1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn đánh giá hiện trạng môi trường nước hệ thống sông tô lịch hà nội

59 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Văn Đánh Giá Hiện Trạng Môi Trường Nước Hệ Thống Sông Tô Lịch Hà Nội
Tác giả Nguyễn Thị Hà
Người hướng dẫn Thạc Sỹ Phạm Thị Mai Vân
Trường học Đại học Dân Lập Hải Phòng
Chuyên ngành Kỹ Thuật Môi Trường
Thể loại khóa luận
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hải Phòng
Định dạng
Số trang 59
Dung lượng 2,55 MB

Cấu trúc

  • Hinh 3.3. Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm dầu mỡ sông Tô Lịch (0)
  • PHẦN I. MỞ ĐẦU (7)
  • PHẦN II CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ Ô NHIỄM NƯỚC (9)
    • 2.1. Một số khái niệm. [3] (9)
    • 2.2. Nguồn gây ô nhiễm nước. [1] (9)
    • 2.3. Một số thông số đánh giá chất lượng nước mặt. [2] (12)
    • 2.4. Thực trạng môi trường nước của một số sông trên Thế Giới và Việt Nam (14)
      • 2.4.1. Trên Thế Giới (14)
      • 2.4.2. Ở Việt Nam [5] (19)
  • CHƯƠNG II. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TP HÀ NỘI (23)
    • 2.1. Điều kiện tự nhiên. [4] (23)
    • 2.2. Điều kiện kinh tế. [4] (26)
      • 2.2.1. Công nghiệp (26)
      • 2.2.2. Dịch vụ (26)
    • 2.3. Điều kiện về xã hội. [7] (27)
      • 2.3.1. Giáo dục - đào tạo (27)
      • 2.3.2. Y tế (28)
  • CHƯƠNG III. HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC HỆ THỐNG SÔNG TÔ LỊCH (30)
    • 3.1. Chất lượng nước sông Tô Lịch (30)
    • 3.2. Chất lượng nước sông Kim Ngưu (36)
    • 3.3. Chất lượng nước sông Lừ (42)
    • 3.4. Chất lượng nước sông Sét (46)
  • CHƯƠNG IV. BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU (55)
    • 1. Giải pháp chính sách quản lý (55)
    • 2. Giải pháp công nghệ (56)
    • 3. Giải pháp cộng đồng (57)
    • PHẦN 3 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ (0)
      • 1. Kết luận (58)
      • 2. Đề nghị (58)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (59)

Nội dung

CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ Ô NHIỄM NƯỚC

Một số khái niệm [3]

Nước mặt là nguồn nước tự nhiên có trong sông, hồ và các khu vực đất ngập nước Nguồn nước này được bổ sung từ lượng mưa và mất đi khi chảy ra biển, bốc hơi hoặc thấm xuống đất.

 Ô nhiễm nước: Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý-hoá học

Ô nhiễm nước là một vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sinh học của nước và làm giảm độ đa dạng sinh vật Sự xuất hiện của các chất lạ trong nước, cả ở thể lỏng và rắn, khiến nguồn nước trở nên độc hại đối với con người và sinh vật So với ô nhiễm đất, ô nhiễm nước có tốc độ lan truyền nhanh hơn và quy mô ảnh hưởng rộng lớn hơn Hiện tượng này xảy ra khi nước bề mặt chảy qua rác thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp và các chất ô nhiễm trên mặt đất, sau đó thấm xuống nguồn nước ngầm.

Nguồn gây ô nhiễm nước [1]

Ô nhiễm nước chủ yếu xảy ra do sự phú dưỡng tại các khu vực nước ngọt và vùng ven biển, dẫn đến lượng muối khoáng và chất hữu cơ dư thừa Điều này khiến quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hóa, dẫn đến giảm đột ngột hàm lượng oxy, tăng khí độc và độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực.

Ô nhiễm nước xảy ra do nhiều nguyên nhân, bao gồm mưa, tuyết tan, lũ lụt, và gió bão, khi chúng mang theo chất bẩn vào nguồn nước Các sản phẩm từ hoạt động sống của sinh vật, như xác chết và cây cối, cũng bị phân hủy thành chất hữu cơ, một phần trong số đó ngấm vào lòng đất và gây ô nhiễm nước ngầm Lũ lụt làm nước mất đi sự trong sạch, khuấy động chất bẩn trong cống rãnh và mang theo chất thải độc hại từ các khu vực đổ rác Nước lụt có thể bị ô nhiễm bởi hóa chất nông nghiệp, công nghiệp, và các tác nhân độc hại từ khu phế thải Mặc dù ô nhiễm nước do các yếu tố tự nhiên như núi lửa và bão có thể nghiêm trọng, nhưng chúng không phải là nguyên nhân chính gây suy thoái chất lượng nước toàn cầu.

Nước thải sinh hoạt là loại nước thải phát sinh từ các hộ gia đình, bệnh viện, khách sạn và trường học, chứa đựng các chất thải từ hoạt động sinh hoạt và vệ sinh của con người.

Nước thải sinh hoạt chủ yếu bao gồm các chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học như cacbohydrat, protein và dầu mỡ, cùng với các chất dinh dưỡng như photpho và nitơ, chất rắn và vi trùng Lượng nước thải và tải lượng chất thải của mỗi người trong một ngày thay đổi tùy theo mức sống và lối sống Thông thường, mức sống càng cao thì lượng nước thải và tải lượng chất thải cũng tăng lên.

 Từ hoạt động công nghiệp

Nước thải công nghiệp là loại nước thải phát sinh từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận tải, với thành phần không đồng nhất tùy thuộc vào ngành sản xuất Chẳng hạn, nước thải từ xí nghiệp chế biến thực phẩm chứa nhiều chất hữu cơ, trong khi nước thải từ ngành thuộc da có thêm kim loại nặng và sulfua Nhiều khu chế xuất hiện nay chưa có hệ thống xử lý nước thải và khí thải, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường xung quanh, đặc biệt là nguồn nước, do hàm lượng chất hữu cơ và kim loại nặng trong nước thải được xả thải trực tiếp.

Nước thải bệnh viện bao gồm nước thải phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau như phòng phẫu thuật, phòng xét nghiệm, phòng thí nghiệm, nhà vệ sinh, khu giặt là, cũng như từ việc rửa thực phẩm và bát đĩa Ngoài ra, nước thải còn đến từ hoạt động sinh hoạt của bệnh nhân, người nuôi bệnh và cán bộ nhân viên trong bệnh viện.

- Các vi sinh vật, vi khuẩn, vi rút đƣợc thải ra từ các bệnh nhân

- Các chất kháng sinh và các dƣợc chất, kể cả các chất phóng xạ (dùng trong chẩn đoán và điều trị)

Các bệnh viện thải ra nhiều hóa chất và kim loại trong quá trình hoạt động, bao gồm hóa chất dùng trong xét nghiệm và các kim loại có trong thiết bị y tế Việc quản lý và xử lý những chất thải này là rất quan trọng để đảm bảo an toàn cho môi trường và sức khỏe cộng đồng.

- Nước thải sinh hoạt của bệnh nhân, cán bộ nhân viên trong BV

 Từ hoạt động sản xuất nông nghiệp

Các hoạt động chăn nuôi gia súc và sản xuất nông nghiệp, như việc thải phân, nước tiểu gia súc và thức ăn thừa không qua xử lý, cùng với việc sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón chứa hóa chất độc hại từ các ruộng lúa, vườn cây, rau, có nguy cơ cao gây ô nhiễm nguồn nước ngầm và nước mặt.

Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, nông dân thường sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) gấp ba lần liều khuyến cáo và còn sử dụng cả những loại thuốc trừ sâu đã bị cấm như Aldrin, Thiodol, Monitor Hầu hết nông dân không có kho bảo quản thuốc đúng cách, dẫn đến việc thuốc được cất giữ ở nhiều nơi không an toàn, bao gồm cả gần nhà ăn và giếng nước Vỏ chai thuốc sau khi sử dụng thường bị vứt bỏ ra ngoài ruộng, tạo ra chất thải rắn khó phân huỷ Việc sử dụng thuốc trừ sâu có thể gây tồn lưu trong đất và ngấm vào nguồn nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh vật và sức khỏe con người.

 Trong nuôi trồng thuỷ hải sản

Việt Nam sở hữu bờ biển dài và điều kiện thuận lợi cho ngành nuôi trồng thủy hải sản, nhưng cũng đối mặt với vấn đề ô nhiễm nguồn nước do hoạt động này Chất thải từ nuôi trồng thủy sản, bao gồm thức ăn thừa, hóa chất, thuốc kháng sinh và khoáng chất, gây ra ô nhiễm nghiêm trọng Các chất thải này có thể chứa tới 45% Nitrogen và 22% là các chất hữu cơ, tạo ra nguy cơ ô nhiễm môi trường và phát sinh dịch bệnh thủy sản trong nước.

Một số thông số đánh giá chất lượng nước mặt [2]

 Các chỉ tiêu hóa lý:

Nước tinh khiết là chất lỏng không màu, không mùi và không vị Sự xuất hiện của màu sắc, mùi vị trong nước không chỉ phản ánh sự thay đổi về tính lý học mà còn ảnh hưởng đến cảm quan và thẩm mỹ của người sử dụng Đồng thời, đây cũng là dấu hiệu cho thấy sự biến đổi trong tính chất hóa học và sinh học của nước, chẳng hạn như sự hiện diện của các chất hữu cơ, NH3, H2S, có thể gây ra mùi khó chịu.

Nhiệt độ là yếu tố sinh thái quan trọng, và sự gia tăng nhiệt độ quá cao hoặc quá nhanh có thể gây tác động tiêu cực đến hệ sinh thái Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến những mắt xích nhạy cảm như loài hẹp nhiệt, con non, ấu trùng, trứng và cơ quan sinh sản.

pH là chỉ số thể hiện độ axit hoặc kiềm của nước Trong tự nhiên, nước thường có giá trị pH khoảng 6-6,5; nhiều loài sinh vật thủy sinh không thể tồn tại trong môi trường có pH quá cao hoặc quá thấp.

 Độ đục, độ trong, chất rắn lơ lửng (SS)

Độ đục là thông số vật lý thể hiện sự hiện diện của các hạt lơ lửng và phù du thực vật, làm cản trở ánh sáng xuyên qua Độ đục cao và độ trong thấp không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến cảm quan và thẩm mỹ mà còn làm giảm giá trị sử dụng của nước.

Độ bão hòa oxy hòa tan (DO) trong nước sạch phụ thuộc vào nhiệt độ và áp suất, với giá trị đạt 14,6 mg/l ở 0°C và 1 atm Thông thường, DO chỉ đạt từ 8-10 mg/l, nhưng trong điều kiện quang hợp mạnh, nó có thể lên tới 200% (siêu bão hòa) Hai nguồn cung cấp oxy chính cho thủy vực là quang hợp từ thực vật và tảo ở tầng mặt, cùng với sự trao đổi oxy với khí quyển Hai quá trình tiêu thụ oxy chủ yếu là hô hấp và phân hủy chất hữu cơ, diễn ra liên tục Sự phân bố DO trong nước không đồng đều, và thông qua lượng DO, có thể đánh giá điều kiện môi trường và chất lượng nước.

DO thấp không thuận lợi cho sự sống và quá trình tự làm sạch

 Nhu cầu oxi sinh hoá (BOD)

BOD, hay nhu cầu oxy sinh hóa, là lượng oxy cần thiết để phân hủy các chất hữu cơ trong nước qua quá trình sinh học Thông thường, BOD được đo trong khoảng thời gian 5 ngày đầu tiên.

BOD5 và BOD20 là hai chỉ số quan trọng, trong đó BOD5 chiếm khoảng 70% tổng BOD và BOD20 chiếm từ 95% đến 99% tổng BOD Điều này cho thấy BOD là đại lượng gián tiếp thể hiện mức độ ô nhiễm chất hữu cơ trong nước.

 Nhu cầu oxi hoá học (COD)

COD (Chemical Oxygen Demand) là lượng oxy cần thiết để oxi hóa các chất hữu cơ trong nước bằng phương pháp hóa học, thường sử dụng tác nhân oxi hóa mạnh trong môi trường axit Phản ứng oxi hóa không chỉ diễn ra với chất hữu cơ mà còn với một số chất vô cơ ở dạng khử, do đó COD phản ánh cả chất ô nhiễm hữu cơ và một phần chất vô cơ Kết quả phân tích COD cho thấy lượng chất hữu cơ, bao gồm cả những chất có thể và không thể oxi hóa, dẫn đến chỉ số COD thường lớn hơn BOD.

 Các chỉ tiêu hóa học

Kim loại nặng trong nước là những nguyên tố kim loại có tỷ trọng lớn hơn 5, thường xuất hiện với hàm lượng nhỏ trong tự nhiên nhưng lại có tính độc cao đối với sinh vật và con người Các kim loại nặng phổ biến được nghiên cứu bao gồm As (thạch tín), Pb (chì), Hg (thủy ngân), và Mn (mangan).

Thủy ngân (Hg) là một nguyên tố độc hại, thường được phát tán vào nguồn nước từ các hoạt động khai khoáng, công nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất clo và kiềm Nguyên tố này có thể tồn tại dưới dạng liên kết với các hợp chất hữu cơ hoặc vô cơ Trong môi trường axit, thủy ngân chuyển hóa thành methylmercury (CH3Hg), một chất tan trong nước, dễ dàng tích lũy qua chuỗi thức ăn, gây nguy hiểm cho sinh vật và con người.

As là một nguyên tố có nguồn gốc tự nhiên từ núi lửa, xói mòn do gió, cháy rừng và bụi đại dương, cũng như từ các hoạt động nhân tạo như nấu chảy kim loại, sản xuất thép, đốt chất thải và sản xuất hóa chất Các hợp chất metyl và dimetyl là những dạng phổ biến nhất của As trong nước, với hàm lượng trong nước sạch và nước mưa dao động từ 0,4 đến 1 µg/l As có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe, bao gồm giảm sự ngon miệng, giảm khối lượng cơ thể, hội chứng dạ dày và nguy cơ ung thư.

Nitơ tồn tại dưới nhiều dạng như nitrat, nitrit, amoni và các dạng hữu cơ, là một chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự sống do có mặt trong protein và enzyme Tuy nhiên, nồng độ nitơ cao trong nước có thể dẫn đến phú dưỡng và ô nhiễm môi trường nước, gây ra những tác động tiêu cực đến hệ sinh thái.

