1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

ÁP DỤNG mô HÌNH NÔNG NGHIỆP của một số QUỐC GIA vào sản XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

94 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 94
Dung lượng 1,15 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ 2005 – 2015 (15)
    • 1.1. Lịch sử phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam (15)
    • 1.2. Vai trò của ngành nông nghiệp đối với sự phát triển chung của nền kinh tế (16)
    • 1.3. Phân tích SWOT ngành nông nghiệp Việt Nam (21)
      • 1.3.1. Điểm mạnh (21)
      • 1.3.2. Điểm yếu (23)
      • 1.3.3. Cơ hội (25)
      • 1.3.4. Thách thức (27)
  • CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU VÀ PHÂN TÍCH MỘT SỐ MÔ HÌNH CỦA CÁC QUỐC (30)
    • 2.1. Mô hình Liên minh hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản (30)
      • 2.1.1. Điều kiện sản xuất (30)
      • 2.1.2. Quy trình áp dụng (30)
      • 2.1.3. Kết qủa đạt đƣợc của JA (0)
    • 2.2. Mô hình mỗi làng một sản phẩm ở Nhật Bản (38)
      • 2.2.1. Giới thiệu (38)
      • 2.2.2. Ba nguyên tắc của OVOP (39)
      • 2.2.3. Kết quả đạt đƣợc (40)
    • 2.3. Mô hình “làng thông minh” của Malaysia – giải pháp thông minh trong xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường (43)
      • 2.3.1. Điều kiện sản xuất nông nghiệp của Malaysia (43)
      • 2.3.2. Quá trình thực hiện mô hình (45)
      • 2.3.3. Kết quả việc áp dụng mô hình làng thông minh ở Malaysia (46)
    • 2.4. Israel và mô hình nông nghiệp công nghệ cao (47)
      • 2.4.1. Điều kiện sản xuất nông nghiệp ở Israel (47)
      • 2.4.2. Mô hình nông nghiệp công nghệ cao (49)
      • 2.4.3. Kết quả mô hình tại Israel (55)
  • CHƯƠNG 3: ÁP DỤNG CÁC MÔ HÌNH VÀO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT (57)
    • 3.1. Áp dụng mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam (57)
      • 3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam51 3.1.2. Những hạn chế của mô hình hợp tác xã ở Việt Nam (57)
      • 3.1.3. Đề xuất cho mô hình hợp tác xã ở Việt Nam (62)
    • 3.2. Áp dụng mô hình OVOP ở Việt Nam (65)
      • 3.2.1. Tình hình tổng quan làng nghề Việt Nam (65)
      • 3.2.2. Tình hình áp dụng OVOP tại Việt Nam (67)
      • 3.2.3. Những hạn chế trong mô hình OVOP ở Việt Nam (68)
      • 3.2.4. Giải pháp cho mô hình (70)
    • 3.3. Áp dụng mô hình làng thông minh tại Việt Nam (73)
      • 3.3.1. Khả năng ứng dụng mô hình – các liên kết này đƣợc đánh giá qua sự thành công của các mô hình ở Việt Nam (0)
      • 3.3.2. Tình hình áp dụng mô hình làng thông minh tại Việt Nam (75)
      • 3.3.3. Đề xuất giải pháp cho việc ứng dụng mô hình làng thông minh tại Việt Nam (76)
    • 3.4. Áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp tại Việt Nam (77)
      • 3.4.1. Cơ sở áp dụng (77)
      • 3.4.2. Tình hình áp dụng công nghệ cao vào nông nghiệp Việt Nam (79)
      • 3.4.3. Đề xuất cải thiện những hạn chế của nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam (83)
  • KẾT LUẬN (87)

Nội dung

TỔNG QUAN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ 2005 – 2015

Lịch sử phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam

Nền nông nghiệp Việt Nam có nguồn gốc từ nền văn minh lúa nước cổ đại và đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử Nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước Lịch sử nông nghiệp Việt Nam có thể được chia thành bốn giai đoạn chính.

Giai đoạn trước cách mạng 1945

Trong thời kỳ này, nền nông nghiệp chủ yếu phát triển qua các hình thức điền trang, thái ấp và đồn điền, với sản phẩm chính là lúa và lương thực được sản xuất theo phương thức nô dịch hoặc lĩnh canh Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XIX, sau khi bị thực dân Pháp xâm lược, nền nông nghiệp đã chuyển mình với sự hình thành các hình thức kinh tế mới như kinh tế địa chủ, phú nông, trung nông, bần nông và đồn điền.

Có thể nói giai đoạn này, nền nông nghiệp còn sơ khai, lạc hậu và mang tính chất phân cấp rõ rệt

Giai đoạn từ 1945 đến 1955 là thời kỳ kháng chiến quyết liệt của cả nước, trong đó nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lương thực cho chiến trường Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế nông nghiệp có sự chuyển dịch rõ rệt: kinh tế địa chủ suy yếu, kinh tế phú nông chững lại, trong khi kinh tế trung nông phát triển mạnh mẽ, cải thiện đời sống của bần nông và cố nông.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau Trong suốt 20 năm đất nước bị chia cắt, nền nông nghiệp ở hai miền phát triển theo những hướng khác nhau.

Miền Bắc Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi mạnh mẽ trong nền nông nghiệp, đặc biệt sau khi khôi phục kinh tế và thực hiện các kế hoạch phát triển Nền nông nghiệp đã có những bước đổi mới đáng kể, với sự biến động rõ rệt trong các hình thức kinh tế Hình thức kinh tế địa chủ đã bị xóa bỏ, trong khi kinh tế phú nông bị hạn chế, dẫn đến việc hoàn thành hợp tác hóa thông qua các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cấp thấp và các hình thức hợp tác xã nhỏ lẻ khác Từ năm 1961 đến 1965, kinh tế hợp tác xã đã phát triển mạnh mẽ cả về chất lượng và quy mô, và đến năm 1975, 97% số hộ nông dân miền Bắc đã tham gia vào hợp tác xã.

Miền Nam Việt Nam chứng kiến sự phát triển nông nghiệp theo hướng tư bản chủ nghĩa, với sự hình thành của các trang trại và đồn điền Các chính sách được thực hiện nhằm hỗ trợ tầng lớp tư sản, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế trong khu vực.

Từ năm 1975 đến nay, Việt Nam đã trải qua giai đoạn phục hồi và phát triển kinh tế sau khi giành được độc lập và thống nhất đất nước Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần, định hướng theo mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, trong đó hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ.

Hiện nay, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế Việt Nam đang giảm dần, trong khi các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế Theo thống kê năm 2014, nông nghiệp chỉ chiếm 18,12% trong tổng thể nền kinh tế.

