CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
Những vấn đề cơ bản của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trước khi đi vào nội dung chính, cần hiểu rõ về "Doanh nghiệp" theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, định nghĩa doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo pháp luật Kinh doanh bao gồm việc thực hiện liên tục các công đoạn trong quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ, nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều loại hình doanh nghiệp, được phân chia theo quy mô thành doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, cùng với doanh nghiệp siêu nhỏ ở một số quốc gia Việc phân loại này giúp Nhà nước xây dựng các chiến lược và chính sách hợp lý để hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong thời kỳ khó khăn như lạm phát và khủng hoảng tài chính.
Vậy thế nào là doanh nghiệp nhỏ và vừa và nhận biết chúng nhƣ thế nào ?
Ta sẽ đi vào tìm hiểu doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách cụ thể
1.1.1 Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa là tương đối và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể Tiêu chí xác định doanh nghiệp lớn, nhỏ và vừa có thể thay đổi theo bối cảnh và nhu cầu phát triển của mỗi quốc gia.
Theo thống kê của OECD năm 2004, có nhiều tiêu chí khác nhau để xác định quy mô doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DN nhỏ và vừa) Tại Liên minh Châu Âu, DN nhỏ được định nghĩa là doanh nghiệp có từ 10 đến 49 công nhân, doanh thu hàng năm dưới 10 triệu Euro và tổng tài sản nhỏ hơn 10 triệu Euro; trong khi DN vừa có từ 50 đến 249 công nhân, doanh thu dưới 50 triệu Euro và tổng tài sản nhỏ hơn 43 triệu Euro Tuy nhiên, một số nước châu Âu như Hà Lan và Tây Ban Nha không có định chế pháp lý chung cho DN nhỏ và vừa New Zealand áp dụng các tiêu chí như thuế và tiền lương, trong khi Mỹ chủ yếu dựa vào số lượng lao động, trừ ngành sản xuất hàng hóa, nơi doanh thu được sử dụng để phân loại Ở châu Á, như Nhật Bản và Hàn Quốc, tiêu chí xác định quy mô doanh nghiệp cũng dựa vào số lượng nhân công, vốn đầu tư và số hàng hóa bán được.
Bảng 1.1 Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Nhật Bản
Ngành Số lƣợng công nhân
( người) Vốn đầu tư ( triệu Yên)
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DN nhỏ và vừa) được định nghĩa khác nhau tùy theo quy định của từng quốc gia và khu vực, có thể dựa trên thể chế pháp lý hoặc không Quy mô doanh nghiệp cũng có thể được xác định qua đánh giá của các nhà phân tích kinh tế, thay đổi theo từng giai đoạn của nền kinh tế Hầu hết các quốc gia đều dựa vào số lượng công nhân để xác định quy mô doanh nghiệp Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, DN nhỏ và vừa được phân loại thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa, dựa trên tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân năm, đồng thời cũng căn cứ vào ngành hoạt động để phân loại.
Bảng 1.2 Phân loại DN nhỏ và vừa ở Việt Nam theo khu vực kinh tế
DN siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Tổng nguồn vốn số lao động
1 Nông, lâm nghiệp và thủy sản
2 Công nghiệp và xây dựng
3 Thương mại và dịch vụ
Nguồn: Nghị định số56/2009/NĐ-CP tr27
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DN nhỏ và vừa) chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp tại nhiều quốc gia, đóng góp quan trọng vào chính sách kinh tế xã hội Tại Việt Nam, DN nhỏ và vừa cũng mang những đặc điểm tương tự như ở các quốc gia khác, thể hiện vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có vốn đầu tư ban đầu thấp, dẫn đến chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn Điều này giúp khả năng thu hồi vốn nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DN nhỏ và vừa) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động đa dạng ở nhiều lĩnh vực như thương mại, dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, và nông lâm ngư nghiệp Các DN này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DN nhỏ và vừa) có tính linh hoạt cao trước những biến động của thị trường, cho phép họ dễ dàng chuyển hướng kinh doanh và thay đổi sản phẩm Với quy mô nhỏ và sự hiện diện trong mọi thành phần kinh tế, sản phẩm của DN nhỏ và vừa thường đa dạng và phong phú Nhờ vào lợi thế này, họ có khả năng thay đổi quy mô và sản phẩm nhanh chóng khi thị trường có sự thay đổi So với các doanh nghiệp lớn, DN nhỏ và vừa ít chịu tổn thất hơn trong bối cảnh thị trường biến động, bởi quy mô nhỏ giúp họ dễ dàng chuyển đổi sang loại hình khác để phù hợp với nhu cầu thị trường Từ khi gia nhập WTO năm 2006, Việt Nam đã thực hiện chính sách tái cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của DN nhỏ và vừa.
