TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI Y TẾ
Một số khái niệm
Từ năm 1999, Bộ Y tế đã ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế số 2575/1999/QĐ-BYT Đến năm 2007, quy chế này được điều chỉnh bằng Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 để phù hợp với tình hình cấp bách hiện nay trong quản lý chất thải y tế.
Chất thải y tế bao gồm các vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được phát sinh từ các cơ sở y tế, trong đó có cả chất thải nguy hại và chất thải thông thường.
Chất thải y tế nguy hại chứa các yếu tố có thể gây hại cho sức khỏe con người và môi trường, bao gồm khả năng lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, và ăn mòn Nếu không được xử lý an toàn, những chất thải này có thể gây ra những tác động nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và môi trường xung quanh.
Quản lý chất thải y tế bao gồm các hoạt động như phân loại, xử lý ban đầu, thu gom, vận chuyển, lưu giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy chất thải y tế Đồng thời, việc kiểm tra và giám sát thực hiện các quy trình này cũng rất quan trọng để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong quản lý chất thải.
Thực trạng quản lý chất thải y tế trên thế giới
Nghiên cứu về chất thải y tế (CTYT) đã được thực hiện rộng rãi trên toàn cầu, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Anh, Mỹ, Nhật Bản và Canada Các nghiên cứu này tập trung vào nhiều khía cạnh, bao gồm tình hình phát sinh và phân loại CTYT, cũng như các biện pháp quản lý như giảm thiểu, tái sử dụng và xử lý chất thải Ngoài ra, chúng còn xem xét tác hại của CTYT đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, bao gồm nguy cơ từ chất thải nhiễm khuẩn và ảnh hưởng của nước thải y tế trong việc lây lan dịch bệnh Các vấn đề liên quan đến y tế công cộng, tổn thương lây nhiễm ở nhân viên y tế, và nguy cơ nhiễm khuẩn ở những người thu gom rác cũng được đề cập, đặc biệt là sự phơi nhiễm với HIV, HBV và HCV.
1.2.1 Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Khối lượng chất thải y tế (CTYT) biến động theo khu vực địa lý và mùa, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như cơ cấu bệnh tật, dịch bệnh, loại và quy mô bệnh viện, cũng như phương pháp và thói quen của nhân viên y tế trong việc khám, chữa bệnh và chăm sóc bệnh nhân.
Bảng 1.1 Chất thải y tế theo giường bệnh trên thế giới [9]
Tuyến bệnh viện Tổng lƣợng CTYT (kg/
CTYT nguy hại (kg/GB)
1.2.2 Phân loại chất thải y tế
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (1992), chất thải y tế (CTYT) ở các nước đang phát triển được phân loại thành nhiều loại khác nhau, bao gồm chất thải không độc hại, chất thải sắc nhọn, chất thải nhiễm khuẩn, chất thải hóa học và dược phẩm, cùng với các chất thải nguy hiểm khác như chất thải phóng xạ và thuốc độc tế bào Tại Mỹ, CTYT được phân thành 8 loại, trong đó có chất thải cách ly, nuôi cấy và dự trữ tác nhân truyền nhiễm, vật sắc nhọn, máu và sản phẩm từ máu, chất thải động vật, vật sắc nhọn không sử dụng, chất thải gây độc tế bào và chất thải phóng xạ.
1.2.3 Quản lý chất thải y tế
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, 18-64% cơ sở y tế chưa thực hiện đúng biện pháp xử lý chất thải Tại các cơ sở này, 12,5% công nhân xử lý chất thải đã gặp phải tai nạn do kim đâm trong quá trình làm việc, dẫn đến nguy cơ phơi nhiễm nghề nghiệp, chủ yếu liên quan đến máu Hơn nữa, khoảng 50% bệnh viện trong khảo sát vận chuyển chất thải y tế qua khu vực bệnh nhân mà không sử dụng xe thùng có nắp đậy, gây ra nguy cơ cao cho sức khỏe cộng đồng.
Theo ông Theo H.Ô-ga-oa, cố vấn Tổ chức Y tế Thế giới về sức khỏe môi trường khu vực Châu Á, nhiều quốc gia đang phát triển chưa kiểm soát tốt chất thải y tế (CTYT) và vẫn xử lý cùng với tất cả các loại chất thải khác Từ những năm 90, các nước như Nhật Bản, Singapore, Australia và New Zealand đã tiên phong trong công tác xử lý CTYT, trong khi Malaysia đã thiết lập hệ thống xử lý rác thải tập trung và riêng biệt cho các bệnh viện ở Boocneo Mặc dù công nghệ xử lý CTYT như đốt rác bằng lò vi sóng đã được áp dụng tại các nước phát triển, nhưng chưa được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển Do đó, các nhà khoa học tại Châu Á đã nghiên cứu và phát triển các phương pháp xử lý chất thải thay thế, như việc Philippines sử dụng thùng rác có nắp đậy, Nhật Bản trang bị thiết bị cọ rửa cho thùng rác kín, và Indonesia nâng cao nhận thức cho các bệnh viện về nguy cơ của CTYT để có biện pháp xử lý phù hợp.
Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Việt Nam
1.3.1 Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Kết quả khảo sát của Vụ Điều trị - Bộ Y tế tại 24 bệnh viện cho thấy tỷ lệ phát sinh chất thải y tế biến đổi đáng kể giữa các tuyến, loại bệnh viện và cơ sở y tế khác nhau.
Trong một bệnh viện đa khoa, các khoa khác nhau phát sinh lượng chất thải rắn y tế khác nhau, với khoa hồi sức cấp cứu, khoa sản và khoa ngoại là những khoa có lượng chất thải lớn nhất.
Bảng 1.2 Lƣợng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
Tổng lƣợng chất thải phát sinh (kg/giường bệnh/ngày)
Tổng lƣợng chất thải y tế nguy hại (kg/giường bệnh/ngày)
Khoa hồi sức cấp cứu
(Nguồn: Quy hoạch quản lý chất thải y tế, Bộ Y tế, 2009)
Bảng 1.3 Lƣợng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
Loại bệnh viện Năm 2005 Năm 2010
Bệnh viện đa khoa trung ƣơng 0,35 0,42
Bệnh viện chuyên khoa trung ƣơng 0,23 - 0,29 0,28 - 0,35
Bệnh viện đa khoa tỉnh 0,29 0,35
Bệnh viện chuyên khoa tỉnh 0,17 - 0,29 0,21 - 0,35
Lượng chất thải rắn y tế phát sinh đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng thu gom và công suất lò đốt Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước về tổng lượng chất thải y tế (CTYT) phát sinh trên toàn quốc cho thấy sự sai lệch đáng kể Cụ thể, nghiên cứu của Nguyễn Huy Nga từ Bộ Y tế ghi nhận 16,5 tấn/ngày, trong khi Lê Doãn Diên đưa ra con số 37,5 tấn/ngày Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam năm 2004, lượng CTYT phát sinh là 57,5 tấn/ngày, và thông tin từ Bộ Xây dựng cũng cho thấy sự khác biệt này.
Theo kết quả khảo sát của Bộ Y tế năm 2001 tại 280 bệnh viện, lượng chất thải y tế (CTYT) phát sinh hàng ngày khoảng 429 tấn, trong đó có khoảng 34 tấn là chất thải nguy hại Sự chênh lệch này xuất phát từ việc một số nghiên cứu tính cả chất thải xây dựng và bùn bể phốt, trong khi các nghiên cứu khác chỉ xem xét lượng CTYT cần thiết cho việc thiêu đốt.
34 tấn/ngày, ƣớc tính tổng lƣợng khoảng 15 triệu tấn/ năm CTYT, trong đó có khoảng 21.000 tấn/ năm CTYT nguy hại [3], [10]
1.3.2 Thành phần và phân loại chất thải y tế
Chất thải y tế được phân loại thành 5 nhóm dựa trên đặc điểm lý học, hóa học, sinh học và tính chất nguy hại, theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế về Quy chế quản lý chất thải y tế.
Chất thải lây nhiễm Chất thải hóa học nguy hại Chất thải phóng xạ
Bình chứa áp suất Chất thải thông thường
Chất thải lây nhiễm: nhóm này gồm các loại chất thải:
Nhóm A (chất thải sắc nhọn) bao gồm các vật liệu có khả năng gây ra vết cắt hoặc chọc thủng, tiềm ẩn nguy cơ nhiễm khuẩn Các loại chất thải này gồm bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các vật sắc nhọn khác được sử dụng trong hoạt động y tế.
Nhóm B bao gồm chất thải lây nhiễm không sắc nhọn, bao gồm các chất thải bị thấm máu và dịch sinh học từ cơ thể, cùng với các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly.
Nhóm C (chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao): Là chất thải phát sinh trong các phòng xét nghiệm nhƣ: bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính bệnh phẩm
Nhóm D (chất thải giải phẫu): Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể người, rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm
Chất thải hóa học nguy hại: Nhóm này gồm các loại chất thải sau:
- Dƣợc phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng
- Chất hóa học nguy hại sử dụng trong y tế
Chất gây độc tế bào bao gồm vỏ chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ tiếp xúc với thuốc độc tế bào và chất tiết từ bệnh nhân đang điều trị bằng hóa trị liệu.