Vai trò của ngành nông nghiệp đối với sự phát triển chung của nền kinh tế

Sản lượng và năng suất nông nghiệp có vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế Mối quan hệ giữa việc nâng cao chất lượng và sản lượng nông nghiệp với sự phát triển kinh tế là biện chứng, thể hiện qua nhiều khía cạnh quan trọng.

Sự gia tăng đáng kể của cầu nông sản là một đặc điểm quan trọng trong phát triển kinh tế Do đó, việc tăng cung lương thực để phù hợp với sự tăng trưởng của cầu là cần thiết nhằm tránh gây ra những trở ngại nghiêm trọng cho nền kinh tế.

Mở rộng xuất khẩu nông sản đóng vai trò quan trọng trong việc tăng thu nhập và thu hút ngoại tệ, đặc biệt trong giai đoạn phát triển ban đầu.

Ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lao động và vốn cần thiết cho sự đầu tư và mở rộng trong các lĩnh vực như công nghiệp chế tạo, du lịch dịch vụ, và các khu vực đang phát triển khác.

(4) Nông nghiệp đóng góp vốn cần thiết để đầu tƣ, phát triển công nghiệp và các khu vực đang mở rộng khác

(5) Gia tăng thu nhập từ dân số nông thôn có thể có tác dụng kích thích mở rộng công nghiệp và dịch vụ

Gia tăng nguồn cung lương thực

Trong nghiên cứu "Vai trò phát triển nông nghiệp" của Bruce F Johnston và John W Mellor (1961), tỉ lệ gia tăng cầu lương thực hàng năm được xác định qua công thức D = p + ηg, với p là tỉ lệ tăng trưởng dân số, g là tỉ lệ tăng trưởng thu nhập trên đầu người, và η là độ co dãn cầu nông sản theo thu nhập Tăng trưởng cầu lương thực đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đang phát triển do sự gia tăng dân số.

Hình 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng của một số quốc gia năm 2012 Đơn vị: % Nguồn: CIA World Factbook, 2012

Các quốc gia đang phát triển như Philippines, Việt Nam, Canada và Nhật Bản thường có tỉ lệ tăng trưởng dân số cao từ 1,5% đến 3% Sự tiến bộ trong y học đã làm giảm tỉ lệ tử vong đáng kể, dẫn đến gia tăng dân số Điều này đã tạo ra nhu cầu lương thực tăng cao.

Độ co giãn cầu lương thực theo thu nhập ở các nước đang phát triển đạt 0,6, cho thấy mức độ nhạy cảm cao hơn so với các nước phát triển, nơi chỉ có độ co giãn là 0,2, như ở Tây Âu, Canada và Hoa Kỳ (FAO).

Tăng trưởng thu nhập trên đầu người sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhu cầu nông sản ở các nước kém phát triển hơn so với các nước phát triển.

Sự gia tăng cầu lương thực có thể dẫn đến tình trạng giá lương thực tăng mạnh nếu cung không kịp mở rộng, điều này sẽ gây ra bất mãn chính trị, áp lực lên tiền lương và ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận công nghiệp, đầu tư và tăng trưởng kinh tế.

Mở rộng xuất khẩu nông sản

Mở rộng xuất khẩu nông sản là một trong những phương thức hứa hẹn nhất để tăng thu nhập và thu ngoại tệ cho các quốc gia đang phát triển Khi tỷ trọng hàng xuất khẩu thấp, đường cầu trở nên co giãn hơn Do đó, việc mở rộng sản xuất nông sản xuất khẩu thường được xem là chính sách hợp lý, ngay cả khi tình hình cung cầu không thuận lợi.

Dựa dẫm quá nhiều vào xuất khẩu nông sản có thể gây ra rủi ro giảm giá mạnh, nhất là khi độ co giãn của cầu theo thu nhập và giá cả thấp Để hạn chế rủi ro này, việc đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu là một giải pháp hiệu quả, được nhiều quốc gia như Nhật Bản, Thái Lan và Trung Quốc áp dụng.

Chuyển giao lao động từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực phi nông nghiệp

Mô hình hai khu vực của Lewis cho rằng lao động có thể linh hoạt chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt trong giai đoạn phát triển ban đầu Bruce F Johnston và John W Mellor (1961) chỉ ra rằng Nhật Bản là một ví dụ điển hình cho mô hình này, nơi tỉ lệ đầu tư được coi là yếu tố hạn chế, nhưng việc chuyển giao lao động sang ngành công nghiệp diễn ra khá thuận lợi Sự đóng góp của nông nghiệp vào việc tạo lập vốn là rất quan trọng trong quá trình này.

Tình trạng giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế là đặc điểm của tăng trưởng, phản ánh sự quan trọng và thách thức trong việc tích lũy vốn ở các nước đang phát triển Mô hình hai khu vực của Lewis cho thấy rằng tỷ lệ tạo lập vốn quyết định tỷ lệ mở rộng việc làm trong khu vực tư bản Hơn nữa, tỷ lệ mở rộng việc làm trong khu vực tư bản so với tăng trưởng tổng lực lượng lao động sẽ xác định tốc độ giảm thặng dư lao động nông thôn, cho đến khi mức lương không còn bị giới hạn bởi năng suất thấp, chỉ đủ để duy trì mức sống tối thiểu.

Phát triển công nghiệp chế tạo và khai thác khoáng sản, đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông và công ty tiện ích công cộng, cùng với việc thu ngân sách để mở rộng dịch vụ giáo dục, đòi hỏi nguồn vốn lớn Điều này thường vượt quá khả năng cung cấp vốn sẵn có, ngoại trừ các nước có thu nhập cao từ dầu mỏ và khoáng sản hoặc được tiếp cận nguồn vốn nước ngoài ưu đãi.

Mô hình tăng trưởng hai khu vực cổ điển của W Arthur Lewis nhấn mạnh rằng ở các nước đông dân, một tỷ lệ lớn lao động nông thôn không đủ để duy trì cuộc sống, dẫn đến tình trạng thặng dư lao động trong khu vực nông nghiệp Lewis cho rằng khu vực nông nghiệp, mặc dù có vai trò tối thiểu, vẫn là nguồn cung cấp lao động cho khu vực phi nông nghiệp, nơi diễn ra sự phát triển và tăng trưởng kinh tế Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.

Phân tích SWOT ngành nông nghiệp Việt Nam

Việt Nam sở hữu nhiều tiềm năng trong nông nghiệp nhờ vào lợi thế về đất đai và khí hậu nhiệt đới, cho phép trồng cây quanh năm Theo Võ Tòng Xuân (2014), điều này khác biệt với các quốc gia ôn đới chỉ có thể trồng cây trong 6 tháng Đất nước ta có đa dạng các loại cây trồng như lương thực (lúa, ngô), cây công nghiệp (mía, cà-phê), cây ăn quả (nhãn, bưởi) và nhiều loại rừng cây khác Hệ sinh thái phong phú cùng với nguồn giống quý hiếm tạo cơ hội cho sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao Địa hình và khí hậu đa dạng ở các vùng miền cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, giúp doanh nghiệp và nông dân tận dụng tối đa lợi thế này.