Việt Nam vẫn đang triển khai chính sách đó với tầm quốc gia đƣợc thể hiện ở nghị quyết 11-CP (24/2/2011) [4.1] Trong nghị quyết này khoản a điều 1 có ghi:
Việc tái cơ cấu trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu và doanh nghiệp nhỏ và vừa, đòi hỏi sự kiểm soát và sử dụng hiệu quả các nguồn lực Điều này có thể hiểu đơn giản là cắt gọt những phần thừa, gia cố những phần thiếu và thay đổi hoàn toàn những yếu tố lạc hậu Quốc gia thể hiện sự tái cơ cấu qua Nghị quyết 11-CP, trong khi doanh nghiệp cần xem xét lại các hệ thống quản trị như chuỗi cung ứng, thông tin, nhân lực, tài chính và quan hệ khách hàng Doanh nghiệp nhỏ và vừa được ưu tiên hơn do khả năng điều chỉnh nhanh chóng và chi phí thấp hơn so với doanh nghiệp lớn, vốn có hệ thống quản trị phức tạp Việc không kịp thời thay đổi có thể dẫn đến sự phá sản của nhiều doanh nghiệp lớn, cho thấy sự cần thiết phải thúc đẩy và khuyến khích sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) được kỳ vọng sẽ đóng góp vào sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ, cung cấp dịch vụ và sản phẩm cho doanh nghiệp nước ngoài và các dự án lớn của Nhà nước Tuy nhiên, hiện nay, phần lớn DNVVN Việt Nam chưa tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, với trình độ khoa học công nghệ và khả năng đổi mới còn thấp Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ rất hạn chế, chỉ có 0,025% lao động trong khu vực doanh nghiệp là nhà khoa học và chuyên gia Hơn 80-90% máy móc và công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam là nhập khẩu, trong đó 76% được sản xuất từ thập niên 1980-1990, và 75% máy móc đã hết khấu hao.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, nhiều ngành sản xuất gặp khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào tăng trong khi giá bán sản phẩm không tăng, dẫn đến hiệu quả sản xuất và kinh doanh thấp cùng với hàng tồn kho lớn Các ngành có tỷ trọng nội địa hóa thấp, như sản xuất dây và cáp điện, điện tử, và cơ khí, chịu ảnh hưởng nặng nề, làm giảm khả năng cạnh tranh Sức tiêu thụ thị trường giảm khiến nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất và hoạt động cầm chừng Hàng tồn kho tăng cao ở các lĩnh vực như bất động sản, vật liệu xây dựng, và nông sản, khiến các doanh nghiệp bất động sản phải đối mặt với áp lực từ các khoản vay ngân hàng Chi phí sản xuất trong các ngành chế biến rau củ quả tăng 123,2%, sản xuất sản phẩm nhựa tăng 89,1%, sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 62,8%, sản xuất xe có động cơ tăng 56,2%, và sản xuất xi măng tăng 52,3%.