Chất thải chứa kim loại nặng như thủy ngân, cadimi và chì đang trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với môi trường và sức khỏe con người Thủy ngân thường xuất hiện từ các thiết bị y tế như nhiệt kế và huyết áp kế bị vỡ, cũng như từ hoạt động nha khoa Cadimi (Cd) chủ yếu được phát sinh từ pin và ắc quy, trong khi chì có nguồn gốc từ các vật liệu như tấm gỗ bọc chì hoặc vật liệu tráng chì được sử dụng trong các khoa chẩn đoán hình ảnh và xạ trị Việc quản lý và xử lý đúng cách những loại chất thải này là rất cần thiết để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Chất thải phóng xạ bao gồm các dạng rắn, lỏng và khí phát sinh từ hoạt động chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất Danh mục thuốc phóng xạ và hợp chất đánh dấu được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị đã được quy định trong Quyết định số 33/2006/QĐ-BYT ngày 24 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Bình chứa áp suất: Bao gồm bình đựng oxy, CO 2 , bình ga, bình khí dung Các bình này dễ gây cháy, gây nổ khi thiêu đốt
Chất thải thông thường: là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hóa học nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ,bao gồm:
Chất thải sinh hoạt từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly)
Chất thải y tế bao gồm chai lọ thủy tinh, chai huyết thanh, vật liệu nhựa và bột bó trong gãy xương kín Những chất thải này thường không chứa máu, dịch sinh học hay hóa chất nguy hại.
Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật liệu đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim
Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh
1.3.3 Quản lý chất thải y tế Ở nước ta CTYT được quản lý bằng hệ thống các văn bản pháp luật nhƣng việc thực hiện chƣa nghiêm túc theo quy định, hầu hết CTYT ở các bệnh viện chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường Nhiều bệnh viện không có hệ thống thu gom, rác thải không đƣợc phân loại, chôn lấp thủ công hoặc đốt thủ công tại chỗ Thực trạng nhƣ sau [7], [8], [12], [16]:
1.3.3.1.Về quản lý chất thải
Theo kết quả điều tra năm 2002 của Bộ Y tế tại 294 bệnh viện trên toàn quốc, 94,2% bệnh viện đã thực hiện phân loại chất thải y tế (CTYT) tại nguồn, trong khi chỉ có 5,8% chưa thực hiện Các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh và tư nhân thực hiện phân loại CTYT tốt hơn so với bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện ngành Đặc biệt, 93,9% bệnh viện đã tách riêng vật sắc nhọn khỏi CTYT, với nhiều bệnh viện sử dụng chai nhựa và lọ truyền đã qua sử dụng để đựng kim tiêm Tuy nhiên, kiểm tra thực tế cho thấy việc phân loại CTYT ở một số bệnh viện chưa chính xác, làm giảm hiệu quả phân loại chất thải Đáng chú ý, 85% bệnh viện áp dụng mã màu trong việc phân loại, thu gom và vận chuyển chất thải.
Kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh của Đinh Hữu Dung
Nghiên cứu năm 2003 cho thấy tất cả 6 bệnh viện đều phân loại chất thải rắn tại nguồn phát sinh, nhưng chưa có bệnh viện nào thực hiện đúng theo Quy chế của Bộ Y tế, và việc phân loại chủ yếu phụ thuộc vào hình thức xử lý hiện có Kết quả thanh tra của Bộ Y tế năm 2004 tại 175 bệnh viện ở 14 tỉnh, thành phố cho thấy 76% bệnh viện có thùng chứa chất thải, 9,6% có bể chứa, và 43% có nắp đậy hoặc mái che cho bể chứa Chỉ 19,3% bệnh viện để chất thải riêng biệt, 35,5% đảm bảo vệ sinh trong nơi chứa chất thải, trong khi 29% bệnh viện chôn chất thải rắn trong khuôn viên, và 3,2% vừa chôn vừa đốt Hầu hết chất thải rắn không được xử lý trước khi đốt hoặc chôn, và một số bệnh viện có lò đốt nhưng đã cũ kỹ, gây ô nhiễm môi trường.
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế năm 2007 cho thấy bệnh viện Lao phổi và bệnh phổi Trung ƣơng là hai bệnh viện quản lý chất thải tốt nhất tại Hà Nội, tuy nhiên, đoàn kiểm tra phát hiện thiếu thùng chứa đờm của bệnh nhân trong buồng bệnh Tại bệnh viện Việt Đức, tất cả rác thải được chứa chung trong túi rác màu vàng Theo báo cáo năm 2009, năm 2006, tỷ lệ bệnh viện thực hiện phân loại chất thải y tế (CTYT) đạt 95,6% và tỷ lệ thu gom hàng ngày là 90,9% Tuy nhiên, phương tiện thu gom CTYT như túi, thùng đựng chất thải và xe đẩy còn thiếu và chưa đồng bộ, với khoảng 50% các bệnh viện đạt yêu cầu phân loại và thu gom theo quy chế quản lý CTYT.