Thứ hai, hiện nay, nguồn nhân lực nghiên cứu KH&CN ở Việt Nam rất dồi dào

Hệ thống tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ của Bộ NN&PTNT bao gồm 11 viện chuyên đề, viện vùng, bốn viện quy hoạch và 39 trường đại học, cao đẳng, với gần 11.000 cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp Trong số đó, gần 8.000 cán bộ làm việc tại các viện chuyên đề và viện vùng, bao gồm 67 giáo sư và phó giáo sư, 426 tiến sĩ, 1.268 thạc sĩ, cùng hơn 3.800 người có trình độ đại học và cao đẳng Bên cạnh đó, còn có một lượng lớn nhân lực nghiên cứu từ các tổ chức KH&CN khác, các trung tâm, trạm, trại nghiên cứu và thực hành, cùng với hơn 36.000 người trong hệ thống khuyến nông tham gia vào công tác nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp, trong đó 22% cán bộ nghiên cứu có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ.

Nhà nước đã đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư cho công tác khoa học và công nghệ (KH&CN) trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, với tổng kinh phí từ 2008 đến 2013 lên tới 2.143 tỷ đồng, trong đó 787 tỷ đồng dành cho phát triển cơ sở vật chất và 1.275 tỷ đồng cho khuyến nông Các địa phương cũng chi khoảng 500-600 tỷ đồng/năm cho nông nghiệp, chiếm 35% tổng kinh phí KH&CN Hoạt động khuyến nông đã tăng từ 32 nghìn người năm 2008 lên hơn 36 nghìn người năm 2013, tiêu tốn bình quân hơn 210 tỷ đồng mỗi năm Nhiều mô hình canh tác hiệu quả đã được triển khai, bao gồm giống cây có năng suất cao và công nghệ tưới hiện đại Nhờ áp dụng công nghệ mới, sản lượng lúa gạo đã tăng từ 19 triệu tấn năm 1990 lên 42 triệu tấn năm 2011, góp phần cải thiện vấn đề giống cây, sản xuất và tiêu thụ trong nông nghiệp.

Việt Nam đang tích cực tham gia vào nền kinh tế toàn cầu thông qua các tổ chức và hiệp định quốc tế Là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị như WTO, APEC, ASEM và ASEAN, Việt Nam đang mở rộng hợp tác quốc tế Trong nước, sự gia tăng các hội thảo, triển lãm và hội chợ giới thiệu sản phẩm nông nghiệp sẽ thu hút đầu tư từ cả trong và ngoài nước.

Yếu kém về cơ sở vật chất và hạ tầng trong nông nghiệp đang là vấn đề nghiêm trọng, khi mà các tư liệu sản xuất như giống cây trồng, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật không đảm bảo về số lượng và chất lượng Theo một buổi hội thảo của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn vào đầu năm 2015, 65% giống lúa lai và 70-90% giống nông nghiệp khác là nhập khẩu Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng tình trạng này để sản xuất và buôn bán giống cây trồng, vật nuôi kém chất lượng, điển hình là cây mắc ca với 50% số lượng cây không đạt yêu cầu Hơn nữa, tình trạng sản xuất và kinh doanh phân bón giả, kém chất lượng ngày càng phức tạp và khó kiểm soát, gây nhiều khó khăn cho ngành nông nghiệp.

Việc sản xuất phân bón kém chất lượng không chỉ xảy ra ở các doanh nghiệp nhỏ mà còn ở những công ty lớn như Công ty TNHH BACONCO và phân bón Bình Điền, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các nhà sản xuất trong nước, sản xuất nông nghiệp, an ninh lương thực và sức khỏe cộng đồng Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn đang xuống cấp, chưa được đầu tư đồng bộ và hiện đại, khiến giao thông chỉ đáp ứng nhu cầu đi lại mà không đủ khả năng vận chuyển vật tư và sản phẩm đến các vùng sản xuất Điều này hạn chế việc chuyển giao giống cây trồng, vật nuôi và tiến bộ kỹ thuật, trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật như điện, thủy lợi và dịch vụ kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp còn thiếu đồng bộ, gây khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ mới và giảm hiệu quả sản xuất.

Quản lý và chính sách Nhà nước hiện đang gặp nhiều bất cập, đặc biệt trong việc xử lý tình trạng nhập lậu gia súc, gia cầm và nông sản từ Trung Quốc Phương thức buôn lậu ngày càng tinh vi, với lợi nhuận cao khiến nhiều doanh nghiệp bất chấp nguy cơ dịch bệnh và an toàn thực phẩm để nhập lậu số lượng lớn Gần đây, Đồn Biên phòng Quảng Ninh đã tiêu hủy hơn 7.000 con gà giống Trung Quốc nhập lậu Một chiêu trò phổ biến là thực hiện giao dịch bên Trung Quốc, sau đó thả gia cầm trôi từ thủy phận Trung Quốc về Việt Nam vào ban đêm Việc thương lái thuê người dân địa phương vận chuyển cũng gây khó khăn trong việc phát hiện và xử lý Sản phẩm nhập lậu tràn lan làm giảm giá các sản phẩm nội địa, khiến người dân ưu tiên lợi ích kinh tế mà bỏ qua hàng Việt Nam, dẫn đến tình trạng hàng tồn kho và thua lỗ Hơn nữa, Việt Nam còn thiếu hệ thống thông tin và phân tích nhu cầu thị trường nông sản, cũng như các biến động toàn cầu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.

KHCN phát triển chưa đủ để đáp ứng với đầu tư ban đầu, khiến cho giống cây trồng và vật nuôi vẫn phải nhập khẩu nhiều Tiến bộ khoa học chưa được áp dụng rộng rãi, dẫn đến việc sản xuất nông nghiệp ở nông thôn Việt Nam chủ yếu vẫn theo lối truyền thống, manh mún và hiệu suất thấp Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi vẫn thường xuyên xảy ra, gây thiệt hại lớn như dịch tôm năm 2011-2012, dịch cúm gia cầm và dịch lở mồm long móng Mặc dù hoạt động khuyến nông đã tăng cường, nhưng thiếu sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học và chuyển giao ứng dụng vào thực tiễn, khiến cho nhiều mô hình mẫu chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ mà không phát triển ra toàn quốc, dẫn đến lãng phí lớn về tài nguyên quốc gia.