Trình độ quản lý và chất lượng nguồn lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp nhiều bất cập Theo thống kê từ VCCI, 55,63% chủ doanh nghiệp chỉ có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% ở trình độ sơ cấp và phổ thông Cụ thể, tỷ lệ tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%, thạc sĩ 2,33%, đại học 37,82%, cao đẳng 3,56% và trung học chuyên nghiệp 12,33% Đặc biệt, 75% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp này chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, cùng với việc thực hiện không đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội và y tế, đã làm giảm chất lượng công việc và tạo ra bất lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiếp cận hiệu quả các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh, mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật để phù hợp với cam kết quốc tế từ khi gia nhập WTO Nguyên nhân của việc tiếp cận hạn chế này xuất phát từ cả yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó có sự chậm trễ trong cải cách hành chính và sự thiếu ổn định của chính sách kinh tế vĩ mô Tuy nhiên, phần lớn vấn đề đến từ việc các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa chủ động tìm hiểu các chính sách và thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh Do đó, cần có những giải pháp từ cả Nhà nước và doanh nghiệp để cải thiện khả năng tiếp cận thông tin và chính sách pháp luật trong kinh doanh.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam thường phải thuê mặt bằng có diện tích hạn chế, thường nằm xa trung tâm hoặc sử dụng đất riêng để sản xuất và kinh doanh Điều này khiến họ gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất khi doanh nghiệp phát triển.
Tổng quan về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo khoản 14 và 16 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12
Cấp tín dụng là quá trình thỏa thuận giữa tổ chức hoặc cá nhân để sử dụng một khoản tiền, với nguyên tắc hoàn trả Các hình thức cấp tín dụng bao gồm cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và nhiều nghiệp vụ khác.
Tín dụng tại Ngân hàng chủ yếu liên quan đến nghiệp vụ cho vay, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra doanh thu cho ngân hàng Việc cho vay không chỉ là hoạt động chính mà còn là yếu tố quyết định trong sự phát triển và ổn định tài chính của ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là giao dịch tài sản giữa ngân hàng và DNNVV, trong đó ngân hàng cho vay tài sản để DNNVV sử dụng trong thời gian nhất định DNNVV có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi đúng hạn Hoạt động tín dụng này là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng, đóng góp đáng kể vào lợi nhuận của họ.
1.2.2 Phân loại tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng có nhiều hình thức đa dạng Có thể phân loại tín dụng ngân hàng theo nhiều tiêu thức khác nhau
1.2.2.1 Phân loại tín dụng theo kỳ hạn
Dựa theo tiêu thức phân loại tín dụng theo kỳ hạn, tín dụng đƣợc chia làm ba loại : Tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
Tín dụng ngắn hạn là hình thức vay có thời gian tối đa một năm, với lãi suất thấp và tính thanh khoản cao, nhằm bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngắn hạn Loại tín dụng này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Tín dụng trung hạn là hình thức vay có thời gian từ 1 đến 5 năm, thường có lãi suất cao hơn tín dụng ngắn hạn nhưng tính thanh khoản thấp hơn Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, và mở rộng sản xuất kinh doanh, nhằm phục vụ cho đời sống sản xuất với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn, với thời hạn trên 5 năm, có lãi suất cao nhất và tính thanh khoản thấp nhất, chủ yếu được sử dụng để xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp như nhà máy, xí nghiệp, hoặc để mua sắm dây chuyền sản xuất và thiết bị vận tải quy mô lớn Đây là loại tín dụng có mức độ rủi ro cao nhất.
1.2.2.2 Phân loại tín dụng theo hình thái giá trị tín dụng
Cấp tín dụng bằng tiền là hình thức cho vay mà giá trị tín dụng được cung cấp dưới dạng tiền mặt Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng, thực hiện thông qua nhiều kỹ thuật khác nhau như tín dụng ứng trước, tín dụng thời vụ và tín dụng trả góp.
Cấp tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay phổ biến và đa dạng, trong đó ngân hàng thường áp dụng phương thức tài trợ thuê mua Theo đó, ngân hàng hoặc công ty cho thuê cung cấp tài sản trực tiếp cho doanh nghiệp, và doanh nghiệp sẽ hoàn trả nợ vay theo định kỳ, bao gồm cả vốn gốc và lãi.
