bật như “du lịch nông nghiệp” ở Ý, “ngủ trong rơm rạ” tại Thụy Sĩ, và “ngủ tại nông trang” ở New Zealand.
Nghiên cứu của Saugeres (2002) chỉ ra rằng phát triển du lịch nông thôn không chỉ thúc đẩy kinh tế mà còn nâng cao vai trò của phụ nữ trong cộng đồng Khi tham gia vào lĩnh vực này, phụ nữ có cơ hội khẳng định vị trí quản lý và sự độc lập của bản thân Việc điều hành các hoạt động tại trang trại hoặc cơ sở lưu trú cho khách du lịch được xem như một phần mở rộng của công việc gia đình, giúp họ phát triển kỹ năng và tự tin hơn trong vai trò của mình.
Curtis E Beus (2008) đã thực hiện nghiên cứu tổng quan về du lịch nông nghiệp, rút ra bài học từ Châu Âu và trình bày một số kết quả đạt được tại bang Vermont và Kentucky Từ đó, tác giả đề xuất mô hình phát triển các trang trại theo hướng du lịch nông nghiệp tại Mỹ.
Ngoài ra, Duncan Hilchey (1993) đã nghiên cứu về du lịch nông nghiệp và một số kết quả đạt đƣợc tại một số bang của Mỹ nhƣ New York, Califonia
Hiện nay, ở nước ta cũng có một vài học giả đã nghiên cứu về sự phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn cũng được nhiều người quan tâm
PGS.TS Bùi Xuân Nhàn nghiên cứu sự hình thành và tiến triển của du lịch nông thôn trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam, đồng thời đánh giá tiềm năng phát triển của lĩnh vực này Ông cũng đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy du lịch nông thôn ở Việt Nam.
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh và ThS Trần Huy Đức đã tiến hành đánh giá nhận thức về du lịch nông thôn tại Hà Nội, phân tích các thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển lĩnh vực này Bài viết cũng đưa ra những đề xuất và khuyến nghị từ góc độ kinh tế du lịch nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của du lịch nông thôn.
ThS.Bùi Thị Lan Hương (2010) đã nghiên cứu phân biệt khái niệm du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn
TS.Lê Anh Tuấn (2010) đã nghiên cứu về sự phát triển du lịch nông thôn ở một số quốc gia như Vương quốc Anh, CHLB Đức, Pháp
TS Ngô Kiều Oanh (2010) đã đánh giá sức hấp dẫn của du lịch nông nghiệp Việt Nam thông qua việc phát triển hệ thống tour du lịch nông nghiệp tại vùng xứ Đoài, nằm ở ngoại ô Hà Nội mở rộng.
Nghiên cứu của Bộ môn Văn Hóa Du Lịch – Đại học Dân Lập Hải Phòng (2010) đã tổng hợp những nhận xét về du lịch nông nghiệp và nông thôn, cùng với kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới và điều kiện phát triển của lĩnh vực này tại Việt Nam.
Bài viết này tập trung vào việc khám phá khả năng phát triển du lịch tại Trang trại Đồng Quê ở Ba Vì, Hà Nội, nhằm giới thiệu một loại hình du lịch mới nổi bật tại Việt Nam - du lịch nông nghiệp.
Du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội đang phát triển, nhưng cần cải thiện để đạt hiệu quả cao hơn Bài viết này phản ánh thực trạng phát triển du lịch nông nghiệp tại đây và đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng và thu hút du khách, góp phần phát triển bền vững cho khu vực.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu trong đề tài này là “du lịch nông nghiệp ở Trang trại Đồng Quê - Ba Vì -Hà Nội”.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào giai đoạn từ năm 2008 đến 2011, với không gian nghiên cứu được thực hiện tại trang trại Đồng Quê, Ba Vì, Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài khóa luận, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu là quá trình thu thập thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu và xử lý để lựa chọn các thông tin chất lượng nhất Tài liệu sử dụng trong quá trình này bao gồm các công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học và bài báo khoa học.
Tác giả đã thực hiện phương pháp điền dã tại Trang trại Đồng Quê để nghiên cứu thực trạng du lịch nông nghiệp, từ đó thu thập tài liệu và số liệu nhằm đảm bảo độ chính xác và tính cập nhật cho đề tài khóa luận.
Phương pháp thống kê và phân tích, cùng với việc so sánh tổng hợp, được thực hiện dựa trên các tài liệu từ sách báo và tạp chí liên quan đến du lịch nông nghiệp Nghiên cứu này tập trung vào hoạt động du lịch nông nghiệp nói chung và đặc biệt là tại Ba Vì.
Phương pháp thống kê, xã hội học: sử dụng các bảng hỏi, các phiếu điều tra.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1:Cơ sở lý luận chung về du lịch nông nghiệp
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê - Ba Vì - Hà Nội
Chương 3: Một số đề xuất nhằm phát triển du lịch nông nghiệp tại huyện
Ba Vì - Hà Nội Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 8
CỞ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH NÔNG NGHIỆP 8
Khái quát chung
1.1.1 Khái niệm về du lịch nông nghiệp
Du lịch nông nghiệp là hoạt động khám phá các trang trại và tham gia vào các hoạt động nông nghiệp như làm vườn, canh tác, và kinh doanh nông sản Mục đích của loại hình du lịch này là để thưởng thức cảnh quan, học hỏi kiến thức và trải nghiệm thực tế trong lĩnh vực nông nghiệp.
Du lịch nông nghiệp đã thu hút sự chú ý của thế giới từ những năm 90 của thế kỷ 20 và hiện nay đang dần phát triển tại Việt Nam Theo nghiên cứu của Duncan Hilchey về nông nghiệp du lịch ở New York, lĩnh vực này đang mở ra nhiều cơ hội mới cho cả du khách và cộng đồng nông dân.
Cơ hội và thách thức trong lĩnh vực giải trí và khách sạn dựa trên nông trại đang ngày càng trở nên rõ ràng Những lựa chọn thay thế cho chương trình nuôi trồng tại Sở Nông thôn Xã hội học của Đại học Cornell vào năm 1993 đã mở ra nhiều hướng đi mới cho ngành này Việc kết hợp giữa nông nghiệp và du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu nhập bền vững mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển cộng đồng địa phương Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần vượt qua những thách thức như biến đổi khí hậu và sự cạnh tranh ngày càng gia tăng để tận dụng tối đa tiềm năng này.
Du lịch nông nghiệp là hình thức du lịch được tổ chức bởi chủ nông trại nhằm nâng cao hiểu biết và tạo cơ hội giải trí cho công chúng Qua đó, loại hình này không chỉ quảng bá sản phẩm nông nghiệp mà còn giúp tăng thu nhập cho nông trại.