Nguồn lao động nông dân hiện nay chưa đảm bảo do trình độ kỹ thuật nông nghiệp lạc hậu và phương thức canh tác không tiến bộ Nông dân thiếu tính tự lực, sáng tạo và khả năng cập nhật thông tin, dẫn đến việc sản xuất theo phong trào, bắt chước mà không hiệu quả Họ thường không có đủ thông tin về khoa học và thị trường, dễ bị lừa lọc và cám dỗ Gần đây, hiện tượng thương lái Trung Quốc thu mua số lượng lớn sản phẩm nông nghiệp như lá sắn, vỏ cây, ốc sên, đỉa rồi dừng đột ngột đã làm suy giảm số lượng và chất lượng cây trồng.

Sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hiện có giá trị thấp do ít áp dụng khoa học công nghệ, dẫn đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu kém Hầu hết nông sản được xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế với giá thành cao, chất lượng kém và mẫu mã không hấp dẫn Điều này tạo ra tình trạng thừa sản phẩm thô nhưng thiếu sản phẩm tinh chế Mặc dù sản lượng gạo và cà phê lớn, nhưng giá cả luôn ở mức thấp nhất, trong khi các sản phẩm từ thủy sản, lâm nghiệp và chăn nuôi cũng xuất khẩu với giá rẻ hơn so với các quốc gia khác Kết quả là hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp thấp, và phân khúc giá trị gia tăng từ chế biến chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài, khi họ thu mua sản phẩm thô tại Việt Nam và bán ra sản phẩm chế biến tại thị trường nội địa.

Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào các diễn đàn quốc tế và thiết lập nhiều quan hệ hợp tác đa phương, tạo cơ hội cho nền kinh tế và nông nghiệp phát triển Nông nghiệp Việt Nam có tiềm năng lớn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hướng tới sản xuất tiên tiến và giá trị gia tăng cao Hợp tác quốc tế giúp nông nghiệp tiếp cận công nghệ hiện đại và mở rộng thị trường Gia nhập các tổ chức quốc tế cũng mang lại cho Việt Nam cơ hội tận dụng tiếng nói tập thể, nhận hỗ trợ kỹ thuật, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác với chuyên gia từ các quốc gia khác.

Nhà nước đang nỗ lực cải cách các chính sách tập trung vào nông nghiệp, mặc dù hiệu quả còn chậm, nhưng điều này mở ra cơ hội cho khu vực nông thôn trong việc mở rộng sản xuất Những cải cách này cũng giúp thu hút doanh nghiệp và đầu tư nước ngoài Đặc biệt, đề án tái cơ cấu nông nghiệp được triển khai từ năm gần đây đã tạo ra nhiều triển vọng tích cực cho ngành nông nghiệp.

Đề án năm 2012 được nghiên cứu kỹ lưỡng và áp dụng thực tiễn với các bước đi thiết thực, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững Các giải pháp bao gồm phát triển khoa học công nghệ, trao quyền cho tổ chức khoa học và khuyến khích sự tham gia của mọi thành phần kinh tế Việc phân cấp, phân quyền và đầu tư cho hoạt động khuyến nông sẽ giúp triển khai hiệu quả các dự án nghiên cứu khoa học Tái cơ cấu nông nghiệp đúng mục đích và hiệu quả sẽ tạo cơ hội lớn cho nền nông nghiệp hiện đại.

Vấn đề nguồn vốn vẫn là một rào cản lớn trong đầu tư phát triển nông nghiệp ở Việt Nam Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều tổ chức tín dụng trong và ngoài nước đã cải tiến phương thức cho vay, mở ra cơ hội tiếp cận vốn cho cả các dự án nông nghiệp quy mô lớn và những nông hộ nhỏ lẻ Đặc biệt, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm đã dành 70.000 tỷ đồng cho hàng triệu hộ dân vay, với cơ cấu tổ chức rộng khắp thông qua các đơn vị cơ sở như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, và Hội Nông dân, đã đạt được nhiều kết quả khả quan Bên cạnh đó, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cũng áp dụng hình thức cho vay hiệu quả với nguồn vốn tài trợ từ Quỹ hợp tác phát triển Bỉ, tổ chức cho vay theo nhóm với lãi suất 2%/tháng và chu kỳ cho vay 10 tháng, giúp nhiều nông hộ thực hiện các dự án kinh doanh khả thi Những sáng kiến này không chỉ tạo điều kiện cho nông dân nhỏ lẻ mà còn thúc đẩy nền nông nghiệp hiệu quả cao.

Việc hội nhập kinh tế mang đến cơ hội nhưng cũng tạo ra thách thức lớn cho nền nông nghiệp Việt Nam còn yếu kém Tham gia các hiệp định thương mại quốc tế đồng nghĩa với việc giảm thuế nhập khẩu nông sản, khiến hàng hóa trong nước phải cạnh tranh khốc liệt với hàng nhập khẩu Hơn nữa, xu hướng sính ngoại của người tiêu dùng Việt Nam càng làm tăng áp lực lên nông sản nội địa Đồng thời, nông sản Việt Nam phải đối mặt với hàng rào phi thuế quan, yêu cầu kỹ thuật và truy suất nguồn gốc khi xuất khẩu vào các thị trường tiêu chuẩn cao, điều này trở thành thách thức lớn do sản xuất còn lạc hậu và tư duy canh tác chưa chú trọng đến chất lượng và quy trình kỹ thuật.

GIỚI THIỆU VÀ PHÂN TÍCH MỘT SỐ MÔ HÌNH CỦA CÁC QUỐC

Mô hình Liên minh hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản

Nhật Bản là một quần đảo lớn với diện tích đất liền 377.906,97 km², trong đó 70-80% là núi, và chỉ khoảng 0.9% diện tích dành cho đất nông nghiệp Địa hình này gây khó khăn cho hoạt động nông nghiệp, khiến cho trước khi có sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại, Nhật Bản chỉ có thể trồng một số giống lúa, dẫn đến việc phải nhập khẩu phần lớn lương thực từ nước ngoài.

Nhật Bản là một trong những quốc gia có nhiều núi lửa nhất thế giới, với hơn

Đất nước này có 80 núi lửa đang hoạt động và trung bình hàng năm phải đối mặt với 4 cơn bão, dẫn đến việc kinh tế và đời sống người dân thường xuyên bị ảnh hưởng bởi động đất, bão và sóng thần Trong số các ngành, nông nghiệp là lĩnh vực chịu tác động lớn nhất từ điều kiện tự nhiên, khiến thiệt hại do thiên tai trở nên khó tránh khỏi.

Nhật Bản nổi bật với những đức tính như cần cù, tiết kiệm, và tinh thần cầu tiến cao Quốc gia này dẫn đầu thế giới về tiến bộ khoa học công nghệ, giúp vượt qua nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên Nhờ những thế mạnh này, Nhật Bản đã xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, cạnh tranh với các cường quốc như Mỹ, Anh và Trung Quốc.