1.2.2.3 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng a Hình thức cho vay
Cho vay đƣợc coi là hoạt động tín dụng chính của Ngân hàng, chiếm tỷ trọng dƣ nợ cao nhất trong tổng dƣ nợ
Các phương thức cho vay gồm có :
Cho vay từng lần là hình thức tín dụng dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có nhu cầu vay vốn không thường xuyên và không bị giới hạn về hạn mức tín dụng Hình thức này mang lại sự linh hoạt cho DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn khi cần thiết.
Vốn tín dụng chỉ tham gia vào một giai đoạn cụ thể trong chu kỳ sản xuất kinh doanh và luân chuyển vốn của đơn vị Ngân hàng thực hiện việc cho vay và thu nợ theo từng món vay riêng lẻ.
Khi có nhu cầu vay vốn, bên vay cần thực hiện các thủ tục làm đơn xin vay và cung cấp chứng từ, hóa đơn liên quan Những tài liệu này sẽ được cán bộ tín dụng kiểm tra để xác định tính phù hợp của đối tượng vay vốn Nếu đáp ứng đủ yêu cầu, khoản vay sẽ được phê duyệt và giải ngân.
Cho vay theo hạn mức thấu chi là dịch vụ ngân hàng cho phép người vay chi vượt quá số dư tài khoản thanh toán của họ trong một giới hạn và thời gian nhất định Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi, và nó cho phép người vay linh hoạt trong việc quản lý tài chính cá nhân.
Đối tượng khách hàng mà chúng tôi hướng đến là những khách hàng truyền thống, có tình hình tài chính ổn định và đáng tin cậy Họ thường xuyên thực hiện các giao dịch qua ngân hàng và có thu – chi đều đặn.
- Giải ngân theo tài khoản vãng lai, có thể dƣ nợ, có thể dƣ có
- Quản lý của Ngân hàng tiến hành sau cho vay
- Hạn mức thấu chi được xác định xuất phát từ cả phía người vay và Ngân hàng
- Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ phải chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này
Thẻ tín dụng là sản phẩm ngân hàng cho phép khách hàng thanh toán hàng hóa và dịch vụ, hoặc rút tiền mặt tại ATM, trong giới hạn tín dụng đã được ngân hàng phê duyệt trong hợp đồng tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là một nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định Hạn mức này có thể được tính cho cả kỳ hoặc vào cuối kỳ, và nó đại diện cho số dư tối đa mà khách hàng có thể sử dụng tại thời điểm tính toán Nghiệp vụ cho vay này mang những đặc điểm riêng biệt, giúp khách hàng linh hoạt trong việc quản lý tài chính.
Chất lƣợng tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.3.1 Khái niệm về chất lƣợng tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chất lượng tín dụng trong ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn của khách hàng Các khoản tín dụng này được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư nâng cấp trang thiết bị, giúp nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, từ đó tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường Kết quả là doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, mở rộng quy mô sản xuất, gia tăng doanh thu và lợi nhuận, đồng thời có khả năng trả gốc và lãi vay cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng được xem xét trên các phương diện:
- Đối với Ngân hàng: chất lƣợng tín dụng thể hiện ở việc các khoản vay phải đƣợc hoàn trả đầy đủ, đúng hạn
Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý với lãi suất hợp lý và thủ tục đơn giản, nhằm tối ưu hóa cơ hội phát triển của họ Chất lượng tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn cần thiết.