Du lịch nông nghiệp, theo từ điển Wikipedia, được hiểu là hình thức du lịch liên quan đến các hoạt động nông nghiệp, đưa du khách đến các nông trại hoặc trang trại Tác giả Ramiro E Lobo cũng đã nghiên cứu về lợi ích của du lịch nông nghiệp tại San Diego, California, cho rằng đây là hoạt động tham quan các cơ sở nông nghiệp với mục đích thư giãn, giải trí và nâng cao nhận thức, đồng thời cho phép du khách tham gia vào các hoạt động của nông trại.
Theo ThS Bùi Thị Lan Hương trong nghiên cứu về du lịch nông nghiệp và nông thôn, du lịch nông nghiệp được định nghĩa là một loại hình du lịch riêng biệt, tập trung vào việc khai thác tài nguyên sản xuất nông nghiệp Trong loại hình này, người nông dân là chủ thể tham gia chính, và không gian du lịch chủ yếu là các trang trại và đồng ruộng Tuy nhiên, du lịch nông nghiệp cũng có thể dẫn đến xung đột lợi ích với cộng đồng địa phương.
Du lịch nông nghiệp là hình thức đưa du khách trở về với thiên nhiên, giúp họ tìm hiểu về đời sống của nông dân và tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp Qua đó, du khách có cơ hội trải nghiệm và thưởng thức những sản phẩm nông nghiệp do chính tay mình làm ra.
Du lịch nông nghiệp là một loại hình du lịch do chủ nông trại hoặc người điều hành triển khai nhằm nâng cao kiến thức và giải trí cho công chúng, đồng thời quảng bá sản phẩm nông trại và tăng thu nhập cho nông trại Khái niệm này của Hilchey rất phù hợp với đề tài khóa luận của tôi.
1.1.2 Đặc điểm du lịch nông nghiệp Để đáp ứng ngày càng cao của du khách hiện đại, ngành du lịch luôn có những bước chuyển mình tích cực và tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách Trong đó loại hình du lịch nông nghiệp là một phân khúc thị trường du lịch mới lạ và bổ ích Đây là kết hợp sự đa dạng của các vùng nông thôn, những trải nghiệm ẩm thực và những cuộc vui chơi ngoài trời
Kỳ nghỉ lý tưởng là khi du khách được thỏa mãn mọi nhu cầu, từ việc tắm nắng trên bãi biển gần khách sạn 5 sao đến khám phá nghệ thuật trong các bảo tàng Bên cạnh những trải nghiệm này, du lịch nông nghiệp đang ngày càng phát triển, mang đến sự đa dạng cho du khách thông qua các hoạt động như du lịch sinh thái, khám phá vùng nông thôn và trải nghiệm ẩm thực Du khách có thể nghỉ dưỡng tại các ngôi làng bên hồ, biệt thự gần nhà máy sản xuất rượu vang hoặc thậm chí tham gia vào công việc tại trang trại Sáng kiến “những tình nguyện viên trên trang trại” đã phổ biến ở 33 quốc gia, cho phép du khách trải nghiệm cuộc sống thực tế tại các trang trại trên toàn thế giới.
Du lịch nông nghiệp mang đến trải nghiệm văn hóa độc đáo, giúp du khách thoát khỏi nhịp sống hối hả của đô thị và tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên Tại Việt Nam, loại hình du lịch này còn mới mẻ, cho phép du khách tham gia vào các hoạt động nông nghiệp truyền thống như cấy lúa, bắt vịt và câu cá, cùng với những trải nghiệm thú vị như leo núi, cưỡi ngựa và nghỉ ngơi trong những ngôi nhà tranh ấm cúng.
Du lịch nông nghiệp là hình thức phát triển bền vững, kết nối tự nhiên, văn hóa và con người giữa đô thị và nông thôn Hình thức du lịch này không chỉ mang lại trải nghiệm cho du khách thông qua việc thưởng thức sản phẩm địa phương tại các hộ nông dân và trang trại, mà còn dựa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp Tài nguyên của du lịch nông nghiệp bao gồm đất đai, con người, quy trình sản xuất, kỹ thuật canh tác, cùng với các yếu tố tự nhiên như khí hậu và thời tiết, tất cả đều là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của loại hình du lịch này.
Không gian tổ chức các hoạt động nông nghiệp cho du khách bao gồm trang trại, đồng ruộng, vườn cây, rừng trồng, ao nuôi và các cơ sở thuần dưỡng động, thực vật hoang dã.
Chủ thể tham gia tổ chức du lịch nông nghiệp bao gồm các đối tượng như chủ hộ, nhà vườn, chủ rừng, chủ trang trại, các cơ sở, hợp tác xã nông nghiệp và doanh nghiệp nông nghiệp.
Du lịch nông nghiệp là hình thức xuất khẩu nông sản hiệu quả, đồng thời giúp quảng bá nguồn gốc sản phẩm Điều này trở nên quan trọng hơn khi nhu cầu bảo vệ sức khỏe cộng đồng trước ô nhiễm môi trường tại các thành phố lớn ngày càng gia tăng.
Lịch sử hình thành và phát triển loại hình du lịch nông nghiệp
Du lịch nông thôn bắt đầu xuất hiện cùng với sự phát triển của ngành đường sắt ở châu Âu Tuy nhiên, chỉ đến những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, loại hình du lịch này mới thực sự được công nhận và trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia châu Âu như Pháp, Hungary và Bulgaria.
Du lịch nông thôn tại các quốc gia như Hà Lan, Đan Mạch và Thụy Điển bao gồm nhiều loại hình như du lịch nông trại, du lịch di sản và du lịch xanh Sự khác biệt giữa du lịch nông thôn ở các quốc gia phát triển và đang phát triển nằm ở mục đích và cách thức phát triển Ở các quốc gia đang phát triển, du lịch nông thôn được coi là phương tiện đa dạng hóa thu nhập từ nông nghiệp, giúp giảm nghèo, bảo tồn văn hóa truyền thống và bảo vệ môi trường, dẫn đến sự phát triển theo chiều rộng Ngược lại, tại các quốc gia phát triển, du lịch nông thôn phát triển theo chiều sâu do diện tích nông thôn ngày càng bị thu hẹp.
Cách đây 30 – 40 năm, nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã trải qua tình trạng suy thoái kinh tế, dẫn đến những khó khăn trong đời sống của người dân.