Cao trong nước uống có thể gây bệnh xanh xao ở trẻ em, và nồng độ cao của các chất này trong nước uống và thực phẩm làm tăng nguy cơ hình thành nitrosamin, một chất có liên quan đến ung thư.

Các chất tổng hợp và các chất hữu cơ độc hại, như thuốc bảo vệ thực vật (TBVTV), chất tẩy rửa và dầu mỡ, đóng vai trò quan trọng trong việc gây ô nhiễm nước về mặt hóa học.

Các chỉ tiêu sinh học được sử dụng để đánh giá ô nhiễm nước thường dựa vào sự hiện diện của các vi khuẩn chỉ thị, đặc biệt là coliform Những vi khuẩn này tồn tại với số lượng lớn trong phân người và gia súc, dễ dàng xác định và không gây bệnh nguy hiểm cho con người Chỉ số coliform phản ánh tình trạng ô nhiễm nước tự nhiên, giúp nhận diện mức độ ô nhiễm sinh học trong môi trường nước.

Thực trạng môi trường nước của một số sông trên Thế Giới và Việt Nam

Trong thập niên 60, ô nhiễm nước ở cả lục địa và đại dương gia tăng nhanh chóng, phản ánh rõ nét tốc độ phát triển kinh tế của các quốc gia Sự phát triển xã hội đi kèm với nhiều nguy cơ ô nhiễm, cho thấy mối liên hệ giữa tiến bộ kinh tế và vấn đề môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Các đại dương lớn trên thế giới, mặc dù chứa phần lớn lượng nước của trái đất, hiện đang đối mặt với ô nhiễm nghiêm trọng, với mức độ ô nhiễm khác nhau tùy theo từng khu vực Nhiều vùng biển đang bị ảnh hưởng nặng nề, chủ yếu do ô nhiễm từ đất liền và giao thông vận tải biển Ví dụ, bờ biển Barrow, Alaska đã trở thành nơi chứa rác Ô nhiễm nước ngọt cũng đang gia tăng, như trường hợp sông Thames, từng rất sạch vào đầu thế kỷ 19, nhưng đã trở thành ống cống lộ thiên giữa thế kỷ 20 Mặc dù sông Thames đã được cải thiện, các chỉ số về coliform, phosphorus, nitrat và E.coli vẫn vượt quá tiêu chuẩn cho phép Năm 2011, kết quả phân tích ba năm trung bình ở thượng và hạ lưu sông Thames cho thấy tình trạng ô nhiễm vẫn còn đáng lo ngại.

Photphorus dao động trung bình:0,08-0,11 mg/l cao gấp 2,67 - 3,67 lần TCCP

Tổng colifrom cao gấp 6-8,8 lần TCCP

Nitrates dao động trung bình 4,7-5 mg/l, cao gấp 1,6-1,7 lần TCCP

E.coli cao hơn TCCP từ 1,48-1, 6 lần [6]

Ngoài sông Thames, hiện nay thế giới đang đối mặt với tình trạng cạn kiệt nước và ô nhiễm nghiêm trọng của 10 con sông, bao gồm sông Citarum ở Indonesia, sông Hằng tại Ấn Độ, sông Mississippi ở Mỹ, và sông Buriganga tại Bangladesh.

Yamuna, Ấn Độ; Sông Hoàng Hà, Trung Quốc; Sông Marilao, Philippines; Sông Tùng Hoa, Trung Quốc; Sông Sarno, Italy; Sông King, Australia [7]

Sông Citarum, với diện tích 13.000 km², là một trong những dòng sông lớn nhất Indonesia, cung cấp 80% nước sinh hoạt cho 14 triệu dân thủ đô Jakarta Ngoài ra, sông còn tưới cho các cánh đồng, đóng góp 5% sản lượng lúa gạo và cung cấp nước cho hơn 2.000 nhà máy, chiếm 20% sản lượng công nghiệp của đảo quốc này Tuy nhiên, hiện nay Citarum đang trở thành một bãi rác di động, chứa đựng hóa chất độc hại từ các nhà máy, thuốc trừ sâu từ nông nghiệp và chất thải sinh hoạt.

Sông Hằng, Ấn Độ, có lưu vực rộng 907.000 km², là một trong những khu vực phì nhiêu và đông dân nhất thế giới Tuy nhiên, sông Hằng đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do ảnh hưởng của công nghiệp hóa, rác thải công nghiệp và sinh hoạt chưa qua xử lý Điều này đã khiến những người từng tôn thờ dòng nước này giờ đây phải lo sợ Chất lượng nước sông Hằng ngày càng xấu đi, cùng với việc mất khoảng 30-40% lượng nước do các đập thủy điện, đang đẩy con sông vào nguy cơ khô cạn và biến mất.

Sông Hằng đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do phong tục hỏa táng và thả trôi thi thể, cùng với rác thải từ các bệnh viện do thiếu lò đốt Nước sông không chỉ không thể sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt, mà còn không phù hợp cho sản xuất nông nghiệp Nghiên cứu cho thấy nồng độ kim loại độc hại trong nước sông cao, với thủy ngân từ 65-520ppb, chì từ 10-800ppm, crom từ 10-200ppm và nickel từ 10-130ppm.

Sông Tùng Hoa, dài gần 2.000km, chảy qua thành phố Cáp Nhĩ Tân với gần 4 triệu dân và hơn 30 thành phố khác, cung cấp nguồn nước thiết yếu cho cư dân ở các vùng nông thôn lân cận.

Sông Tùng Hoa đã chịu đựng ô nhiễm nghiêm trọng do sự cố nổ tại các nhà máy hóa chất dầu hỏa lớn ở tỉnh Cát Lâm, Bắc Trung Quốc, dẫn đến việc hơn 100 tấn benzene và các chất độc hại khác tràn xuống sông Benzene và Nitrobenzene là những chất gây ung thư ngay cả với liều lượng nhỏ, và khối lượng chất độc này sẽ tiếp tục trôi xuống hạ nguồn, ảnh hưởng đến sông Hắc Long Giang.

Sông Hoàng Hà, con sông dài thứ hai ở Trung Quốc, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho hàng triệu người dân phía Bắc Tuy nhiên, sông hiện đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do sự cố tràn dầu và chất thải công nghiệp Gần đây, một đường ống dẫn dầu của Công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc bị vỡ, dẫn đến việc hơn 1.500 lít dầu tràn vào đất canh tác và một phụ lưu của sông.

Chất thải, đặc biệt là chất thải lỏng, đang trở thành một vấn nạn nghiêm trọng đối với Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh phát triển Việc thải chất thải trực tiếp vào các dòng sông mà không qua xử lý đã gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Theo thời gian, ô nhiễm sông ngòi ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng, đến mức báo động và khó có thể khắc phục Nhiều dòng sông, trước đây là nơi sinh hoạt, tắm rửa, giờ đây đã bị ô nhiễm nặng nề Một số hệ thống sông bị ô nhiễm nghiêm trọng tại Việt Nam hiện nay cần được chú ý.

 Sông Cầu và các phụ lưu qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hải Dương

 Sông Nhuệ, sông Ðáy chảy qua các tỉnh Hòa Bình, TP Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Ðịnh, và Ninh Bình

Sông Đồng Nai và sông Sài Gòn chảy qua nhiều tỉnh thành, bao gồm Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai (Biên Hòa), TP HCM, Bà Rịa-Vũng Tàu, Ninh Thuận và Bình Thuận.