Chất lượng tín dụng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, giúp phục vụ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa Nó góp phần giải quyết việc làm, sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi, và thúc đẩy tích tụ sản xuất kinh doanh Hơn nữa, chất lượng tín dụng còn giúp cân bằng mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, từ đó góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng kinh doanh của cả hai bên Đánh giá này dựa trên các chỉ tiêu như dư nợ, khả năng thu hồi vốn và mức độ rủi ro của khoản vay, bao gồm nợ quá hạn và nợ xấu Thông qua việc cải thiện chất lượng tín dụng, ngân hàng có thể đưa ra giải pháp khắc phục các vấn đề tiêu cực và phát huy những điểm tích cực, từ đó giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lƣợng tín dụng DN nhỏ và vừa Để đánh giá chất lƣợng tín dụng DN nhỏ và vừa ta xét trên các góc độ khác nhau: Ngân hàng, Doanh nghiệp nhỏ và vừa, nền kinh tế - xã hội
1.3.2.1 Xét trên góc độ của Ngân hàng
Chỉ tiêu định tính là những tiêu chí tương đối, thường được sử dụng để đánh giá tổng quát chất lượng tín dụng Các chỉ tiêu này bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau nhằm cung cấp cái nhìn tổng thể về tình hình tín dụng.
Để giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng và thực hiện hiệu quả các chính sách của Nhà nước, việc tuân thủ các nguyên tắc cho vay là vô cùng quan trọng.
Uy tín của ngân hàng đối với khách hàng là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hài lòng của họ về các sản phẩm tín dụng Khách hàng thường đánh giá ngân hàng dựa trên quy mô, lãi suất, phí dịch vụ và thời gian phục vụ Sự tin tưởng và trải nghiệm tích cực sẽ giúp ngân hàng xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.
Trình độ chuyên môn và khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại của cán bộ ngân hàng là yếu tố quan trọng trong việc cung cấp tín dụng hiệu quả Việc này không chỉ rút ngắn thời gian phục vụ mà còn đảm bảo thu nhập và lưu trữ thông tin đầy đủ, giúp ngân hàng phát hiện và ngăn ngừa rủi ro hiệu quả.
Việc hợp tác hiệu quả với các cơ quan chức năng như công chứng, trung tâm giao dịch đảm bảo, cùng các tổ chức, đoàn thể là rất quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động cho vay.
Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng là hiệu quả xã hội mà nó mang lại Hoạt động tín dụng không chỉ nhằm mục tiêu lợi nhuận mà còn phải đảm bảo phục vụ cho sản xuất và lưu thông theo định hướng kinh tế của Chính phủ Điều này có nghĩa là tín dụng cần góp phần tạo ra việc làm, hạn chế tệ nạn xã hội, và khai thác hiệu quả nguồn lực quốc gia như tài nguyên, con người, vốn và khoa học công nghệ Hơn nữa, tín dụng cũng cần thúc đẩy quá trình tích tụ vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tín dụng và ổn định kinh tế xã hội.
Chất lượng tín dụng thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu định lượng, mặc dù các chỉ tiêu định tính cũng đóng vai trò quan trọng Những chỉ tiêu này dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng và người quản lý, cùng với mối quan hệ của họ với khách hàng Do đó, trong thực tế, sự chú trọng vào các chỉ tiêu định lượng là điều hiển nhiên khi nói đến chất lượng tín dụng.
1.3.2.1.2 Chỉ tiêu định lượng a Chỉ tiêu doanh số thu nợ
Doanh số thu nợ là số tiền mà Ngân hàng thu hồi từ hoạt động tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định, phản ánh khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động tín dụng hiệu quả và chất lượng tín dụng tốt, cần được phát huy Ngược lại, nếu chỉ tiêu này giảm, điều đó cho thấy doanh thu của Ngân hàng giảm và chất lượng tín dụng gặp vấn đề, cần có biện pháp khắc phục Vì vậy, doanh số thu nợ là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định Chỉ tiêu này phản ánh khả năng giải ngân của ngân hàng trong một thời kỳ và có mối quan hệ chặt chẽ với doanh số thu nợ và dư nợ tín dụng Đặc biệt, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng.
Chỉ tiêu dư nợ tín dụng phản ánh số tiền mà ngân hàng chưa thu hồi từ hoạt động tín dụng tại một thời điểm cụ thể Để phân tích chính xác, ngân hàng có thể phân loại dư nợ tín dụng theo nhiều tiêu chí khác nhau, bao gồm kỳ hạn, loại tiền tệ, cũng như các ngành hoặc thành phần kinh tế.