Vì vậy, người dân từ các làng quê, vùng ngoại ô kéo nhau về các thành phố, các trung tâm công nghiệp để kiếm sống
Từ những năm 1970 đến 1980, nước Ý chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ tình trạng bỏ nghề nông, với nhiều người đổ xô ra thành phố tìm kiếm việc làm Trong suốt thập kỷ 1980, khoảng 400.000 hộ nông dân đã chuyển sang các nghề khác.
Chính phủ Ý đang đối mặt với những khủng hoảng nghiêm trọng, tình trạng tương tự cũng xuất hiện ở Nhật Bản, Pháp và Mỹ Để giải quyết vấn đề này, các chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp ngăn chặn, trong đó việc phát triển du lịch nông nghiệp đã chứng minh được hiệu quả qua nhiều năm, góp phần cải thiện thu nhập cho nông dân và thay đổi nhanh chóng bộ mặt nông thôn Sự quan tâm của cộng đồng xã hội đối với lĩnh vực này đã mang lại những tác động tích cực đáng kể.
Phát triển du lịch nông nghiệp tại nhiều quốc gia đã mang lại kết quả kinh tế tích cực, điển hình là tại Ý, nơi doanh thu từ loại hình du lịch này đã tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ 1985 đến 1990.
Tại một số quốc gia đã được cơ quan quản lý nhà nước quan tâm, đầu tư hỗ trợ trong việc phát triển loại hình du lịch nông nghiệp
Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 17
1987 ộ ổ Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 18
Pháp là quốc gia tiên phong trong phát triển du lịch nông thôn, với nhiều mạng lưới như "Nhà ở nước Pháp" (Gites de France), "Đón tiếp nông dân" (Accueil paysan) và "Chào đón ở nông trại" (Bienvenue à la ferme) Các hộ nông dân muốn tham gia phải cải tạo nhà cửa theo tiêu chuẩn du lịch, giữ lại nét truyền thống và đảm bảo tiện nghi vệ sinh tối thiểu Sau khi gia nhập, họ sẽ được đào tạo về dịch vụ du lịch và được xếp hạng từ 1 đến 5 sao, cùng với quy định giá thuê rõ ràng Các mạng lưới này cũng phát triển các mô hình dịch vụ chuyên biệt để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Nhà khách: tiếp khách nhƣ “ bạn” của gia đình, có phòng ngủ, bàn ăn với món ăn cổ truyền
Nhà đón tiếp trẻ em tổ chức các nhóm khoảng 10 trẻ em thành phố để trải nghiệm cuộc sống nông thôn trong vài ngày Tại đây, trẻ em sẽ được vui chơi, ăn uống và ngủ nghỉ cùng với trẻ em nông thôn dưới sự giám sát của người phụ trách.
Trại hè là một khu vực gần các di tích lịch sử và văn hóa, được thiết kế để tổ chức các hoạt động cắm trại Tại đây, có đầy đủ các tiện nghi như lều trại, nhà vệ sinh và bếp ăn ngoài trời, phục vụ cho các nhóm tham gia.
20 thanh thiếu niên về ở và du lịch quanh vùng
Nhà sàn vui chơi là điểm đến lý tưởng với 3 đến 25 nhà sàn, mỗi nhà có khả năng tiếp đón 6 người cho các hoạt động ăn uống và nghỉ ngơi Xung quanh khu vực có nhiều hoạt động giải trí hấp dẫn như câu cá, săn bắn, đi xe đạp và dạo chơi, kết hợp tham quan các di tích lịch sử, văn hóa và ngắm cảnh đẹp.
Mô hình du lịch nông thôn ở Pháp không thể hoàn toàn áp dụng cho Việt Nam do sự khác biệt lớn về văn hóa, điều kiện sản xuất và phong cảnh Việt Nam cần chú ý đến nhu cầu đa dạng của khách du lịch để thiết kế các chương trình đặc trưng như “nông trại cho gia đình”, “nông trại cho các cặp đôi” và “du lịch nông thôn cho thanh thiếu niên” Đối với du khách nước ngoài, việc trải nghiệm văn hóa địa phương là ưu tiên hàng đầu, trong khi khách nội địa thường tìm kiếm sự nghỉ ngơi và thư giãn sau những áp lực cuộc sống Thời gian nghỉ ngơi cần thiết cho du lịch nông thôn thường dài hơn so với các loại hình khác, và hiện tại, Việt Nam chỉ có một kỳ nghỉ dài vào dịp Tết Nguyên Đán Nếu có thêm một kỳ nghỉ dài trong năm, điều này sẽ thúc đẩy du lịch nông thôn và các loại hình du lịch khác.
Bên cạnh các chương trình du lịch truyền thống, việc bổ sung các hình thức du lịch đặc biệt như “Bếp ăn nông thôn” sẽ mang lại trải nghiệm thú vị cho du khách Hoạt động này cho phép du khách tham gia trực tiếp vào quá trình chế biến món ăn đặc sản từ sản phẩm địa phương Đối với du lịch nông thôn tại các làng nghề, việc tham gia vào quá trình sản xuất thủ công truyền thống sẽ tạo ra những kỷ niệm đáng nhớ Đối với những du khách không có thời gian trải nghiệm thực tế, việc xây dựng các “nhà bảo tàng nông dân” và “nhà bảo tàng phong tục nông thôn” sẽ giúp họ hình dung rõ nét về cuộc sống thôn quê Nhà bảo tàng nông dân lưu giữ các cảnh sản xuất truyền thống, trong khi nhà bảo tàng phong tục giới thiệu phong tục tập quán và vật dụng gia đình Tại đây, cũng có thể duy trì hoạt động sản xuất các vật kỷ niệm để bán cho khách Với 54 dân tộc và bản sắc văn hóa riêng, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển các mô hình du lịch nông thôn phong phú, đồng thời có thể tham khảo kinh nghiệm từ Hàn Quốc để xây dựng những mô hình du lịch nông nghiệp hấp dẫn.
Du lịch nông thôn tại Hàn Quốc bắt đầu từ năm 1984 với dự án Khám phá làng nông thôn truyền thống, do Cơ quan Phát triển Nông thôn Hàn Quốc (RDA) thực hiện thí điểm tại 141 làng Mục tiêu chính của dự án là thu hút người dân thành phố đến khám phá cuộc sống nông thôn, nơi các ngôi làng thường có quy mô nhỏ với chỉ 30 - 50 hộ gia đình.