1.3.3.2.Về xử lý chất thải rắn y tế
Thiêu đốt chất thải rắn y tế
Tác hại và nguy cơ của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng
Chất thải bệnh viện tồn tại dưới ba dạng: rắn, lỏng và khí, và có khả năng chuyển đổi giữa các pha hoặc cố định vào một pha nào đó do các quá trình vật lý, hóa học và sinh học Mặc dù khối lượng chất thải bệnh viện không lớn so với tổng lượng chất thải từ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt, nhưng tính độc hại và nguy hiểm của chúng, đặc biệt là từ rác thải y tế trong quá trình điều trị và phóng xạ, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự phát triển bền vững của con người.
Chất thải y tế chứa vi sinh vật gây bệnh và các chất độc hại như hóa chất, chất gây độc tế bào và chất phóng xạ Các tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể qua vết thương, đường hô hấp do hít phải, hoặc đường tiêu hóa qua ô nhiễm môi trường và tiếp xúc với trung gian như ruồi, muỗi, chuột Tất cả những người tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại, bao gồm cán bộ y tế, nhân viên vệ sinh, người thu gom phế liệu, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân và cư dân gần bệnh viện, đều có nguy cơ bị ảnh hưởng Ước tính có 1kg trong số 4kg rác thải y tế chứa vi khuẩn nguy hiểm.
1.4.1 Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường
Một số nghiên cứu đã cho thấy ô nhiễm môi trường chủ yếu là môi trường nước và không khí [12], [15], [16]
Theo nghiên cứu của Trần Thị Minh Tâm (2006), Bùi Văn đã tiến hành điều tra về quản lý chăm sóc y tế tại một số bệnh viện huyện ngoại thành Hà Nội, nhằm đánh giá hiệu quả và chất lượng dịch vụ y tế tại đây.
Trường, Nguyễn Tất Hà (1998) cho thấy các tiêu chí trong nước thải như COD, BOD5, NH4
Coliform và Fecal coliform đang ở mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, vượt quá tiêu chuẩn cho phép Nghiên cứu của Đào Ngọc Phong và cộng sự (1996) về ô nhiễm môi trường và khả năng lây truyền bệnh từ nước thải bệnh viện tại Hà Nội chỉ ra rằng có sự gia tăng đáng kể các bệnh, đặc biệt là các bệnh đường tiêu hóa, ở những khu dân cư tiếp xúc với nước thải bệnh viện.
Rác thải không được thu dọn kịp thời sẽ trở thành môi trường lý tưởng cho sự phát triển của ruồi, muỗi, chuột và gián, gây ô nhiễm không khí do mùi hôi thối khó chịu Những trung gian truyền bệnh này có thể làm gia tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh nhanh chóng, đặc biệt từ các bệnh viện và cơ sở y tế không được xử lý rác đúng cách.
1.4.2 Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với sức khỏe cộng đồng
1.4.2.1 Nguy cơ và tác động của chất thải nhiễm khuẩn
Chất thải nhiễm khuẩn chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh, với hơn 1.000 loại vi khuẩn, 200 loại virus và nấm đã được xác định có thể gây hại cho sức khỏe con người Những vi sinh vật này có thể xâm nhập vào cơ thể qua các vết xước trên da, niêm mạc, hoặc thông qua đường ăn uống và hô hấp.
Theo báo cáo của tổ chức Bảo vệ môi trường Mỹ, hàng năm có khoảng 162-321 trường hợp nhiễm virus viêm gan B có liên quan đến các cơ sở y tế, trong tổng số 300.000 ca nhiễm virus viêm gan B trên toàn quốc.
Bảng 1.4 Các loại nhiễm khuẩn, tác nhân gây bệnh và đường lây nhiễm [2]
STT Dạng nhiễm khuẩn Tác nhân gây bệnh Chất truyền
1 Nhiễm khẩn đường tiêu hóa
Vi khuẩn tiêu hóa: Vibrio, Cholera, trứng giun
Vi khuẩn lao, virus sởi, cầu khuẩn
Chất tiết đường hô hấp, nước bọt
3 Nhiễm khuẩn mắt Herpes Chất tiết ở mắt
4 Nhiễm khuẩn da Phế cầu khuẩn Mủ
5 Bệnh than Trực khuẩn than Chất tiết qua da
6 AIDS HIV Máu, dịch tiết sinh dục
8 Viêm gan A Virus viêm gan A Phân
9 Viêm gan Bvà C Virus viêm gan B và C Máu và dịch cơ thể
1.4.2.2 Nguy cơ và tác động của vật sắc nhọn
Các vật sắc nhọn, đặc biệt là bơm kim tiêm, không chỉ gây ra vết xước và đâm thủng da mà còn làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn tại các vị trí bị tổn thương Mỗi năm, thế giới sử dụng khoảng 12.000 bơm tiêm, và nếu chúng bị thải ra môi trường, sẽ rất nguy hiểm Ước tính có từ 8-16 triệu người mắc viêm gan B, 2,3-4,7 triệu người mắc viêm gan C và 8.000-16.000 người nhiễm HIV do tái sử dụng bơm kim tiêm không tiệt trùng Nhân viên y tế, đặc biệt là điều dưỡng, là nhóm có nguy cơ cao nhất do thường xuyên tiếp xúc với các vật sắc nhọn bị nhiễm máu từ bệnh nhân.