 Tiền Giang và Hậu Giang gồm các tỉnh thuộc ÐBSCL

Sông Cầu không chỉ đối mặt với nguy cơ ô nhiễm mà thực tế đã trở thành một lưu vực hoàn toàn ô nhiễm Khu vực này có khoảng 7 triệu người sinh sống trên một diện tích lớn.

Lưu vực sông Cầu, với diện tích 10 ngàn km², là nơi có khu sản xuất công nghiệp lớn nhất Thái Nguyên cùng với khoảng 800 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và quy mô nhỏ Mỗi năm, lưu vực này thải ra khoảng 40 triệu m³ chất thải lỏng, trong đó Thái Nguyên đóng góp khoảng 24 triệu m³, chứa nhiều kim loại độc hại như Selenium, Mangan, Chì, Thiếc, Thủy Ngân và các hợp chất hữu cơ từ các nhà máy sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật Tại Bắc Ninh, hơn 60 làng nghề truyền thống cùng với ngành chế biến lâm sản và công nghiệp giấy cũng phát thải nhiều hóa chất độc hại, đặc biệt là các chất tẩy trắng chứa clor, gây ra nguy cơ ô nhiễm cao do sản sinh dioxin, một tác nhân gây ung thư Các phụ lưu của sông Cầu cho thấy hầu hết các chỉ số phân tích đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến hơn 50 lần, bao gồm nhu cầu oxy hóa học (COD), lượng oxy hòa tan (DO), tổng cặn lơ lửng (TSS) và nitrite (NO2).

Với chỉ số DO (độ hòa tan oxy) rất thấp, thậm chí dưới 1 đơn vị, cho thấy rằng lưu vực sông Cầu gần như không còn tôm cá sinh sống.

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TP HÀ NỘI

Điều kiện tự nhiên [4]

Nằm trong vùng trung tâm của đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hà nội có vị trí từ 20 0 53’ đến 21 0 23’ vĩ độ bắc và 105 0 44’ đến 106 0 02’ kinh độ Đông

- Phía Bắc giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hòa Bình

- Phía Nam giáp với các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh

- Phía Đông giáp với Hƣng Yên

- Phía Tây giáp Phú Thọ

Sông Hồng là con sông chính của Hà Nội, bắt đầu từ huyện Ba Vì và chảy ra khỏi thành phố tại huyện Phú Xuyên, với chiều dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba tổng chiều dài của nó trên đất Việt Nam Ngoài Sông Hồng, Hà Nội còn có Sông Đà, tạo thành ranh giới với Phú Thọ và hợp lưu với Sông Hồng ở phía Bắc thành phố Bên cạnh đó, nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, và sông Cà Lồ cũng chảy qua Hà Nội Trong khu vực nội thành, các sông nhỏ như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ, và sông Sét đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu thoát nước thải.

Hà Nội nổi bật với nhiều đầm hồ, là dấu tích của các dòng sông cổ Trong khu vực nội thành, hồ Tây là hồ lớn nhất với diện tích khoảng

Hồ Gươm, với diện tích 500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị Hà Nội, nằm ở trung tâm lịch sử và khu vực sầm uất nhất của thành phố Nơi đây được bao quanh bởi nhiều khách sạn và biệt thự, giữ một vị trí đặc biệt trong lòng người dân Ngoài Hồ Gươm, Hà Nội còn nổi tiếng với những hồ khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ, cùng nhiều đầm hồ lớn khác như Kim Liên, Liên Đàm, Ngải Sơn-Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai và Quan.

Từ năm 1990 đến nay, quá trình đô thị hóa tại Hà Nội đã dẫn đến ô nhiễm nghiêm trọng ở hầu hết các sông hồ Sông Tô Lịch, là trục thoát nước thải chính của thành phố, phải tiếp nhận khoảng 150.000 m³ nước thải mỗi ngày, trong khi sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ Ngoài ra, sông Lừ và sông Sét cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³ nước thải hàng ngày, chứa nhiều hóa chất độc hại Các sông mương nội và ngoại thành không chỉ tiêu thoát nước mà còn phải tiếp nhận rác thải từ người dân và chất thải công nghiệp, cùng với sự đóng góp của các làng nghề thủ công, làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm.

Lƣợng mƣa hàng năm trung bình là 1670mm khoảng 90% lƣợng mƣa xảy ra trong mùa mƣa từ tháng 4, 5 và kết thúc tháng 11

Về trữ lượng tài nguyên nước, thành phố Hà Nội được chia làm 2 khu vực:

Khu vực Hà Nội cũ chủ yếu sử dụng nguồn nước dưới đất qua các giếng khoan để phục vụ sinh hoạt và một phần dịch vụ cho người dân Trữ lượng nước mưa đạt 1,34 tỷ m³, trong khi sông Hồng có lưu lượng trung bình 2.650 m³/s và các sông khác tổng lưu lượng khoảng 70 m³/s Nước dưới đất có tiềm năng lưu lượng lên đến 5.914.000 m³/ngày.

- Khu vực Hà Nội phần mở rộng

Theo các số liệu sơ bộ từ Liên đoàn quy hoạch điều tra tài nguyên nước Miền Bắc, tài nguyên nước dưới đất phân bố không đồng đều, với một số khu vực như Thạch Thất và Chương Mỹ thiếu nước, trong khi Thường Tín và Phú Xuyên lại gặp vấn đề với nước bị nhiễm mặn.

Khu vực Hà Nội mở rộng có nhiều sông lớn, bao gồm sông Đà, sông Hồng, sông Đáy, sông Tích, sông Bùi và sông Nhuệ Trong số đó, sông Đà hiện tại và trong tương lai được đánh giá có tiềm năng lớn trong việc cung cấp nước cho thành phố Hà Nội.

Hiện nay, công suất dòng chảy của 4 con sông trong lưu vực sông Tô Lịch đang thay đổi do vị trí và hình dạng của chúng Các sông này có công suất xả từ 1-1,2 năm chu kỳ lặp lại Để đạt được công suất chống úng ngập với chu kỳ 10 năm, việc cải tạo lại sông là cần thiết, và công suất tràn bờ được đánh giá như sau:

- Sông Tô Lịch 10m 3 /s ( thượng lưu ) - 50m 3 /s ( hạ lưu )

- Sông Kim Ngưu: 20m 3 /s ( thượng lưu ) - 40m 3 /s ( hạ lưu)

Bốn con sông trên nhận nước thải từ nhiều kênh thoát nước, với công suất thoát nước hiện tại chỉ đáp ứng dòng chảy nhỏ hơn chu kỳ lặp lại một năm Sự hiện diện của nhiều cầu cống cắt ngang qua các kênh mương dẫn đến diện tích dòng chảy nhỏ, gây ra hiện tượng thắt cổ chai và ảnh hưởng đến sự ổn định của dòng chảy.