Nhật Bản là quốc gia tiên phong trong việc xây dựng và phát triển mô hình hợp tác xã nông nghiệp Giống như nhiều nước châu Á khác, phần lớn người dân Nhật Bản sinh sống ở các lưu vực và đồng bằng phù sa, do đó, nông nghiệp đã trở thành hoạt động kinh tế chủ chốt trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước này.

Liên minh nông nghiệp Nhật Bản (JA) được thành lập vào năm 1843 và đã đóng vai trò quan trọng trong việc cải cách ruộng đất sau Thế chiến thứ II, giúp nông dân sở hữu đất đai dù phần lớn chỉ là những thửa nhỏ Sự khan hiếm lương thực đã dẫn đến việc thành lập các hợp tác xã để kiểm soát và điều tiết nông nghiệp và tài chính tại các làng xã Mô hình hợp tác xã nông nghiệp đã giúp nông dân nhỏ cạnh tranh thành công trên thị trường và đóng góp vào sự phục hồi kinh tế Nhật Bản, biến nước này từ nền kinh tế nông nghiệp sang một trong những nước công nghiệp hóa phát triển nhất Tuy tỷ lệ nông dân hiện nay chỉ chiếm gần 5% dân số và GDP của nông nghiệp giảm từ 9% xuống 1%, tổ chức JA vẫn giữ vai trò xương sống của khu vực nông nghiệp, trải qua nhiều cải cách và trở thành một trong những tổ chức nông dân lớn nhất thế giới.

Liên minh nông nghiệp Nhật Bản được tổ chức thành ba cấp độ: cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp cơ sở, với Liên hiệp nông nghiệp Nhật Bản (JA) đứng đầu.

Bảng 2.1: Cơ cấu tổ chức Liên minh nông nghiệp JA

Cấp cơ sở Cấp tỉnh Cấp trung ƣơng Chức năng

Bao gồm các nông dân thành viên, hộ nông dân và các hợp tác xã thành viên

Prefectural Unions of Agricultural Cooperatives

Central Union of Agricultural Cooperatives

Prefectural Economic Federations of Agricultural Cooperatives (KEIZAIREN)

National Federation of Agricultural Cooperatives Associations (ZEN-NOH)

Tiếp thị và phân phối

Prefectural Credit Federations of Agricultural Cooperatives (SHINREN)

Central Cooperative Bank for Agricuture, Forestry and Fisheries (NORINCHUKIN

National Mutual Insurance Federation of Agricultural

Prefectural Welfare Federations of Agricultural Cooperatives (KOREISEN)

National Welfare of Agricultural Cooperatives (ZENKOREN)

2.1.2.3 Chức năng và nhiệm vụ

Hiện nay, JA hoạt động theo mô hình đa chức năng, cung cấp cho các thành viên 5 dịch vụ chính bao gồm khuyến nông, bảo hiểm, tín dụng, tiếp thị - phân phối và phúc lợi.

Hoạt động khuyến nông đƣợc xem xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào năm

1900 tại Nhật Bản Cùng với sự đi lên trong sản xuất nông nghiệp, hoạt động khuyến nông ở Nhật đã ngày càng phát triển

Khuyến nông là hoạt động quan trọng của JA, giúp nông dân cải thiện kỹ năng quản lý nông trại, lựa chọn vật liệu sản xuất, công nghệ, tiếp thị và lập kế hoạch Đội ngũ chuyên gia tư vấn nông nghiệp Nhật Bản hỗ trợ nông dân trong việc tiếp thị sản phẩm và thu mua nguyên liệu Ngoài việc cung cấp hướng dẫn nông nghiệp, JA còn giúp xây dựng cuộc sống tốt hơn cho nông dân và gia đình họ.

JA đã thành lập các hiệp hội phụ nữ trong tổ chức, kết nối các bà vợ trong các hộ gia đình nông dân để chia sẻ kinh nghiệm và gắn kết cộng đồng Các cố vấn thúc đẩy nhiều hoạt động như quản lý sức khỏe gia đình, hạch toán ngân sách, tổ chức các hoạt động giải trí, phong trào đọc sách và các chuyến du lịch, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho các thành viên.

Bộ phận kinh doanh tín dụng của JA đã góp phần quan trọng vào sự phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống người nông dân thông qua các dịch vụ ngân hàng như nhận gửi tiết kiệm, cho vay, chiết khấu hóa đơn và giao dịch hối đoái Các thành viên của JA được tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng với tổ chức tín dụng, với các khoản vay được phân cấp theo tình hình tài chính và lãi suất thấp hơn so với ngân hàng khác Chính phủ cũng có chính sách trợ cấp để bù đắp phần lỗ do lãi suất thấp JA đã xây dựng một tổ chức tài chính cộng đồng lớn nhất Nhật Bản, bao gồm 765 hợp tác xã cơ sở, 38 liên đoàn cấp tỉnh và ngân hàng Norinchukin Bank.

Liên đoàn Bảo hiểm Nông nghiệp Nhật Bản (Zenkyoren) cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhằm bảo vệ hạnh phúc hiện tại và tương lai cho các thành viên, đảm bảo an ninh cá nhân và tài chính, cũng như sự ổn định trong hoạt động nông nghiệp và đời sống của nông dân Bên cạnh đó, bảo hiểm tương hỗ của tổ chức cũng đóng góp vào các hoạt động phúc lợi.

JA qua các chiến dịch an toàn giao thông ở địa phương hay các phúc lợi dành cho những người cao tuổi

Dịch vụ bảo hiểm của Zenkyoren có thể đƣợc chia thành 4 loại nhƣ sau:

(1) Bảo vệ chống rủi ro và chức năng tiết kiệm

(2) Các dịch vụ tài chính liên quan

(3) Các dịch vụ thông tin

(4) Các dịch vụ phúc lợi

 Hoạt động thu mua, sản xuất

Việc mua đầu vào từ JA thường dựa trên hệ thống đặt hàng trước mùa trồng trọt, giúp nông dân hưởng lợi từ giá đầu vào thấp nhờ mua số lượng lớn JA cung cấp cho các hợp tác xã nguyên vật liệu như phân bón, hóa chất, và máy móc nông nghiệp với chất lượng cao và giá cả hợp lý Đồng thời, liên đoàn quốc gia của JA (ZENNOH) thu thập đơn đặt hàng từ nông dân và thương lượng giảm giá với các công ty thu mua, nhằm hỗ trợ tốt nhất cho nông dân.

Mô hình hợp tác xã ở Nhật Bản thành công nhờ vào khả năng tiếp cận thị trường hiệu quả cho sản phẩm nông nghiệp Sau khi thu thập nông sản từ các thành viên, tổ chức sẽ phân phối đến các thị trường và thương nhân khác Để đạt được giá tốt hơn, JA khuyến khích nông dân tham gia các hoạt động tiếp thị chung, bao gồm phân loại, vận chuyển sản phẩm và áp dụng công nghệ nuôi trồng hiệu quả từ đội ngũ tư vấn Các hợp tác xã được trang bị cơ sở vật chất hiện đại như trung tâm tiếp thị nông sản, kho kiểm soát nhiệt độ và thang máy hạt ngũ cốc.