Vào tháng 7 năm 1987, hai bác sĩ trẻ thực tập tại Khoa Nhi đã không may nhiễm virus từ các ống tiêm, dẫn đến cái chết do viêm gan B cấp tính Tại Nhật Bản, đã có 570 trường hợp tương tự được ghi nhận.
Khảo sát của các nhà y tế cộng đồng năm 1986 cho thấy, 67,3% nhân viên thu gom rác trong bệnh viện đã gặp phải tổn thương do vật sắc nhọn, trong khi 44,4% nhân viên thu gom rác bên ngoài bệnh viện cũng bị thương khi xử lý chất thải y tế.
1.4.2.3 Nguy cơ và tác động của chất thải hóa học và dƣợc phẩm
Nhiều hóa chất và dược phẩm sử dụng trong cơ sở y tế có tính chất nguy hại như gây độc, dễ cháy và có thể gây sốc phản vệ hoặc độc tính di truyền Những chất này có khả năng gây tổn thương cho người tiếp xúc, từ những người lần đầu cho đến những người thường xuyên tiếp xúc, với các triệu chứng như tổn thương da hoặc bỏng.
Chất thải hóa học và dược phẩm thải vào hệ thống cống rãnh có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sinh học của các bể xử lý nước thải, đặc biệt là khi chúng chứa kháng sinh và kim loại nặng.
Hg, C6H6OH và các chất sát khuẩn khác có thể gây ra nguy cơ mắc bệnh cho các y bác sĩ, điều dưỡng và kỹ thuật viên do tiếp xúc với hóa chất lỏng bay hơi và dạng phun sương Những người làm việc trong lĩnh vực y tế có thể đối mặt với các vấn đề về đường hô hấp và bệnh ngoài da do tiếp xúc thường xuyên với những hóa chất này.
1.4.2.4 Nguy cơ và tác động của chất thải là thuốc gây độc tế bào
Nhân viên y tế tiếp xúc với các chất gây độc tế bào trong quá trình pha thuốc hoặc tiêm thuốc Các thuốc này thường ở dạng vật liệu khô lạnh hoặc bột và yêu cầu phải được pha trộn với dung dịch trước khi sử dụng.
Nghiên cứu trên động vật cho thấy rằng nhiều loại thuốc khi sử dụng ở liều cao có thể gây ra ung thư và đột biến tế bào, một số còn gây quái thai Ngoài ra, nhiều loại thuốc cũng gây ra cảm giác khó chịu và kích thích khi tiếp xúc với da và niêm mạc.
Hiện trạng về rác thải ngành y tế Hải Phòng hiện nay
Thành phố Hải Phòng, với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng và mật độ dân số cao, là trung tâm văn hóa, giáo dục và y tế lớn của cả nước Ngành y tế tại đây phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho cư dân thành phố và các địa phương lân cận Hải Phòng sở hữu gần 30 bệnh viện hạng I, II, III cùng với nhiều phòng khám Tuy nhiên, mỗi ngày, thành phố thải ra khoảng 2,5 – 3 tấn rác thải từ các hoạt động y tế.
Kết quả nghiên cứu của Dương Thị Hương, Đồng Trung Kiên và cộng sự
- Trung tâm Y tế dự phòng Hải Phòng cho thấy:
100% cơ sở đều xây dựng gần khu dân cư, có tường rào riêng biệt
5% cơ sở có diện tích chật hẹp < 100m 2
50% cơ sở dành phần lớn diện tích khu đất dùng cho xây dựng
62,5,% cơ sở tỷ lệ diện tích cây xanh/diện tích khu đất là dưới 25%
Tỷ lệ sử dụng giường bệnh thấp ở bệnh viện hạng III(100%)
Hầu hết các cơ sở y tế hiện nay chưa được trang bị đầy đủ túi và hộp chứa đạt tiêu chuẩn cho việc phân loại rác lâm sàng Thay vào đó, họ chỉ sử dụng túi nhựa sinh hoạt để chứa rác đã phân loại, dẫn đến tình trạng cung cấp túi không đủ và không thường xuyên.