Dự án hỗ trợ 100 - 150 người tại mỗi làng với khoản đầu tư ban đầu 200.000 USD, chủ yếu cho tiếp thị và quản lý dự án Mỗi làng sẽ tạo trang web giới thiệu nét đặc sắc để thu hút du khách, đồng thời giữ gìn lối sống nông thôn, hạn chế ảnh hưởng của đô thị Không chỉ cơ quan nhà nước, mà các doanh nghiệp tư nhân cũng tích cực tham gia, thường "đỡ đầu" cho một làng với mức đầu tư tối thiểu 300.000 USD Tập đoàn Hyundai hiện đang hỗ trợ 66 làng trên toàn quốc, cử nhân viên về giúp nông dân thu hoạch mùa màng và khuyến khích tiêu thụ nông sản Các nhân viên cũng được khuyến khích đưa gia đình về nông thôn trong chiến dịch “Mỗi công ty - Một làng nông nghiệp”.
Dựa trên kinh nghiệm của Hàn Quốc, Việt Nam có thể rút ra một số bài học quan trọng để phát triển du lịch nông thôn hiệu quả Đầu tiên, cần xây dựng các chương trình phát triển du lịch nông thôn bền vững thông qua sự phối hợp giữa các làng quê, chính quyền, nông dân và doanh nghiệp du lịch, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” Do nông dân không có đủ vốn để đầu tư, việc thu hút doanh nghiệp du lịch là cần thiết, nhưng doanh nghiệp cần được đảm bảo về mặt pháp lý và các chính sách hỗ trợ từ nhà nước Thứ hai, cần có một cơ quan quản lý nhà nước để định hướng và điều phối hoạt động du lịch nông thôn, với các quy định cụ thể cho từng làng và hộ nông dân tham gia Đào tạo kỹ năng cho nông dân về du lịch, quản lý, giao tiếp với khách và các tiêu chuẩn vệ sinh là rất quan trọng Ngoài ra, do quy mô làng Việt Nam lớn hơn Hàn Quốc, cần thí điểm chuyên biệt hóa ở một bộ phận dân cư trước khi mở rộng ra toàn bộ làng để tránh cạnh tranh không lành mạnh.
Khả năng phát triển du lịch nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia với nền văn minh nông nghiệp lâu đời, nơi mà diện tích đất nông nghiệp chiếm hơn 90% tổng diện tích, đóng góp quan trọng vào cơ cấu kinh tế đất nước.
Nông thôn Việt Nam chiếm 70% diện tích và giữ gìn nhiều phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, với địa hình đa dạng như núi đồi, sông suối và biển đảo Vùng quê có những làng cổ kính, cánh đồng phì nhiêu và nét văn hóa truyền thống đặc sắc, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch nông thôn Người Việt Nam với phẩm chất cần cù, nhân hậu và lòng hiếu khách đã tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo Du lịch nông thôn tại Việt Nam, mặc dù mới chỉ phát triển trong vài năm gần đây, đã hình thành 5 hình thức chính: du lịch tự nhiên, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch làng xã và du lịch nông nghiệp, thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế.
Việt Nam, với hơn 80% dân số làm nông nghiệp và nguồn sản vật phong phú như nho, thanh long, sầu riêng, khoai, sắn và lúa gạo, có tiềm năng lớn để phát triển du lịch nông nghiệp Du khách có thể trải nghiệm cuộc sống của người dân địa phương, tham gia vào các hoạt động như cấy lúa và bắt cá Loại hình du lịch này không chỉ thu hút khách quốc tế mà còn cả người dân trong nước, mang lại những bài học bổ ích và thú vị Du lịch nông nghiệp đã xuất hiện tại nhiều địa phương như Sa-Pa, Khánh Hòa, và Cần Thơ, với những mô hình thành công như Khu du lịch “Một thoáng làng nghề” ở Củ Chi và khu du lịch nhà vườn của ông Huỳnh Đức Huệ ở Đồng Nai Ông Huệ đã phát triển khu du lịch sinh thái Làng bưởi Tân Triều, giúp tiêu thụ sản phẩm địa phương và thu hút khách du lịch quanh năm.
Bình Dương và Đồng Nai đã phát huy thế mạnh du lịch sinh thái, đặc biệt trong mùa trái cây từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm Du khách không chỉ tận hưởng không khí trong lành tại các vườn cây trái mà còn thưởng thức nhiều loại trái cây ngon như măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, mít tố nữ và vú sữa Vị trí gần TP.HCM, chỉ cách khoảng 20km, cùng với diện tích cây ăn quả lớn ở miền Đông Nam Bộ, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp du lịch với làng gốm và các xưởng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Mô hình liên kết này mang lại lợi ích kinh tế cho người nông dân trong khu vực.
Mặc dù hoạt động du lịch nông nghiệp đang phát triển, nhưng vẫn còn mang tính tự phát và rời rạc Các dịch vụ và sản phẩm phục vụ loại hình du lịch này không có sự đổi mới qua các năm, dẫn đến sự nhàm chán cho du khách.
Theo một hướng dẫn viên có 15 năm kinh nghiệm, du khách gần đây thường phàn nàn rằng sản phẩm du lịch miền Tây nghèo nàn, thiếu tính đặc trưng và trùng lặp Nhiều người đã trải nghiệm tour một hoặc hai lần cảm thấy không còn gì mới mẻ để khám phá, dẫn đến việc họ không muốn quay lại Các dịch vụ và sản phẩm du lịch nông nghiệp giữa các tỉnh trong vùng dường như cũng khá giống nhau.
Miền Tây nổi tiếng với 5 chợ nổi lớn, nơi người dân sử dụng ghe làm nhà và họp chợ trên sông từ sáng sớm Tại đây, các sản phẩm được "treo gì bán nấy", tạo nên nét đặc trưng riêng cho từng chợ Mặc dù quy mô và sản vật địa phương có sự khác biệt theo mùa, nhưng chỉ cần tham quan một chợ, du khách có thể dễ dàng hình dung ra những chợ khác trong khu vực.
Khi bước từ ghe lên vườn, du khách có thể thưởng thức trà mật ong và các loại trái cây gọt sẵn như đu đủ, chôm chôm, thanh long Tuy nhiên, các vườn cây phục vụ du lịch hiện nay đã trở nên tiêu điều so với 5 năm trước, khi người dân ngần ngại đầu tư do lo lắng về quy hoạch đất đai cho các dự án Các điểm tham quan chỉ còn lại vài căn nhà cổ, trại rắn, cá sấu, đà điểu và các hoạt động như làm bánh tráng, kẹo dừa, nhưng nhiều nơi chỉ là xưởng tạm bợ không phản ánh đúng quy trình sản xuất của nông dân Do đó, sản phẩm du lịch trong vùng đang có dấu hiệu nhàm chán và bão hòa.