Các nông dân sản xuất nông sản dựa trên đơn đặt hàng, trong đó khoảng 57% sản phẩm sau thu hoạch được thu gom bởi các hợp tác xã thành viên của JA Khoảng 84% số sản phẩm này sẽ được các liên đoàn kinh tế tỉnh và Liên hiệp nông nghiệp quốc gia ZENNOH thực hiện tiếp thị và phân phối, trong khi phần còn lại sẽ được chuyển trực tiếp đến các bên liên quan như nhà máy chế biến, cửa hàng bán lẻ và siêu thị.

Nhà sản xuất (Nông dân)

Hình 2.1: Sơ đồ biểu diễn quy trình phân phối sản phẩm từ người nông dân đến người tiêu dùng

Có 4 đối tƣợng chính tham gia vào quá trình:

Khu vực sản xuất (nông dân) - Các liên đoàn trực thuộc JA – Các bên liên quan (Siêu thị,

Cửa hàng bán lẻ, DN chế biến) – Người tiêu dùng

JAs bao gồm tập đoàn ZEN-NOH và các liên đoàn kinh tế trực thuộc JA

Các bên liên quan: Siêu thị, cửa hàng bán lẻ, doanh nghiệp chế biến, …

Các liên đoàn kinh tế của JA sử dụng thị trường bán buôn để phân phối sản phẩm đến các bên liên quan, trong khi ZENNOH cung cấp sản phẩm tươi và tiếp tục phân phối đến các đối tác ZENNOH đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thị trường sản xuất sản phẩm tươi sống trong nước và kết nối khu vực sản xuất với các bên liên quan, đảm bảo quá trình phân phối nông sản diễn ra suôn sẻ Các bên liên quan là những người nhận sản phẩm nông nghiệp cuối cùng trước khi đến tay người tiêu dùng, góp phần duy trì sự cung ứng ổn định cho thị trường sản phẩm tươi sống trong nước.

Hình 2.2: Sơ đồ thể hiện sự xúc tiến sản xuất dựa vào cầu của các bên liên quan

Mô hình mỗi làng một sản phẩm ở Nhật Bản

Phong trào khởi nguồn từ thành công của làng Oyama tại quận Oita, Nhật Bản, dưới sự lãnh đạo của Harumi Yahata, đã khuyến khích người dân địa phương trồng mận và hạt dẻ thay vì chỉ tập trung vào lúa gạo trong bối cảnh Nhật Bản sau chiến tranh Chiến dịch New Plum and Chestnuts không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho người dân thông qua việc chế biến và bán các sản phẩm như rượu vang mận và dưa chua, mà còn mở ra hai chiến dịch mới: Neo Personality Combination nhằm nâng cao đời sống văn hóa và New Paradise Community để cải thiện môi trường sống cho cộng đồng.

Năm 1979, thống đốc tỉnh Oita, Morihiko Hiramatsu, đã giới thiệu phong trào OVOP nhằm phát triển kinh tế cho tỉnh miền núi nghèo nàn này, khi Oita đang đối mặt với nhiều thách thức như suy giảm dân số và đình trệ ngành công nghiệp Phong trào OVOP tập trung vào phát triển các yếu tố nội sinh và khuyến khích sự tự lực, không phụ thuộc vào chính phủ Mục tiêu là khai thác nguồn lực địa phương để tạo ra các sản phẩm thương hiệu độc đáo, từ nông nghiệp, thủy sản, lâm sản đến các di tích lịch sử và sự kiện văn hóa, nhằm tiêu thụ cả trong nước và quốc tế.

Chính quyền quận Oita đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu và giải quyết đầu ra sản phẩm địa phương, thông qua việc tổ chức các Hội chợ và Triển lãm nhằm thúc đẩy tiêu thụ Các cơ quan cấp quốc gia cũng hỗ trợ quảng bá phong trào OVOP, như phong trào Michi-no-Eki, nhằm cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người sử dụng ô tô, xe máy, đồng thời thúc đẩy du lịch địa phương Đến tháng 7 năm 2009, Nhật Bản đã có 917 Michi-no-Eki Ngoài ra, có 34 công ty tư nhân trong nước tham gia phong trào OVOP, thành lập Công ty cổ phần Oita Mỗi làng một sản phẩm, chuyên quảng bá sản phẩm OVOP qua tiếp thị trực tiếp và Internet.

2.2.2 Ba nguyên tắc của OVOP

2.2.2.1 Hành động địa phương, suy nghĩ toàn cầu

Nguyên tắc này dựa trên sự khác biệt về điều kiện vật lý của mỗi địa phương, giúp phát triển các loại sản phẩm phù hợp và tạo ra một hệ thống sản phẩm đa dạng.

Cư dân địa phương tận dụng nguồn lực sẵn có để phát triển sản phẩm độc đáo, tạo niềm tự hào và đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế Việc sản xuất dựa trên lợi thế địa phương không chỉ gia tăng giá trị sản phẩm mà còn tiết kiệm chi phí kinh tế, đồng thời sử dụng hiệu quả nhân lực và vật chất tại chỗ, góp phần vào sự bền vững của hoạt động kinh tế.

2.2.2.2 Khả năng tự lực và sáng tạo

Để phát triển đặc sản địa phương, người dân cần có sự sáng tạo để khám phá và định hình sản phẩm độc đáo của vùng mình Những sản phẩm này có thể là độc quyền của địa phương hoặc có mặt ở nhiều nơi nhưng lại nổi bật về chất lượng tại đây Người dân địa phương hiểu rõ nhất về các lợi thế và sản phẩm đặc trưng của vùng Sau khi sản phẩm được hoàn thiện, việc đưa chúng ra thị trường trong và ngoài nước phụ thuộc vào nỗ lực và sáng kiến của họ Chẳng hạn, sản phẩm chanh Kabosu đã được Hiramatsu và nông dân Takeda phát triển, tạo ra hương vị đặc trưng cho các món ăn, món tráng miệng và đồ uống, thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng Nhật Bản và trở thành biểu tượng của Oita Chính phủ và chính quyền địa phương hỗ trợ bằng cách cung cấp hướng dẫn kỹ thuật và tổ chức các hoạt động xúc tiến bán hàng, như hội chợ sản phẩm và thành lập công ty tư nhân, nhằm khuyến khích và ghi nhận những nỗ lực của người dân.