Rác đã phân loại tâp trung cùng rác sinh hoạt tại ga rác chung của đơn vị, không có xử lý riêng
Khoảng 12,5% cơ sở y tế sử dụng phóng xạ trong điều trị, như Co-60 và I-131, nhưng vẫn chưa thực hiện kiểm tra về thời gian bán rã Ngoài ra, các cơ sở này cũng chưa có hệ thống xử lý chất thải lỏng sau khi điều trị phóng xạ và hóa chất dư thừa.
Một số phương pháp xử lý, tiêu hủy chất thải y tế
Có nhiều phương pháp xử lý và tiêu hủy chất thải y tế, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng Việc lựa chọn phương pháp phù hợp phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện của từng quốc gia, địa phương cũng như các cơ sở y tế.
Xử lý bằng hóa chất
Hóa chất như Clo và Hypoclorite thường được sử dụng để xử lý chất thải y tế ở các nước đang phát triển Trước khi xử lý, chất thải cần được nghiền và cắt nhỏ để giảm thiểu nguy cơ tái sử dụng không an toàn, đặc biệt là với bơm tiêm Tuy nhiên, khả năng xử lý kim tiêm bằng hóa chất là rất hạn chế, vì chỉ có dịch ở đầu kim có thể phản ứng với hóa chất, trong khi sự khuếch tán hóa chất vào bên trong kim diễn ra chậm Do đó, việc xử lý chất thải lây nhiễm bằng hóa chất không được coi là một biện pháp bảo vệ đáng tin cậy.
Xử lý bằng nhiệt ẩm
Phương pháp tiệt khuẩn dụng cụ phẫu thuật và xét nghiệm yêu cầu kiến thức chuyên môn Để xử lý kim tiêm hiệu quả, cần nghiền hoặc cắt bỏ chúng trước Ngoài ra, nhiệt độ cần duy trì ở mức 160°C trong thời gian đủ dài để đảm bảo tiệt trùng.
Xử lý bằng vi sóng
Tại Mỹ, có hai loại lò vi sóng được sử dụng: lò vi sóng cho phòng thí nghiệm với lượng chất thải nhỏ và hệ thống vi sóng lớn cho chất thải lớn Các lò lớn này thường kết hợp nhiều phương pháp như nghiền, phun hơi nước và chiếu xạ vi sóng Tuy nhiên, phương pháp này không thích hợp cho các vật lớn bằng kim loại.
Quá trình tẩy uế bằng tia X-quang và tia Gamma đã chứng minh hiệu quả cao, tuy nhiên, để tối ưu hóa độ tẩy uế, cần nghiền nát và cắt bỏ vật liệu Phương pháp này ít gây ô nhiễm hơn so với xử lý bằng hóa chất hay nhiệt, nhưng chi phí cho xử lý bằng bức xạ thường cao hơn Xử lý bằng bức xạ là công nghệ cao và yêu cầu kỹ thuật phức tạp, do đó không nên áp dụng ở những nơi thiếu thợ máy có chuyên môn và khó khăn trong việc thay thế phụ tùng.
1.6.2 Chôn lấp chất thải rắn y tế
Chôn lấp chất thải tại bãi chôn lấp của thành phố
Trong trường hợp không có điều kiện xử lý chất thải y tế nguy hại, cần thiết phải có một khu vực riêng biệt tại bãi chôn lấp thành phố để xử lý loại chất thải này Khu vực này phải được thiết kế để hạn chế tiếp cận từ người và động vật, và việc chôn lấp cần phải được thực hiện nhanh chóng Đồng thời, cần đầu tư vào các phương pháp xử lý chất thải hiệu quả hơn.
Chôn lấp chất thải trong khuôn viên bệnh viện
Phương pháp này chỉ được áp dụng đối với các bệnh viện vùng sâu, vùng xa và cũng chỉ là phương pháp tạm thời
Phương pháp xử lý chất thải này bao gồm việc cho chất thải vào thùng kim loại hoặc thùng nhựa, đầy đến 3/4 túi, sau đó thêm bọt nhựa, cát bitum, vữa xi măng hoặc chất liệu đất sét Sau khi hỗn hợp đã khô, thùng sẽ được gắn kín và chôn lấp để hạn chế sự tiếp xúc và phát tán của chất thải.
Phương pháp này có thể áp dụng đối với vật sắc nhọn, hóa chất, thuốc…
1.6.3 Thiêu đốt chất thải rắn y tế
Thiêu đốt là phương pháp xử lý rác thải y tế phổ biến hiện nay, đặc biệt tại các nước phát triển, nơi lò đốt được kết hợp với hệ thống xử lý khí thải Quá trình này diễn ra ở nhiệt độ cao, oxy hóa chất thải thành các hợp chất không độc hại cho môi trường, đồng thời là giải pháp cuối cùng cho rác thải y tế nguy hại không thể tái chế hoặc lưu giữ an toàn Đốt chất thải giúp giảm khối lượng, giảm độc tính, thu hồi năng lượng và xử lý khối lượng lớn chất thải Tro sau khi đốt sẽ được chôn lấp an toàn.