Nghiên cứu và đo đạc cho thấy điều kiện dòng chảy của các mương nhỏ ảnh hưởng đáng kể đến lưu lượng thoát nước của các sông mương Cụ thể, dòng chảy nhỏ của sông Tô Lịch tại Đập Thanh Liệt đã được ước tính như sau:

 Dòng chảy nhỏ tại Thanh Liệt là 5 m 3 /s

 Dòng xả do nước cấp là 4,5 m 3 /s

 Dòng chảy tự nhiên (nhỏ) là 0,5 m 3 /s

Khí hậu Hà Nội thuộc vùng Bắc Bộ, đặc trưng bởi khí hậu cận nhiệt đới ẩm với mùa hè nóng và mưa nhiều, trong khi mùa đông lạnh và ít mưa ở đầu mùa, có mưa phùn vào nửa cuối mùa Thành phố nằm ở phía Bắc của vành đai nhiệt đới, nhận được lượng bức xạ Mặt Trời dồi dào và có nhiệt độ cao quanh năm.

Hà Nội có khí hậu đặc trưng với độ ẩm cao và lượng mưa lớn, trung bình 114 ngày mưa mỗi năm Thành phố trải qua hai mùa rõ rệt: mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9 với nhiệt độ trung bình 28,1 °C và mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với nhiệt độ trung bình 18,6 °C Ngoài ra, Hà Nội còn có hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 (mùa xuân) và tháng 10 (mùa thu), tạo nên bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu và đông.

Bảng 2.1 Tổng hợp các số liệu khí tượng thuỷ văn năm 2011 tại trạm khí tượng thủy văn Láng - Hà Nội

Các yếu tố khí tƣợng

Nguồn : Cty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội.

Điều kiện kinh tế [4]

Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị tăng trưởng công nghiệp tại thành phố đạt bình quân 14,1%/năm, trong khi giai đoạn 2006-2010 là 12,1%/năm Ngành công nghiệp chế biến và khu vực ngoài nhà nước ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao nhất.

Trong cơ cấu giá trị gia tăng (GTTT) công nghiệp, ngành chế biến chiếm tỷ trọng cao và đang gia tăng, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài đang phát triển nhanh chóng Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tại thành phố bao gồm bia, sản phẩm dệt may, hóa chất (như phân bón, xà phòng), vật liệu xây dựng, và các sản phẩm cơ khí, điện, điện tử như ô tô, xe máy, xe đạp, động cơ, máy công cụ, và ti vi.

- Thương mại nội địa: Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ giai đoạn

Giai đoạn 2001 - 2005, tăng trưởng bình quân đạt 17,4% mỗi năm Dự báo tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ năm 2010 sẽ đạt 180.527 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 là 26,3% mỗi năm Hệ thống phân phối bao gồm 290 chợ loại 2, 70 trung tâm thương mại và siêu thị (trong đó có 12 hạng 1, 17 hạng 2, 41 hạng 3), cùng gần 200 cửa hàng tiện ích và 418 cửa hàng kinh doanh xăng dầu.

Trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 15,7%/năm, với dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 6.579 triệu USD và tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 ước đạt 17%/năm Đồng thời, tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu trong cùng giai đoạn đạt 22,1%/năm, với dự kiến kim ngạch nhập khẩu năm 2010 là 18.731 triệu USD.

2010 dự kiến đạt 11,9%/năm b) Du lịch

Trong giai đoạn 2000-2005, lượng khách du lịch tăng mạnh với tỷ lệ trung bình 16,8% mỗi năm, trong đó khách nội địa tăng 17,4% và khách quốc tế tăng 13,5%, dẫn đến doanh thu du lịch tăng cao với mức trung bình 23,1% mỗi năm Ngược lại, giai đoạn 2006-2010 chứng kiến sự tăng trưởng rất thấp về số lượng khách du lịch, cả nội địa lẫn quốc tế, mặc dù doanh thu vẫn duy trì đà tăng do ảnh hưởng của yếu tố giá cả.

Điều kiện về xã hội [7]

2.3.1.Giáo dục - đào tạo a) Giáo dục

Hà Nội hiện có 2.375 cơ sở giáo dục với 43.722 nhóm lớp, phục vụ cho 1.337.152 học sinh và 94.500 cán bộ quản lý, giáo viên, công nhân viên, trong đó có 72.646 giáo viên Ngoài ra, thành phố còn có 316 cơ sở giáo dục ngoài công lập với 122.966 học sinh, chiếm tỷ lệ 9,2% theo thống kê giữa năm học.

Trong thời gian qua, ngành Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) của thành phố đã có nhiều nỗ lực và đạt được nhiều kết quả tích cực, bao gồm sự gia tăng nhanh chóng số trường đạt chuẩn quốc gia, đổi mới trong quản lý giáo dục, và cải thiện kỷ cương nền nếp Công tác thi và tuyển sinh được tổ chức an toàn và nghiêm túc, cùng với sự chuyển biến rõ rệt trong xã hội hóa giáo dục, đảm bảo công bằng trong giáo dục Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu này, GD&ĐT Thủ đô vẫn gặp phải một số hạn chế, đặc biệt là tình trạng dạy thêm, học thêm sai quy định chưa được khắc phục triệt để.

Hà Nội hiện có 50 trường Đại học, 29 trường Cao đẳng, 45 trường Trung cấp chuyên nghiệp, cùng với một số trường và học viện thuộc ngành quân đội, công an, và Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, phục vụ khoảng 530 nghìn sinh viên tính đến năm 2010.

Hiện tại, Hà Nội đang quản lý 34 trường Trung cấp chuyên nghiệp, bao gồm 6 trường công lập và 28 trường ngoài công lập, cùng với 1 trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục và 1 trường cao đẳng.

Các trường đại học và cao đẳng tại thành phố cung cấp đa dạng các nhóm ngành chủ yếu như Sư phạm, Kỹ thuật-Công nghệ, Nông-Lâm-Ngư, Khoa học (Tự nhiên, Xã hội và Nhân văn), Kinh tế-Luật, Y-Dược, Thể dục-Thể thao, Văn hóa-Nghệ thuật, Ngoại ngữ và Kinh tế-Kỹ thuật Nhiều trường như Đại học Quốc gia Hà Nội, Bách khoa Hà Nội, Kinh tế Quốc dân và Y Hà Nội đã có lịch sử lâu đời và quy mô đào tạo lớn.

Các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội phân bố rộng rãi trên nhiều quận, huyện như Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Tây Hồ, Hà Đông, Từ Liêm, Gia Lâm, Thanh Trì, Thường Tín, Hoài Đức và Mê Linh Trong số này, quận Cầu Giấy và Đống Đa là nơi có nhiều cơ sở giáo dục nhất.

Hà Nội có nhiều cơ sở y tế, bao gồm bệnh viện, viện nghiên cứu, và các trường cao đẳng, đại học y dược, vừa thực hiện khám chữa bệnh vừa đào tạo nguồn nhân lực cho ngành y tế Trong số 89 cơ sở y tế trên địa bàn, có 18 viện nghiên cứu và trường học, một số còn là trung tâm nghiên cứu quan trọng của cả nước và khu vực Nhờ sự quan tâm của UBND Thành phố và Bộ Y tế, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế tại Hà Nội đã được nâng cấp, góp phần đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân.

Nhiều bệnh viện như Ung Bướu, Thanh Nhàn, Xanh Pôn và Bệnh viện Thận đã được đầu tư nâng cấp hoặc thành lập mới, cùng với sự phát triển của nhiều trạm y tế phường, xã tại khu vực phía Tây Thành phố và các cơ sở y tế khác.

Từ năm 2006 đến nay, đầu tư vào trang thiết bị y tế đã có những chuyển biến rõ rệt, đồng thời bắt nhịp với xu thế phát triển trong khu vực và trên thế giới.

HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC HỆ THỐNG SÔNG TÔ LỊCH

Chất lượng nước sông Tô Lịch

Sông Tô Lịch, dài 13,346 km, chảy qua thủ đô Hà Nội, bắt đầu từ phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy và đổ ra sông Nhuệ tại xã Hữu Hòa, Thanh Trì Đây là con sông dài nhất thành phố, đóng vai trò quan trọng trong việc thoát nước cho khu vực phía Tây Hà Nội, tiếp nhận khoảng 150.000 m³ nước thải mỗi ngày Mặc dù sông đã được kè hai bên và có hoạt động vớt rác, nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn nghiêm trọng do nước thải chưa qua xử lý từ hệ thống cống xung quanh, dẫn đến nước sông có mùi hôi thối và màu đen.

Chất lượng nước sông Tô Lịch được thể hiện dưới bảng kết quả sau:

Bảng 3.1 Chất lượng nước sông Tô Lịch

Cầu Trung Kinh Đập Thanh Liệt

Nguồn: Cty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội, 2012

Hình 3.1 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm hữu cơ trên sông Tô Lịch

Hình 3.2 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm colifrom trên sông Tô Lịch

Hinh 3.3 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm dầu mỡ sông Tô Lịch

Qua bảng 3.1 và đồ thị đánh giá mức độ ô nhiễm nước sông Tô Lịch cho thấy:

Hàm lượng BOD5 và COD trên toàn bộ sông đều vượt quá chỉ tiêu cho phép, với BOD5 đo được dao động từ 50-89 mg/l, cao nhất tại đập Thanh Liệt, vượt quy chuẩn cho phép (QCCP) từ 2-3,56 lần, trung bình vượt 2,27 lần COD ghi nhận trong khoảng 96-173 mg/l, cũng vượt QCCP.

1,92-3.46 lần, COD trung bình vƣợt ngƣỡng cho phép 2,68 lần, cao nhất vẫn là ở đập Thanh Liệt

Sông thường trong tình trạng yếm khí, lượng oxy hoà tan (DO) chỉ đạt từ 1,39-1,81 mg/l nhỏ hơn 2mg/l dù đây là dòng chảy động

Hàm lƣợng Amoni dao động từ 24-43,1mg/l, tại đập Thanh Liệt lên đến 43,1 mg/l, trung bình gấp 30 lần so với ngƣỡng cho phép

F, S2 và các kim loại như As, Fe, Mn đã xuất hiện trong nước sông nhưng vẫn nằm trong giới hạn cho phép

Lượng dầu mỡ trong sông dao động từ 1,69 đến 2,32 mg/l, với mức cao nhất ghi nhận tại đập Thanh Liệt Con số này vượt quá tiêu chuẩn cho phép gấp 7 lần, và váng dầu có thể dễ dàng quan sát dọc theo dòng sông.

Lƣợng Colifrom lên rất cao,vƣợt mức hàng nghìn lần

Nước sông có màu xanh đen, bốc mùi đặc biệt là vào những ngày nắng nóng

Từ các đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm hữu cơ, colifrom, dầu mỡ, ta thấy:

Mức độ ô nhiễm của sông tăng dần từ thượng lưu đến hạ lưu, với sự gia tăng đột ngột tại vị trí đập Thanh Liệt do tiếp nhận nước thải từ sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch Tại hạ lưu cầu Tó, mức độ ô nhiễm giảm do nước được pha loãng giữa sông Tô Lịch và sông Nhuệ Điều này cho thấy sông không có khả năng tự làm sạch và khả năng lắng đọng của các hợp chất không giảm nhiều theo không gian.

Nguyên nhân chính gây ô nhiễm sông Tô Lịch là do sông này tiếp nhận một lượng lớn nước thải từ thành phố Hà Nội Các nguồn nước thải đáng chú ý bao gồm Bệnh viện Lao, Bệnh viện Nhi Thụy Điển, Bệnh viện Phụ Sản và Bệnh viện Giao.

Các nhà máy như Giầy Thượng Đình, Cao Su Sao Vàng, Bóng Đèn, Bia Hà Nội, Nhựa Đại Kim, và Sơn Tổng Hợp đang góp phần vào ô nhiễm môi trường Bên cạnh đó, nguồn nước thải sinh hoạt từ hơn 3 triệu dân nội thành, bao gồm khách sạn, nhà hàng và khu chợ, cũng như các cơ sở sản xuất nhỏ, đã len lỏi qua hệ thống cống thoát nước và đổ ra sông Tô, gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.

Chất lượng nước sông Kim Ngưu

Sông Kim Ngưu dài 11,87 km, là một nhánh của sông Tô Lịch, bắt nguồn từ Cầu Giấy và chảy theo hướng Tây-Đông đến Đội Cấn Tại ô Thụy Chương, sông lại tiếp nhận nước từ Tô Lịch, tiếp tục chảy theo hướng Bắc-Nam, còn được gọi là sông Ngọc Hà, đi qua các khu vực như Ngọc Khánh, Giảng Võ, Hào Nam, ô Chợ Dừa, Xã Đàn, Kim Liên, ô Cầu Dền, ô Đông Mác, Yên Sở và hợp lưu tại Văn Điển Sông Kim Ngưu có các nhánh như sông Trung Liệt, sông Sét và sông Lừ, nhưng hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng giống như sông Tô Lịch.

Bảng 3.2 Chất lượng nước sông Kim Ngưu

HĐBM mg/l 0.1 0.12 0.17 0.09 0.10 0.11 0.50 Phenol mg/l 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.02 Dầu mỡ mG/l 1.56 1.63 2.14 1.67 2.4 1.67 0.3

Nguồn: Cty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội, 2012

Hình 3.4 Đồ thì biểu diễn mức độ ô nhiễm Hữu cơ trên sông Kim Ngưu

Hình 3.5 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm Colifrom trên sông Kim Ngưu

Hình 3.6 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm dầu mỡ sông Kim Ngưu

Từ kết quả phân tích trên, có thể đánh giá chất lượng nước sông Kim Ngưu nhƣ sau:

Cũng như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu bị ô nhiễm nặng, các chỉ tiêu

Các chỉ số BOD5, COD, dầu mỡ và coliform đều vượt quá giới hạn cho phép Cụ thể, BOD5 dao động từ 57-83 mg/l, vượt ngưỡng cho phép từ 2,28-3,32 lần, với mức trung bình vượt 2,97 lần, đặc biệt tại vị trí hạ lưu sông có hàm lượng BOD5 cao nhất Tương tự, COD dao động trong khoảng 101-169 mg/l, cũng cao nhất tại hạ lưu sông, với mức trung bình vượt 2,91 lần so với ngưỡng cho phép.

Hàm lượng Amoni trong sông dao động từ 32,5 đến 43,8 mg/l, với mức thấp nhất ghi nhận tại cầu Mai Động và cao nhất ở mương Thanh Nhàn, đạt 43,8 mg/l Sông luôn trong tình trạng yếm khí và phát ra mùi hôi thối.