Trước thực tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp du lịch đã linh hoạt điều chỉnh phương thức hoạt động và phát triển sản phẩm mới cho du lịch nông nghiệp Họ xác định rằng du lịch nông nghiệp không chỉ đơn thuần là tham quan các cánh đồng xanh, nhìn ngắm gia súc hay vườn rau, mà còn là trải nghiệm cuộc sống hàng ngày gần gũi và thân thuộc với người dân địa phương.
Nhiều công ty du lịch như Saigontourist, Bến Thành Tourist, Vietravel, và Lửa Việt đã phát triển thành công các tour độc đáo như “Tát mương bắt cá”, “Tham quan làng nghề” và “Một ngày làm nông dân Nam bộ” Những tour này mang đến cho du khách cơ hội khám phá bản thân và trải nghiệm những cảm giác mới lạ thông qua việc tham gia vào các hoạt động sinh hoạt và lao động hàng ngày cùng người dân địa phương.
Mặc dù cách làm hiện tại có tính chất thời vụ và nhỏ lẻ, nhưng vẫn chưa có một chiến lược phát triển du lịch nông nghiệp bền vững và lâu dài.
Chương 1 cung cấp cái nhìn tổng quan về du lịch nông nghiệp, bao gồm các khái niệm cơ bản và đặc điểm của loại hình du lịch mới này Nó cũng làm rõ vai trò và lịch sử phát triển của du lịch nông nghiệp trên thế giới và tại Việt Nam Hơn nữa, phát triển du lịch nông nghiệp được xem như một giải pháp hiệu quả để đa dạng hóa sản phẩm du lịch, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch.
Bài viết này xây dựng những lý luận cơ bản nhằm tạo nền tảng cho việc nghiên cứu đề tài một cách khoa học và phong phú Nó cung cấp cơ sở lý thuyết cho các nghiên cứu thực tiễn trong chương 2 và chương 3, đồng thời góp phần vào việc khai thác và bảo tồn các giá trị tài nguyên phục vụ phát triển du lịch nông nghiệp.
TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP TẠI TRANG TRẠI ĐỒNG QUÊ - BA VÌ – HÀ NỘI
Giới thiệu chung về huyện Ba Vì
Huyện Ba Vì đƣợc thành lập ngày 26/7/1968 trên địa bàn các huyện cũ nhƣ Bất Bạt, Tùng Thiện và Quảng Oai của tỉnh Sơn Tây.Vào thời kỳ 1975 –
1978, huyện thuộc tỉnh Hà Sơn Bình Từ năm 1978 đến 1991 thuộc thành phố
Hà Nội Sau đó lại trở về tỉnh Hà Tây và từ ngày 1/8/2008 lại thuộc về thành phố Hà Nội
Ba Vì, huyện nằm ở phía Tây Bắc Hà Nội cách trung tâm 60 km, được biết đến như một vùng đất địa linh nhân kiệt Nơi đây không chỉ sở hữu cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp và hệ sinh thái phong phú mà còn được coi là "lá phổi xanh" của Thủ đô Ba Vì còn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Ba Vì là huyện bán sơn địa với diện tích tự nhiên 428 km², nổi bật với dãy núi Ba Vì trải dài trên 5000 ha ở phía Nam huyện Về phía Đông, Ba Vì giáp thị xã Sơn Tây, trong khi góc Đông Nam giáp huyện Thạch Thất Phía Nam huyện tiếp giáp với các huyện Lương Sơn và Kỳ Sơn của Hòa Bình, còn phía Tây và Bắc giáp thành phố Phú Thọ, được phân cách bởi sông Đà và sông Hồng Cuối cùng, phía Đông huyện giáp Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, với ranh giới là sông Hồng.
Theo thống kê năm 1999, dân số huyện Ba Vì là 242.600 người, gồm các dân tộc: Kinh, Mường Dao…
Trước khi sát nhập vào Hà Nội, toàn huyện Ba Vì có 1 thị trấn và 31 xã Đến ngày 01/08/2008, cũng nhƣ các huyện khác của thành phố Hà Nội, huyện
Ba Vì chính thức là một huyện của Hà Nội Tuy nhiên, trước đó ngày 10 tháng Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 30
Năm 2008, xã Tân Đức thuộc huyện Ba Vì, có diện tích 454,08 ha và dân số 2.701 người, đã được sát nhập vào thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ Sự thay đổi này được thực hiện theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII về điều chỉnh địa giới hành chính giữa thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ.
Hiện tại, Ba Vì có 1 thị trấn là Tây Đằng (huyện lị) và 30 xã: Thái Hòa,
Cổ Đô, Phú Cường, Tản Hồng, Châu Sơn, Vạn Thắng, Phong Vân, Phú Đông, Phú Phương, Phú Châu, Phú Sơn, Đồng Thái, Đông Quang, Chu Minh, Minh Châu, Vật Lại, Cẩm Lĩnh, Tản Lĩnh, Tòng Bạt, Tiền Phong, Cam Thượng, và Thụy là những địa danh nổi bật tại khu vực này, mỗi nơi mang đến những nét văn hóa và lịch sử riêng biệt, thu hút du khách khám phá và trải nghiệm.
An, Ba Trại, Sơn Đà, Thuần Mỹ, Vân Hòa, Yên Bài, Khánh Thƣợng, Minh
Khu vực sườn Đông núi Ba Vì sở hữu thác nước, suối và rừng nguyên sinh tuyệt đẹp, tạo ra tiềm năng lớn cho việc phát triển du lịch sinh thái.
Khu vực sườn Tây núi Ba Vì nổi bật với tiềm năng phát triển du lịch nhờ vào địa thế đẹp, hướng ra sông Đà, tạo sức hấp dẫn riêng Nơi đây tập trung nhiều điểm du lịch hấp dẫn như Ao Vua, Khoang Xanh – Suối Tiên, Vườn Quốc Gia Ba Vì, Hồ Suối Hai và Suối khoáng nóng Thuần Mỹ.
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
Ba Vì không chỉ được thiên nhiên ưu ái với tiềm năng du lịch phong phú mà còn là nơi sinh sống của nhiều dân tộc với văn hóa và phong tục độc đáo Các hoạt động văn hóa như cồng chiêng, hát ru của dân tộc Mường và múa chuông, Tết Nhảy của người Dao tạo nên sự đa dạng cho du lịch Du khách đến Ba Vì sẽ ấn tượng với nhiều di tích văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, đặc biệt là truyền thuyết về Đệ Nhất Phúc Thần Tản Viên, vị thần được tôn kính trong tâm thức người Việt, góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm du lịch tại đây.