Nhược điểm chủ yếu của phương pháp này là:
Quá trình đốt có thể tạo ra một số chất ô nhiễm không khí như HCl, SO2, CO, NOx, kim loại nặng và bụi, gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người.
Vận hành dây chuyền phức tạp yêu cầu kỹ năng kỹ thuật và tay nghề cao, đồng thời đòi hỏi một khoản đầu tư lớn Chi phí tiêu hao năng lượng và chi phí xử lý cũng rất cao Bên cạnh đó, cần lưu ý đến những tiềm năng tác động tiêu cực đến con người và môi trường trong quá trình vận hành.
HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT TIỆP
BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT TIỆP
2.1.Tổng quan về bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, thành lập năm 1959, là trung tâm khám chữa bệnh lớn nhất tại thành phố Hải Phòng và khu vực miền Duyên hải Đây cũng là nơi học tập và thực hành cho sinh viên của Trường Đại học Hải Phòng, Học viện Quân y, Trường Cao đẳng kỹ thuật y tế Trung ương I Hải Dương và Trường Trung học Y tế Hải Phòng Ngoài ra, bệnh viện còn đóng vai trò là trung tâm nghiên cứu khoa học và phát triển kỹ thuật y tế chuyên sâu cho vùng Duyên hải và ngành y tế Hải Phòng.
Bệnh viện Việt Tiệp nằm trên địa bàn thành phố Hải Phòng với diện tích 44.225m 2
- Phía Đông Nam giáp với đường Hai Bà Trưng
- Phía Tây Nam giáp với đường Trần Nguyên Hãn và khu dân cư
- Phía Tây Bắc giáp với đường Nguyễn Đức Cảnh
- Phía Đông Bắc giáp với khu trại giam [1]
Bệnh viện Việt Tiệp là bệnh viện cấp thành phố nên hiệu suất giường bệnh lớn, có 950 giường theo kế hoạch nhưng thường xuyên phải tiếp nhận trên
Bệnh viện hiện đang tiếp nhận 1050 bệnh nhân nội trú và từ 2.000 - 3.000 lượt người đến khám chữa bệnh hàng ngày, bao gồm cả cán bộ nhân viên, sinh viên, học sinh thực tập và người thăm nuôi Điều này dẫn đến sự gia tăng lượng chất thải phát sinh, bao gồm chất thải nguy hại và chất thải sinh hoạt Ngoài ra, bệnh viện còn phát thải các hóa chất, chất phóng xạ, tia xạ, tiếng ồn và có nguy cơ lây nhiễm chéo cao Với vị trí nằm trong khu vực dân cư có mật độ dân số cao, nguy cơ lây nhiễm bệnh ra cộng đồng xung quanh bệnh viện là rất lớn.
2.1.2 Khung hành chính của bệnh viện
Bảng 2.1.Thông tin về tổ chức hành chính
Chỉ số Đơn vị Số lƣợng
Tổng số cán bộ công nhân viên CBCNV 1126
Số điều dƣỡng viên ĐDV 532
Số khoa, phòng chuyên môn K/P 39
Số khoa, phòng chức năng P 12
Tổng diện tích mặt bằng m 3 44.225
Công suất sử dụng giường bệnh % 112,6%
Số bệnh nhân khám/Bác sĩ/Ngày BN/BS/Ngày 50
Số bệnh nhân điều trị nội trú/Điều dƣỡng viên/Ngày
Bộ máy quản lý của bệnh viện
Hình 2.1 Sơ đồ tổ chức bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng 2.2 Hiện trạng quản chất thải rắn y tế bệnh viện Việt Tiệp
Bệnh viện đa khoa, giống như nhiều cơ sở y tế khác, phát sinh nhiều loại chất thải trong quá trình hoạt động, bao gồm chất thải từ hoạt động khám chữa bệnh, sinh hoạt của bệnh nhân và người nhà cũng như từ cán bộ công nhân viên.
Các loại chất thải này phát sinh từ 3 nguồn chính:
- Chất thải từ hoạt động chuyên môn của bệnh viện
Trong lĩnh vực khoa lâm sàng, việc quản lý các vật dụng như bơm kim tiêm, thuốc thừa, bông, băng, gạc nhiễm máu, và dịch tiết là vô cùng quan trọng Ngoài ra, tổ chức hoại tử, bộ phận cắt bỏ, dụng cụ y tế, nẹp cố định, quần áo nhiễm khuẩn và thuốc hóa chất cũng cần được xử lý đúng cách để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và ngăn ngừa lây nhiễm.