Lƣợng oxy hoà tan (DO) thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép, dao động từ 1,12-1,49 mg/l cao nhất là ở mương Thanh Nhàn

Lượng dầu mỡ trên sông hiện đang ở mức cao, dao động từ 1,56-2,4 mg/l, vượt gấp gần 6,15 lần so với tiêu chuẩn cho phép Đồng thời, mức độ ô nhiễm vi sinh vật cũng vượt ngưỡng cho phép hàng nghìn lần, với chỉ số từ 1020-1060, gây ra nguy cơ cao cho nhiều bệnh dịch, đặc biệt là tại vị trí Hoàng Văn Thụ.

Mặc dù trong nước có sự hiện diện của các kim loại nặng, nhưng hàm lượng của chúng vẫn nằm trong giới hạn cho phép và chưa gây ra ô nhiễm.

Nước sông Kim Ngưu đang trong tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng với mùi hôi thối và màu nước đen Dọc theo đoạn sông dài khoảng 3,7 km từ đầu phố Lò Đúc đến cầu Kim Ngưu 2, tình trạng ô nhiễm rõ rệt do nhiều cống nước thải đổ xuống sông, với khoảng cách chỉ 50m lại có một cửa cống Mặc dù dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1 đã thực hiện nạo vét và xây dựng kè, nhưng những nỗ lực này không cải thiện được chất lượng nước Khu vực gần cầu Voi (Mai Động) còn trở thành nơi tập kết rác thải, gây ô nhiễm nặng nề khi người dân mang rác ra chờ thu gom Ngoài ra, nước thải từ các công trình như KĐT Times City, nhà máy dệt 8-3 và bệnh viện Thanh Nhàn cũng đang xả thải ra sông hàng ngày.

Dựa trên đồ thị thể hiện mức độ ô nhiễm không gian của sông Kim Ngưu, có thể nhận thấy rằng hàm lượng ô nhiễm chất hữu cơ, dầu mỡ và coliform tăng dần từ thượng lưu đến hạ lưu.

Hàm lượng ô nhiễm hữu cơ tại mương Thanh Nhàn rất cao, với mức độ giảm dần và tăng lên ở hạ lưu Nguyên nhân chính là do đoạn mương ngắn khoảng 100m, rộng 2-3m nhưng có nhiều cống xả nước thải sinh hoạt, kèm theo tình trạng chưa được cống hóa hoàn toàn, dẫn đến mùi hôi thối và nước đen Đặc biệt, mương này nằm đối diện với bệnh viện Thanh Nhàn, nơi nước thải vẫn chảy ra hàng ngày Ở hạ lưu sông Kim Ngưu, hàm lượng ô nhiễm tăng cao do đoạn cuối không được cải tạo, lượng nước ít và bị lấn chiếm, cùng với việc đổ phế thải xuống lòng sông, khiến khu vực này ngày càng bị thu hẹp.

Ảnh: Mương Thanh Nhàn, đoạn mương chưa được cống hoá hết Ảnh: Rác thải trên sông Kim Ngưu Ảnh: Cống xả nước thải sinh hoạt trên sông Kim Ngưu

(gần Cống Lò Đúc) Ảnh: Chân cầu Kim Ngưu.

Chất lượng nước sông Lừ

Sông Lừ dài 5,242 km, là một nhánh của sông Kim Ngưu, chảy qua các phường Nam Đồng, Trung Tự, Kim Liên, Khương Thượng, Phương Mai và Phương Liên thuộc quận Đống Đa Tại Phương Liên, sông Lừ chia thành hai nhánh: một nhánh chảy về phía Đông đến Giáp Bát và hòa lưu với sông Sét, trong khi nhánh còn lại tiếp tục về phía Nam qua Định Công và hội lưu với sông Tô Lịch gần cầu Dậu, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai Dòng chảy của nhánh hòa lưu với Tô Lịch ngày càng thu hẹp khi gần đến điểm hội lưu.

Sông Lừ đang trong tình trạng ô nhiễm như sông Tô Lịch và Kim Ngưu

Bảng 3.3 Chất lượng nước sông Lừ

Phenol mg/l 0.00 0.00 0.23 0.00 0.29 0.00 0.02 Dầu mỡ mg/l 2.61 2.79 1.61 2.05 2.3 2.67 0.3

Nguồn : Cty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội, 2012

Sự biễn thiên mức độ ô nhiễm trên lưu vực sông Lừ theo không gian được thể hiện trong biểu đồ sau:

Hình 3.7 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm Hữu cơ trên sông Lừ

Hình 3.8 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm Colifrom trên sông Lừ

Hình 3.9 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm dầu mỡ trên sông Lừ

Nghiên cứu cho thấy sông Lừ, cùng với Kim Ngưu và Tô Lịch, đều bị ô nhiễm với các chỉ tiêu BOD 5, COD, dầu mỡ và coliform, trong khi các chỉ tiêu khác vẫn nằm trong giới hạn cho phép.

Hàm lượng BOD5 trong nước dao động từ 68-78 mg/l, với giá trị trung bình là 75 mg/l, vượt quá tiêu chuẩn cho phép gấp 3 lần, đặc biệt cao nhất ở thượng lưu và hạ lưu của sông Trong khi đó, hàm lượng COD ghi nhận từ 128-158 mg/l, trung bình là 145 mg/l, cũng cao gấp 2,9 lần so với tiêu chuẩn quy định.

Hàm lƣợng Amoni biến động từ 26,7-40,8 mg/l, cao gấp từ 26,7-40,8 lần so với TC, trung bình là cao gấp 34,35 lần

Sông đang chịu tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng với lượng oxy hòa tan (DO) luôn dưới 2, cùng với mùi hôi thối nặng nề Lượng dầu mỡ trong sông vượt mức cho phép tới 7,9 lần, trong khi mức độ ô nhiễm vi sinh vật rất cao, với hàm lượng coliform trung bình gấp hàng nghìn lần so với tiêu chuẩn Nước sông luôn có màu đen và bốc mùi hôi thối, không chỉ trong mùa mưa mà cả mùa khô.

Mức độ ô nhiễm hữu cơ tại khu vực thượng lưu mương Chẹm Xã Đàn cao nhất, sau đó giảm dần và tăng trở lại ở hạ lưu cầu Định Công, chủ yếu do lượng nước thải từ các khu chung cư và khu đô thị Đền Lừ Khu vực Định Công cũng chịu ảnh hưởng từ nước thải của bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện Việt Pháp, cùng với việc nhiều hộ dân lấn chiếm lòng mương và xả rác bừa bãi Ngoài ra, một số gia đình còn xả thải trực tiếp từ hệ thống nước thải sinh hoạt vào mương, gây ô nhiễm nặng nề Đối với dầu mỡ, do không hòa tan trong nước, hàm lượng này tăng dần về phía hạ lưu.

Chất lượng nước sông Sét

Sông Sét, dài 5,806 km, là một nhánh của sông Kim Ngưu, tách ra tại Phương Liệt Sông bắt nguồn từ hồ Bảy Mẫu trong Công viên Thống Nhất (quận Hai Bà Trưng), chảy theo hướng Bắc-Nam và đổ vào hồ Yên Sở (quận Hoàng Mai) Trong hành trình qua Giáp Bát, sông nhận nước từ một nhánh của sông Lừ Tuy nhiên, do bùn bồi lắng và sự phát triển xây dựng, bề rộng và độ sâu của sông đã giảm đáng kể, với nhiều đoạn chỉ rộng khoảng 5 m và độ sâu trung bình chỉ hơn 1 m.