Vì là nhắc đến huyền thoại trận đánh thƣ hùng của lịch sử Sơn Tinh- Thủy Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 31
Tinh Mối tình tay ba thời Hùng Vương thứ 18 đã đặt nền móng cho vẻ đẹp truyền thuyết của Ba Vì
Truyền thuyết về vị phúc thần Tản Viên, người cứu sinh và giúp dân trị thủy, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân dân Nhiều đền thờ được xây dựng quanh núi Ba Vì để tưởng nhớ và tri ân ngài Qua thời gian, những câu chuyện và các ngôi đền thờ Tản Viên đã trở thành biểu tượng đặc trưng cho văn hóa tâm linh của xứ Đoài.
Huyện Ba Vì không chỉ nổi tiếng với các khu vực linh thiêng thờ Đức thánh Tản Viên mà còn sở hữu nhiều di tích lịch sử quan trọng như Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, và khu căn cứ kháng chiến Sơn Tây Khu rừng thông Đá Chông và khu tưởng niệm Bác Hồ cũng đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa Quốc Gia Những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho Ba Vì phát triển du lịch tâm linh kết hợp với du lịch sinh thái và tĩnh dưỡng, đặc biệt là tiềm năng phát triển du lịch nông thôn - nông nghiệp.
Huyện Ba Vì có địa hình đa dạng với ba vùng: núi, bán sơn địa và đồng bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các dự án chăn nuôi bò sữa, bò thịt, trồng chè, nuôi trồng thủy sản, cũng như chăn nuôi gia súc và gia cầm Sự phân chia này giúp huyện khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch, với trọng tâm là du lịch nông nghiệp.
Ba Vì, với lợi thế về giao thông đường thủy và đường bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế và văn hóa Khu vực này thu hút nhiều nhà đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch, với sự phát triển mạnh mẽ của các khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Nhiều công ty đã tập trung khai thác các địa điểm tại Ba Vì, biến nơi đây thành điểm đến lý tưởng cho du khách trong và ngoài nước.
Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên báo Kinh tế và Đô thị, ông Bạch Công Tiến, phó chủ tịch UBND huyện Ba Vì, đã chia sẻ thông tin quan trọng về hoạt động và kế hoạch phát triển của huyện.
Ba Vì được xác định là điểm đến lý tưởng cho du lịch sinh thái và tâm linh, cùng với bản sắc văn hóa dân tộc Nếu khai thác hiệu quả những tiềm năng này, Ba Vì có khả năng chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang du lịch và dịch vụ.
Tiềm năng phát triển du lịch của huyện Ba Vì
2.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.2.1.1 Vườn quốc gia Ba Vì
Từ trung tâm Hà Nội, di chuyển về phía Tây khoảng 50km, bạn sẽ thấy ba đỉnh núi Ba Vì hiện lên trong làn mây trắng mỏng, đánh dấu sự bắt đầu của không gian huyền ảo tại Vườn quốc gia Ba Vì.
Vườn quốc gia Ba Vì, được thành lập vào ngày 18 tháng 12 năm 1991 theo Quyết định 407/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đã được giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý từ ngày 01/01/1992.
Tọa độ địa lý: từ 21 độ 01’ đến 21 độ 07’ vĩ độ Bắc và 105 độ 16’ đến
Vườn quốc gia Ba Vì, tọa độ 105 độ 25’ kinh Đông, có diện tích 7.377 ha trong tổng số 14.144 ha, nằm trên địa bàn 7 xã miền núi thuộc huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, bao gồm các xã Minh Quang, Khánh Thượng, Tản Lĩnh, Ba Trại, Ba Vì, Yên Bài và Vân Hòa.
Từ thành phố Sơn Tây, du khách có thể dễ dàng tiếp cận các điểm du lịch nhờ hệ thống đường 87 và 88, đặc biệt là con đường 12km từ chân núi lên đỉnh Ba Vì Khoảng cách 50km từ Hà Nội với giao thông thuận lợi giúp việc di chuyển trở nên nhanh chóng, chỉ mất hơn 1 giờ đi ô tô hoặc xe máy Từ Sơn Tây, du khách chỉ cần di chuyển thêm 15km để đến vườn quốc gia, tạo điều kiện lý tưởng cho chuyến tham quan.
Vườn Quốc gia Ba Vì, với vị trí thuận lợi cho du khách, được đánh giá cao trong việc phát triển du lịch Ba đỉnh núi nổi bật là Đỉnh Vua, Đỉnh Tản Viên và Đỉnh Ngọc Hoa không chỉ cao nhất mà còn gắn liền với nhiều huyền thoại lịch sử Nơi đây vẫn giữ được vẻ đẹp hoang sơ, cuốn hút với màu xanh của núi rừng và những dòng suối trong vắt chảy qua thảm thực vật phong phú Ông Đỗ Hữu Thế, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ du lịch sinh thái, khẳng định giá trị của khu vực này trong việc phát triển du lịch bền vững.
Ba Vì, được mệnh danh là "Lá phổi xanh của Thủ đô", là một khu vực quan trọng với hệ sinh thái phong phú Nơi đây là habitat của hàng trăm loài động vật hoang dã, trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam.
Hệ thực vật tại khu vực này rất đa dạng với 812 loài thực vật bậc cao thuộc 99 họ và 472 chi Đặc biệt, một số loài như cây Mỡ Ba Vì, cây Cau Ba Vì, và cây Lưỡi vàng nàng cò Ba Vì đã được mô tả lần đầu tiên tại đây.
Trong khu vực Ba Vì, có hai loại cây đặc hữu nổi bật là Bời lời Ba Vì và Cà lồ Ba Vì, cùng với nhiều loài cây quý hiếm khác như Bách Xanh, Thông Tre, Vù Hương, Dẻ tùng sọc trắng, Lan kim tuyến, Quyết thân gỗ và Dồi lá bạc.
Nghiên cứu của Trường Đại Học Dược năm 1997 đã phát hiện 250 loài cây dược liệu có khả năng chữa 33 loại bệnh, bao gồm Hoa Tiên, Huyết Đắng, Bát giác Liên, và Râu Hùm Đến nay, tổng số loài cây thuốc đã được thống kê lên tới 503.
Khu vực này có 259 loài động thực vật, trong đó có 45 loài thú Đặc biệt, 9 loài trong số đó được ghi vào sách đỏ Việt Nam, bao gồm Cu li lớn, Chồn bạc má, Gấu ngựa, Cầy vằn, Cầy mức, Sơn dương, Tê tê vàng, Sóc bay và Sóc đen.