Khoa xét nghiệm: hóa chất, bệnh phẩm…
- Chất thải sinh hoạt từ bệnh nhân: các chất thải sinh hoạt của bệnh nhân đang điều trị
- Chất thải sinh hoạt nói chung: gồm các thức ăn thừa, giấy, lá cây, từ sinh hoạt của tất cả những người ra vào bệnh viện hàng ngày
Khối ngoại Khối nội Các trung tâm
Các phòng chức năng Khối cận lâm sàng
Các nguồn xả thải độc hại chủ yếu là các khoa xét nghiệm, phòng phẫu thuật, thủ thuật…
2.2.2 Số lƣợng chất thải phát sinh tại bệnh viện
Theo thống kê từ phòng kế hoạch, số lượng bệnh nhân thường tăng cao từ tháng 5 đến tháng 10, dẫn đến lượng chất thải của bệnh viện trong năm được thể hiện như sau:
Bảng 2.2 Lượng chất thải rắn y tế thông thường phát sinh theo tháng trong năm 2012
(kg/ngày) CTYT thông thường/GB/ngày
Theo số liệu từ bảng 2.2, lượng chất thải rắn y tế thông thường có xu hướng tăng dần qua các tháng, bắt đầu từ 1483,3 kg trong tháng 1 và đạt 1991,7 kg vào tháng 9 Trung bình, lượng chất thải phát sinh hàng tháng là một chỉ số quan trọng để theo dõi tình hình quản lý chất thải y tế.
- Khối lượng CTYT thông thường là: 1762kg/ngày
- Khối lượng CTYT thông thường/GB/ngày là: 1,647kg/ngày
Bảng 2.3 Lƣợng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh theo tháng trong năm 2012 Tháng CTYT nguy hại (kg/ngày) CTYT nguy hại/GB/ngày
Theo số liệu trong bảng 2.3, lượng chất thải rắn y tế nguy hại có sự biến động theo từng tháng Cụ thể, lượng chất thải này tăng từ 74 kg vào tháng 1 lên 87,5 kg vào tháng 3, sau đó giảm dần xuống còn 72,7 kg vào tháng 6 Vào tháng 7 và tháng 8, lượng chất thải lại tăng lên 76,3 kg, nhưng sau đó giảm xuống 71,7 kg vào tháng 9 Trung bình, lượng phát thải chất thải rắn y tế nguy hại theo tháng được ghi nhận.
- Khối lƣợng CTYT nguy hại là: 77,19 kg/ngày
- Khối lƣợng CTYT nguy hại/GB/ngày là: 0,072kg/ngày
Bảng 2.4 Tỷ lệ CTYT nguy hại và CTYT thông thường theo tháng trong năm 2012 Tháng CTYT thông thường/CTYT (%) CTYTNH/CTYT (%)
Qua bảng số liệu 2.2 và 2.3 kết hợp với bảng 2.4 cho thấy:
Khối lƣợng chất thải y tế trung bình/ngày là: 1839,19kg/ngày, trong đó:
- CTYT thông thường chiếm 95,73% so với tổng lượng chất thải y tế
- CTYT nguy hại chiếm 4,27% so với tổng lƣợng chất thải y tế
2.2.3 Công tác phân loại, thu gom,vận chuyển, lưu giữ, xử lý chất thải rắn
Phân loại chất thải ngay tại nguồn phát sinh
Quy trình phân loại chất thải y tế nguy hại và chất thải sinh hoạt tại Bệnh viện Đa khoa Việt Tiệp được thực hiện theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT Tại mỗi khoa, phòng, chất thải được phân loại và chứa trong 4 loại túi với màu sắc quy định cụ thể.
Túi màu vàng đựng chất thải lây nhiễm
Túi màu đen đựng chất thải hóa học nguy hại và chất thải phóng xạ
Túi màu xanh đựng chất thải thông thường và các bình áp suất nhỏ
Túi màu trắng đựng chất thải tái chế
Bệnh viện đã thực hiện phân loại chất thải y tế (CTYT) tại nguồn, chia thành các nhóm: chất thải lây nhiễm, chất thải thông thường, chất thải hóa học nguy hại, chất thải phóng xạ và chất thải tái chế Đặc biệt, chất thải tái chế được tách riêng khỏi chất thải thông thường, trong khi chất thải sắc nhọn được phân loại riêng biệt từ chất thải lây nhiễm Quy trình phân loại này được kiểm tra giám sát hàng ngày bằng công cụ bảng kiểm.
Bảng 2.5 Kết quả kiểm tra về phân loại chất thải rắn y tế tại các khoa phòng (phụ lục 1)
STT Nội dung kiểm tra Phương pháp đánh giá
1 CTR y tế đƣợc phân loại ngay tại nơi phát sinh Đạt 100% Đạt 50-