Cũng nhƣ 3 sông trên, sông Sét đang bị ô nhiêm nghiêm trọng dù đã đƣợc cống hoá gần hết

Bảng 3.4 Chất lượng nước sông Sét

08:2008 BTNMT (B2) Cầu Khỉ Cầu Sét pH 7.39 7.26 5.5 – 9

Nguồn cty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội, 2012

Hình 3.10 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm Hữu cơ trên sông Sét

Hình 3.11 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm Colifrom trên sông Sét

Hình 3.12 Đồ thị biểu diễn mức độ ô nhiễm dầu mỡ trên sông Sét

Kết quả phân tích chất lượng nước trên sông Sét cho thấy mức độ ô nhiễm rất nghiêm trọng, với hàm lượng BOD5 trung bình vượt 2,86 lần tiêu chuẩn cho phép, COD vượt 2,64 lần, và hàm lượng Amoni cao hơn tiêu chuẩn cho phép đến 30 lần.

Mức độ ô nhiễm vi sinh vật trên sông rất cao, xấp xỉ vƣợt 1000 lần so với tiêu chuẩn cho phép, dầu mỡ vƣợt 7,8 lần so với ngƣỡng cho phép

Hàng ngày, sông Sét tiếp nhận lượng nước thải chủ yếu từ khu dân cư, cùng với nước thải từ các bệnh viện như bệnh viện K và Việt Đức.

Do sông Sét đã bị cống hóa gần hết và vị trí lấy mẫu ít, việc đánh giá ô nhiễm trở nên khó khăn, đặc biệt là khi các mẫu không được lấy từ thượng lưu hay hạ lưu Theo đồ thị, mức độ ô nhiễm hữu cơ tại cầu Sét cao hơn cầu Khỉ, trong khi ô nhiễm coliform và dầu mỡ lại thấp hơn Tuy nhiên, sự chênh lệch ô nhiễm giữa hai cầu không quá lớn Ảnh minh họa cho thấy nước và rác tại cầu Sét, cùng với tình trạng rác thải tại cầu Khỉ, nơi đang trong giai đoạn xây dựng.

Phân tích nước sông Tô Lịch Hà Nội cho thấy nước thải chủ yếu là nước thải sinh hoạt, với ô nhiễm hữu cơ, coliform và dầu mỡ chiếm ưu thế Mặc dù hàm lượng kim loại nặng, florua, sunfua, phenol và xianua nằm trong giới hạn cho phép, mức độ ô nhiễm hữu cơ lại rất nghiêm trọng Cụ thể, hàm lượng BOD và COD cao gấp 2-4 lần tiêu chuẩn quốc gia, coliform vượt hàng trăm đến hàng ngàn lần, và amoni vượt tiêu chuẩn từ 30-40 lần Nước sông trong tình trạng yếm khí với hàm lượng oxy hòa tan thấp hơn nhiều lần so với quy định, trong khi hàm lượng dầu mỡ cũng vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5-7 lần.

Mức độ ô nhiễm của các sông rất khác nhau, có thể thấy rõ điều này qua các đồ thị dưới đây:

Hình 3.13 Đồ thị biểu diễn NH4+ trên toàn bộ hệ thống sông Tô

Hình 3.14 Đồ thị biểu diễn hàm lượng COD trên hệ thống sông Tô

Hình 3.15 Đồ thị biểu diễn hàm lượng BOD5 trên hệ thống sông Tô

Hình 3.16 Đồ thị biểu diễn lượng dầu mỡ trên toàn bộ hệ thống sông Tô

Hình 3.17 Đồ thị biểu diễn hàm lượng colifrom trên toàn bộ hệ thống sông Tô

Qua các đồ thị thể hiện mức độ ô nhiễm của các sông so với tiêu chuẩn cột

B đối với nước mặt theo QCVN 08:2008/BTNMT cho thấy rõ mức độ ô nhiễm nghiêm trọng của nước thải thành phố Hà Nội:

Hàm lượng Amoni trong toàn bộ hệ thống dao động từ 20-45 mg/l, vượt gấp 20-40 lần so với tiêu chuẩn cho phép Mức cao nhất được ghi nhận tại mương Thanh Nhàn thuộc sông Kim Ngưu, trong khi mức thấp nhất xuất hiện ở hạ lưu mương Thụy Khê trên sông Tô Lịch.

Hàm lượng COD của sông Tô Lịch dao động từ 90 mg/l đến 180 mg/l, với mức cao nhất tại đập Thanh Liệt và thấp nhất ở mương Thụy Khê Đồng thời, hàm lượng ô nhiễm BOD5 cũng cho thấy sự chênh lệch, với mức thấp nhất ở hạ lưu mương Thụy Khê và cao nhất tại đập Thanh Liệt Những số liệu này cho thấy sông Tô Lịch có mức ô nhiễm hữu cơ cao hơn so với các sông khác trong hệ thống.

- Dầu mỡ dao động từ 1,5 mg/l-2,7 mg/l thấp nhất ở cống Lò Đúc của sông Kim Ngưu, và cao nhất tại mương Chẹm của sông Lừ

Hàm lượng Coliform trong toàn bộ hệ thống vượt quá ngưỡng cho phép hàng nghìn lần, với mức cao nhất ghi nhận tại cầu Hoàng Văn Thụ trên sông Kim Ngưu.

Mức độ ô nhiễm ở các sông trong hệ thống rất khác nhau, phụ thuộc vào mật độ dân cư và hoạt động của họ cùng với các nhà máy trong khu vực Hệ thống mương sông hở đang chịu mức ô nhiễm vượt xa tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là coliform, gấp hàng nghìn lần, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của người dân, nhất là những người sống ven sông Do đó, cần thiết phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm và xử lý nước thải trước khi thải vào các mương sông hở để bảo vệ môi trường sống cho cộng đồng.

Mức độ ô nhiễm sông không có sự chênh lệch rõ ràng, mà biến thiên chủ yếu trong từng tiểu lưu vực cụ thể Sự khác biệt không gian theo chiều dòng chảy giúp phát hiện các đoạn sông ô nhiễm cao, từ đó tìm ra giải pháp khắc phục và giảm thiểu ô nhiễm hiệu quả.

BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:17

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Dư Ngọc Thành, “ Bài giảng quản lý tài nguyên nước”. Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng quản lý tài nguyên nước
[2] Nguyễn Xuân Cự, Nguyễn Thị Phương Loan, giáo trình “Môi trường và con người”, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Môi trường và con người
Nhà XB: nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
[3] Nguyễn Thị Phương Loan, giáo trình “Tài nguyên nước”. Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội,2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài nguyên nước
Nhà XB: Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội
[7] Theo báo của hội quy hoạch phát triển Đô thị Việt Nam. http://ashui.com/mag/index.php/chuyenmuc/nangluong-moitruong/70-nangluong-moitruong/4147-10-dong-song-can-kiet-nuoc-va-o-nhiem-nhat-tren-the-gioi.html Link
[4] Sở Khoa học và Công nghệ Môi trường Hà Nội: Báo cáo hiện trang môi trường nước Hà Nội 2011 Khác
[5] Viện nghiên cứu môi trường Hà Nội: Báo cáo hiện trạng ô nhiễm môi trường Việt Nam, 2011 Khác
[6] Tài liệu tiếng Anh: To present information on the water quality of the Thames River for 2011 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w