Chim có 113 loài, có 40 họ, 17 chi, trong đó có các loài quý hiếm là gà lôi trắng,công, trĩ
Lƣỡng cƣ có 17 loài là ếch gai sần, ếch xanh rama, livida, chàng, ếch vạch, cóc mày chê, cóc mày hạt sen
Côn trùng có 86 loài, 17 họ và 9 bộ
Vườn quôc gia Ba Vì được chia làm hai phân khu chức năng:
Phân khu bảo tồn sinh thái từcốt 400m trở lên
Phân khu phục hồi sinh thái từ cốt 100m đến 400m, còn lại là vùng đệm Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 34
Vùng đệm là nơi sinh sống của 10.125 hộ dân với tổng cộng 46.547 nhân khẩu, bao gồm ba dân tộc: Kinh, Dao và Mường Trong đó, dân tộc Mường chiếm 2.720 hộ với 17.502 người, dân tộc Dao có 300 hộ và 1.676 người Đặc biệt, 80% số hộ dân ở đây hoạt động trong lĩnh vực làm thuốc cổ truyền.
Đỉnh Vua, cao 1.269m so với mực nước biển, yêu cầu du khách phải chinh phục gần 800 bậc đá để tới nơi có đền thờ Bác Hồ Đối diện về phía Tây là đỉnh Tản Viên, cao 1.226m, với 225 bậc đá dẫn đến đền Thượng, nơi tương truyền là điểm hóa của Đức Thánh Tản – Sơn Tinh, một trong “Tứ bất tử” trong tâm linh người Việt Tiếp theo là đỉnh Ngọc Hoa, cao 1.120m, được cho là con gái của Hùng Vương thứ 18.
Vườn quốc gia Ba Vì sở hữu khí hậu mát mẻ với nhiệt độ trung bình năm đạt 23,4 độ C Nhiệt độ tháng 1 khoảng 16,5 độ C, trong khi tháng 7 là 28,7 độ C Với địa hình đồi núi, khí hậu tại đây thay đổi theo độ cao; trên 500m thường có sương mù bao phủ đỉnh núi Ở độ cao 400m, nhiệt độ trung bình là 20,6 độ C và độ ẩm đạt 81,6%.
Xuống núi ở độ cao 800m, du khách sẽ khám phá khu phế tích với nhà thờ, biệt thự nghỉ mát, cô nhi viện và nhà tù thực dân Pháp cổ kính, mang vẻ đẹp hoang sơ Tại độ cao 600m, khu di tích kháng chiến chống Pháp ghi dấu trận đánh lịch sử của Trung đoàn Ba Vì vào ngày 31/12/1951, góp phần quan trọng vào chiến dịch Hòa Bình năm 1952 Với địa hình và khí hậu ưu ái, vườn quốc gia Ba Vì đã trở thành một trong bốn khu du lịch sinh thái nổi tiếng, thu hút hàng chục nghìn lượt khách mỗi năm, nơi du khách có thể tận hưởng không khí trong lành và mát dịu của núi rừng.
Vườn quốc gia Ba Vì là điểm đến lý tưởng cho các loại hình du lịch sinh thái, tâm linh và nghỉ dưỡng, đặc biệt phù hợp cho du lịch cuối tuần nhờ vào hệ sinh thái phong phú và tài nguyên thiên nhiên hiện có.
2.2.1.2 Khu du lịch Ao Vua
Thực trạng khai thác du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê Ba Vì
2.3.1 Giới thiệu về Trang trại Đồng Quê Ba Vì
Trang trại Đồng Quê ra đời từ ý tưởng của TS Ngô Kiều Oanh, một nhà nghiên cứu tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam Bà đã có nhiều năm tìm hiểu về tiềm năng của rừng núi Ba Vì và đóng góp tích cực vào sự phát triển du lịch của khu vực này.
Vào năm 1996, trước nguy cơ ngôi nhà sàn cổ duy nhất của dân tộc Mường tại xã Vân Hòa (Ba Vì) bị dỡ bỏ, TS Ngô Kiều Oanh đã quyết định mua lại ngôi nhà với giá cao để bảo tồn văn hóa dân tộc Mường và đầu tư vào một trang trại trên diện tích hơn 3ha đất đồi Từ đó, ý tưởng xây dựng khu du lịch thiên nhiên gắn liền với làng quê dưới chân núi Ba Vì ra đời Ba Vì được xem là vùng đất tiềm năng cho du lịch sinh thái với cảnh quan vườn rừng, đồi chè, và nương lúa, nổi tiếng với sản phẩm như sữa tươi, mật ong rừng, gà đồi, và nhiều loại cây thuốc nam quý Khu vực còn có nguồn nước khoáng thiên nhiên phong phú, thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái Trang trại Đồng Quê được xây dựng vào đầu năm 2007 và chính thức mở cửa đón du khách từ tháng 8/2008, khi Ba Vì trở thành một phần của Hà Nội.
Trang trại Đồng Quê Ba Vì, chỉ cách trung tâm thành phố Hà Nội 65km, nằm trên một khu đồi xinh đẹp với diện tích gần 20.000m² Nằm trong vùng ngoại thành phía Tây, trang trại sở hữu địa hình nông nghiệp tuyệt đẹp, tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước cổ đại của châu thổ Sông Hồng Từ đây, du khách có thể ngắm nhìn những cánh đồng lúa bậc thang và khung cảnh hùng vĩ của rừng nguyên sinh cùng dãy núi Ba Vì với ba đỉnh cao lần lượt 1100m, 1200m và 1300m.
Trang trại Đồng Quê giữ gìn khu rừng trúc cùng nhiều cây rừng đại thụ nhiệt đới hàng trăm năm tuổi như thị, xoài, và muỗm, cùng với các loại hoa quê được chăm sóc thường xuyên Du khách đến đây không chỉ nghỉ ngơi mà còn tham quan các làng nông nghiệp truyền thống với cảnh quan đẹp và thưởng thức đặc sản thiên nhiên Họ có cơ hội tham gia vào các hoạt động du lịch nông nghiệp mang đậm văn hóa đồng quê Việt Nam như cấy lúa, bắt cá, và trồng rau Trang trại còn có vườn chè và cánh đồng ngô ven sông Hồng, cùng với các buổi giao lưu văn nghệ của hai dân tộc thiểu số Mường và Dao Để phục vụ khách, trang trại có nhà gỗ cổ 5 gian với tiện nghi hiện đại, có thể đón tiếp 30 người qua đêm và hơn 100 người trong ngày, cùng không gian cho các hoạt động ngoài trời.