2.2.2.3 Phát triển nguồn nhân lực

Nguyên tắc thứ ba của phong trào OVOP nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn nhân lực, với mục tiêu giúp người dân vươn ra thị trường quốc tế Chính quyền địa phương hỗ trợ phát triển kỹ thuật và nâng cao tay nghề thông qua việc thành lập các trường đào tạo như Trường Đào tạo Land of Abundance và các viện nghiên cứu Các trung tâm như Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp và Thủy sản, Trung tâm nghiên cứu floricultural, và Trung tâm đào tạo Thủ công mỹ nghệ Bamboo tỉnh Oita đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm địa phương Hơn nữa, việc cấp giải thưởng từ chính phủ và các quận, thành phố cũng góp phần khuyến khích và tăng cường sự tham gia của người dân địa phương.

Thứ nhất, doanh thu tỉnh Oita tăng trưởng nhanh từ 1980 – 2000

Bảng 2.2: Doanh thu tỉnh Oita giai đoạn 1980 -2000

Nguồn: Bộ phận Xúc tiến sản phẩm One village one product Oita Prefecture

Quận Oita đã chứng kiến sự gia tăng liên tục về số lượng sản phẩm OVOP, từ 143 sản phẩm năm 1980 lên 329 sản phẩm năm 2000 Doanh thu từ các loại sản phẩm này cũng tăng mạnh, từ 35.9 tỷ Yên năm 1980 lên 140.2 tỷ Yên năm 2000, gấp 3 lần trong 20 năm.

Thứ hai, thu nhập bình quân đầu người quận Oita được cải thiện

Bảng 2.3: Thu nhập bình quân đầu người của quận Oita và xếp hạng

Thu nhập bình quân đầu người (Nghìn yên) 1.405 1.736 2.387 2.665 2.798 2.647

Thu nhập bình quân đầu người của Quận Oita tăng từ 1.405 ngàn Yên/năm năm 1980 lên đến 2.798 ngàn Yên/năm năm 2000 và 2.647 ngàn Yên/năm năm

Chương trình OVOP từ năm 2003 đã tạo ra cơ hội việc làm đáng kể cho người dân, góp phần giải quyết vấn đề suy giảm dân số Phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm" đã nâng cao nguồn nhân lực tại quận Oita, đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng và du lịch, thu hút đầu tư từ các tập đoàn lớn như Toyota, Canon và Toshiba.

Giải quyết vấn đề việc làm thông qua việc kết nối sản phẩm nông nghiệp với chế biến và mở rộng hệ thống Michi-no-Eki là rất quan trọng Tỉnh Oita, với dân số 1.200.000, có 22 trạm đường, trong khi tỉnh Fukuoka, một đô thị lớn với 5 triệu người, chỉ có 18 trạm Sự phát triển kinh tế tại các khu vực này đã giúp giữ chân người nông dân địa phương và thu hút lao động từ thành phố trở về.

Hình 2.3: Tỷ lệ cung cấp việc làm ở Kyushu Nhật Bản giai đoạn 1998 - 2007

Nguồn:Ministry of Labour Japan

Từ năm 1998 đến 2007, Oita dẫn đầu về tỷ lệ công việc cung cấp cho người dân trong các quận của tỉnh Kyushu, cho thấy đây là địa điểm lý tưởng với nhiều cơ hội việc làm cho cư dân.

Thành công của mô hình OVOP không chỉ giới hạn ở Nhật Bản mà còn mở rộng ra nhiều quốc gia khác trong và ngoài khu vực, như Trung Quốc và Thái Lan, với những kết quả ấn tượng.

Bảng 2.4: Các phong trào OVOP ở châu Á

(3) One Region, One Vista (4)One Village, One Treasure

(10) One Region, One Vision Malaysia (11) Satu Kampung, Satu Produk

Thailand (13) One Tambon, One Product

Cambodia (14) One Village, One Product

Laos (15) Neuang Muang, Neuang Phalittaphan

Mongolia (16) Neg Baag, Neg Shildeg

Nguồn: Trung tâm quốc tế Oita Prefecture

Mô hình “làng thông minh” của Malaysia – giải pháp thông minh trong xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường

2.3.1 Điều kiện sản xuất nông nghiệp của Malaysia

Malaysia là một quốc gia bán đảo nằm ở phía Bắc giáp Thái Lan, phía Đông giáp biển Đông, phía Nam giáp eo biển Singapore và phía Tây giáp eo biển Malacca Ngoài phần đất liền, Malaysia còn có hai bang hải đảo là Sabah và Sarawak ở phía bắc đảo Borneo, giáp với Brunei và Indonesia Hai phần lãnh thổ này được tách biệt bởi biển Đông và có nhiều đặc điểm địa hình tương đồng, với những đồng bằng ven biển xen kẽ rừng núi ở cả Đông và Tây Malaysia.

Malaysia có khí hậu xích đạo với gió mùa tây nam từ tháng 4 đến tháng 10 và gió mùa đông bắc từ tháng 10 đến tháng 12, với lượng mưa trung bình 2.300mm Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 25-28°C, trong khi mùa nóng có thể đạt tới 32°C với độ ẩm 80% Điều kiện tự nhiên và địa hình thuận lợi đã tạo điều kiện phát triển nông nghiệp mạnh mẽ Thời kỳ thuộc địa, Malaysia nổi bật với nguồn tài nguyên khoáng sản và nông sản, trở thành mục tiêu khai thác của thực dân.

Trong thời kỳ công nghiệp hóa, ngành nông nghiệp ở Malaysia đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội Ngành này không chỉ cung cấp công ăn việc làm cho phần lớn lao động mà còn duy trì vị trí quan trọng mặc dù tỷ trọng lao động trong ngành đang có xu hướng giảm.

Hình 2.4: Phân bổ lực lƣợng lao động tham gia vào khu vực nông nghiệp qua các năm ở Malaysia

Nền nông nghiệp Malaysia không chỉ cung cấp lương thực và thực phẩm, mà còn là nguồn nguyên liệu thô quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến, góp phần vào mục tiêu xuất khẩu Ngành này cũng giúp tạo ra sự đồng nhất quốc gia và giải quyết vấn đề nghèo đói cũng như bất bình đẳng xã hội, với tỷ lệ dân số nông thôn dưới mức nghèo khổ giảm từ 21.8% vào năm 1990 xuống còn 10.5% vào năm 2014.

Nông nghiệp Malaysia, giống như ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác, chịu ảnh hưởng từ khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa Đất đai tại đây rất thích hợp cho việc trồng các loại cây như cao su, cọ dầu, dừa, dứa và lúa gạo Nông nghiệp Malaysia được chia thành hai nhóm chính: (1) sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu như cao su, dầu cọ và gỗ, và (2) sản xuất hàng tiêu dùng trong nước, chủ yếu là lúa gạo.

Ngành nông nghiệp hiện nay đang giảm dần tỷ trọng đóng góp vào GDP, từ 13.5% năm 1995 xuống còn 10.5% vào năm 2014 Tuy nhiên, về giá trị tuyệt đối, sản lượng nông nghiệp năm 2014 đạt 20,052 tỷ tấn, tăng gấp 1.5 lần so với năm 1995.