Trang trại Đồng Quê nổi bật với đặc điểm độc đáo, thu hút du khách muốn khám phá và nghiên cứu về nông nghiệp Để trải nghiệm hoạt động nông dân tại đây, du khách cần đặt tour trước, vì trang trại không tiếp nhận khách vãng lai Văn phòng làm việc của trang trại thuộc công ty chuyên tổ chức các tour tham quan này.
ATC Việt Nam, địa chỉ tại Số 1 Nguyễn Đình Chiểu, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, cung cấp dịch vụ tour du lịch chất lượng Sau khi khách hàng đặt tour, công ty sẽ đưa du khách đến trang trại Đồng Quê để nghỉ ngơi và lưu trú, sau đó tiếp tục tham quan các điểm du lịch hấp dẫn.
Trang trại Đồng Quê Ba Vì thường tổ chức các chương trình tham quan hấp dẫn cho du khách Dưới đây là một số lựa chọn tour mà du khách có thể tham khảo để trải nghiệm tại đây.
Thứ nhất tham quan: Làng Chè Ba Trại
Làng Chè Ba Trại, cách trang trại Đồng Quê 12km, nổi bật với hơn 9 làng chè có nghề truyền thống sản xuất chè khô từ chè búp tươi, với tổng diện tích gần.
Tại khu vực 500 ha, du khách có cơ hội tham gia vào quy trình làm chè khô, bao gồm việc hái chè và sao chè Sau khi thưởng thức trà do chính tay mình chế biến, quý khách có thể đạp xe quanh các vườn chè và khám phá những ngôi nhà đá ong cổ Đến bãi sông Đà, du khách sẽ được chiêm ngưỡng cánh đồng ngô bạt ngàn và cây gạo khổng lồ ven sông, cùng với vẻ đẹp lộng lẫy của dòng sông Đà trong mùa nước cạn và sự hùng vĩ khi mùa nước lũ về Bất kể mùa nào, du khách đều cảm nhận được giá trị của nền văn minh nông nghiệp lúa nước Châu thổ, hình thành qua hàng ngàn năm nhờ các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Lô, sông Thao và sông Đà.
- Các vườn chè bao quanh các khu nhà đá ong
- Vỉa khai thác đá ong cổ
- Sao chế chè thủ công tại một ngôi nhà có nếp sinh hoạt đặc trƣng Bắc Bộ
- Bãi ven sông Đà nên thơ và hùng vĩ với cây gạo cổ thụ lớn nhất Hà Nội
Thứ hai du khách có thể đến Làng Thảo Dược Người Dao Ba Vì
Xã Ba Vì, nằm ở chân núi, chủ yếu là nơi sinh sống của dân tộc Dao, nổi bật với khả năng nhận biết và sử dụng thảo dược tự nhiên để chữa bệnh Với 405 hộ dân, 80% trong số đó làm nghề thuốc nam truyền thống, làng nghề thuốc Nam của người Dao Ba Vì có tiềm năng lớn trong phát triển du lịch Ngoài nghề thuốc, nơi đây còn sở hữu phong cảnh đẹp và nền văn hóa đặc sắc, như trang phục thêu tay sặc sỡ và các lễ hội truyền thống Du khách có thể tham quan các vườn cây thuốc, tìm hiểu về gia phả nôm Dao và mua thảo dược theo yêu cầu Người Dao Ba Vì, với bàn thờ cổ trong từng gia đình, chứng minh nguồn gốc từ Tây Tạng, đã di cư đến núi Ba Vì khoảng 700-800 năm trước và phát triển nghề thuốc nam từ các thảo dược phong phú của vùng núi Họ đã chế biến nhiều bài thuốc nổi tiếng như thuốc tắm đẻ, thuốc chữa bệnh xương khớp, phong thấp, viêm gan, hư thận, dạ dày và đại tràng.
Vào thứ ba, du khách có cơ hội tham quan các trang trại liên kết với Đồng Quê, nơi đã hợp tác với nhiều trang trại nông nghiệp khác Tại đây, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng những con đà điểu và bò sữa mà còn có thể trực tiếp chăm sóc và cho chúng ăn Hơn nữa, họ còn được thưởng thức những sản phẩm do chính tay mình làm ra Dưới đây là danh sách một số trang trại liên kết.
Trang trại Bò sữa: cách trang trại Đồng Quê 2km
Vùng đất Ba Vì nổi tiếng với sản phẩm từ sữa dê và bò, đặc biệt là trang trại Đồng Quê, nơi du khách có thể thăm quan, cho bò ăn và trải nghiệm vắt sữa Trang trại bò sữa, hoạt động từ năm 2001, nuôi khoảng 20 con bò sữa nhập khẩu từ Hà Lan và Úc Sản phẩm sữa bò được thu mua và chế biến thành sữa đóng hộp và sữa chua để bán ra thị trường Ngoài ra, trang trại còn nuôi lợn mán và lợn thường, cùng với các ao cá cho phép du khách câu cá Tại Ba Vì, gia súc được chăm sóc bằng rau cỏ và thức ăn tươi sạch, đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Trang trại Đà Điểu: cách trang trại Đồng Quê 16km
Trang trại Đà Điểu có vị trí gần hồ sen, bắt đầu đi vào hoạt động từ năm
Năm 2006, một trang trại với 8 con đà điểu được mang từ Úc đã ra đời, nơi du khách có thể tham quan và cho đà điểu ăn Bên cạnh trang trại là một vườn ổi rộng lớn, nơi bạn có thể dạo chơi và thưởng thức trái cây vào mùa vụ Trong vườn ổi, các đàn gà được nuôi thả với thức ăn hữu cơ như gạo, ngô, thóc, cho phép du khách tự tay cho gà ăn và thu hoạch trứng gà.
Bạn có thể khám phá nhiều trang trại thú vị khác nhau, bao gồm trang trại dê sữa, cừu và thỏ, trang trại ong, nông trường dứa, cũng như các trang trại cây và hoa quả.
Cuối cùng, bạn có thể ghé thăm Đầm Sen Vườn Vua Hùng bằng cách đi phà Đầm Luận qua dòng sông Đà thơ mộng Tại đây, bạn sẽ được tận hưởng hương sen quyến rũ đặc trưng Với diện tích hơn 89 ha mặt nước, Đầm Sen Vườn Vua Hùng là khu hồ sen lớn nhất trong khu vực Đặc biệt, du khách có thể chèo thuyền thúng và tham gia hoạt động hái sen vào mùa sen nở từ tháng 4 đến tháng 10.