2.3.2 Quá trình thực hiện mô hình

Làng Rimbunan Kaseh, với 100 ngôi nhà hiện đại trên diện tích 12ha đất trước đây hoang hóa, đã trở thành một cộng đồng trù phú với cơ sở hạ tầng đầy đủ cho học tập, vui chơi và thể dục thể thao Mỗi hộ dân sống trong những căn nhà khoảng 100m², có giá từ 16.000 đến 20.000 USD, bao gồm cả nội thất Điểm nổi bật của làng là hệ thống sản xuất nông nghiệp khép kín, bao gồm nuôi trồng thủy sản với khu nuôi tảo và cá, giúp tăng cường sự liên kết trong cộng đồng Nước thải từ nuôi trồng được xử lý để tưới cho cánh đồng, trong khi chất thải hữu cơ được dùng làm thức ăn cho gia cầm Nhờ vào các chu trình này, người dân có thêm thu nhập từ 400 đến 650 USD mỗi năm Môi trường sống được bảo vệ nhờ năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học và thủy điện, cùng với cơ sở giáo dục và y tế được trang bị Internet 4G và công nghệ hiện đại.

Làng Rimbunan Kaseh được hình thành từ sự hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân nông thôn và thúc đẩy sự phát triển cân bằng giữa khu vực thành phố và nông thôn.

2.3.2.2 Nhận xét về mô hình Đây là mô hình mà các mắt xích đại diện nhƣ nông dân, doanh nghiệp, chính quyền Các mắt xích này đều có những nhiệm vụ riêng để phát triển bình thường – phát triển kinh tế Song các mắt xích này cần có những nhiệm vụ chung cho phát triển bền vững hay kinh tế xanh nói chung Nói cách khác, ba mắt xích này cần cân bằng, phát triển hài hòa, liên kết giữa các nhiệm vụ và các mắt xích hợp tác Các bên tham gia cần ký chung một cam kết hợp tác để tham gia vào mô hình Và đặc biệt, các bên cần lồng ghép trong các chính sách là sự ƣu tiên cho phát triển, bảo tồn các yếu tố tự nhiên, đặc biệt là môi trường đất

+ Thời gian nghỉ cho đất hay các phương pháp cải tạo đất

+ Sử dụng hợp lý phân bón, thuốc bảo vệ thực vật

+ Xử lý các phụ phẩm nông nghiệp

2.3.3 Kết quả việc áp dụng mô hình làng thông minh ở Malaysia Ông Ellis Rubenstein, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Viện Hàn lâm Khoa học New York và đồng chủ tịch Hội đồng Tƣ vấn Khoa học và Đổi mới Toàn cầu, nhận xét: “Mô hình của Malaysia là một “cơ hội tuyệt vời” để cải thiện cuộc sống của những người nghèo khó trên toàn thế giới Các làng thông minh này khi được liên kết với nhau có thể trao đổi dịch vụ và tạo ra hàng nghìn việc làm cho tất cả người dân”

Quá trình xóa đói giảm nghèo ở Malaysia đã gặp nhiều khó khăn, nhưng tỷ lệ đói nghèo đã giảm mạnh trong hai thập kỷ qua nhờ vào mô hình sáng tạo Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon đã khen ngợi những nỗ lực của Malaysia, coi đây là một kinh nghiệm quý báu có thể áp dụng cho nhiều quốc gia khác Tập đoàn IRIS Corporation Berhad đã giới thiệu dự án tại Hội thảo GSIAC ở San Jose, California, vào tháng 7/2014 Chính quyền Malaysia cam kết mở rộng mô hình này ra 12 khu vực, nhằm xây dựng một mạng lưới “cộng đồng thông minh” và thúc đẩy sự phát triển bền vững cho nông thôn trong tương lai.

Israel và mô hình nông nghiệp công nghệ cao

2.4.1 Điều kiện sản xuất nông nghiệp ở Israel

Israel là một quốc gia nhỏ bé ở Trung Đông, với diện tích chỉ hơn 20.000 km² Đặc điểm địa lý của nước này rất khắc nghiệt, khi 2/3 diện tích là sa mạc và phần còn lại chủ yếu là đồi núi đá trọc Khí hậu ở Israel cực kỳ khô hạn, với 95% lãnh thổ được phân loại là bán khô hạn, khô hạn hoặc rất khô hạn.

Israel thiếu nguồn nước tự nhiên cho nông nghiệp, với lượng mưa trung bình hàng năm chỉ khoảng 500 mm Nhiệt độ mùa hè có thể đạt tới 40 độ C, trong khi mùa đông lại lạnh hơn.

Với nhiệt độ ban đêm xuống thấp chỉ từ 3 - 8 độ C và độ ẩm không khí cực thấp, nông nghiệp truyền thống tại Israel gặp nhiều khó khăn Bên cạnh những bất lợi từ khí hậu khắc nghiệt và thiếu tài nguyên, Israel còn phải đối mặt với xung đột và chiến tranh Dù vậy, nền kinh tế Israel vẫn đạt được nhiều thành tựu ấn tượng, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao và nông nghiệp, được xem như một "phép màu".

 Điều kiện lịch sử - kinh tế

Vào những năm 1880, thị trấn Petach Tikva thu hút ngày càng nhiều người tị nạn Do Thái Sau Thế chiến I, Palestine trở thành thuộc địa của Anh, khiến người Do Thái không chỉ phải đối mặt với sự săn lùng của phát xít Đức mà còn bị cấm tị nạn tại đây Mặc dù vậy, họ vẫn tổ chức thành các cộng đồng nhỏ xung quanh những thành phố lớn, chờ đợi cơ hội để thành lập nhà nước riêng.

Họ sống chủ yếu bằng nghề nông Năm 1944, họ tổ chức các mô hình hợp tác xã, tên Do Thái là Kibbutz

Năm 1948, Israel được thành lập và phải đối mặt với tình trạng thiếu nước nghiêm trọng do 95% diện tích đất khô cằn Cuộc cách mạng nông nghiệp năm 1965, do kỹ sư Simcha Blass và công ty Netafim khởi xướng với hệ thống tưới nhỏ giọt, đã tạo ra bước ngoặt cho nông nghiệp Israel Từ 1950 đến 1970, mặc dù phải chịu áp lực từ chiến tranh, GDP bình quân đầu người của Israel vẫn tăng gần 4 lần trong khi dân số tăng gấp 3 lần, nhờ vào sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ vào nền kinh tế và quản lý các dự án lớn như cầu cống, đường xá và hệ thống cấp thoát nước Giữa thập niên 1960, sau khi hoàn thành các công trình cơ sở hạ tầng, Israel đã chuyển đổi từ quản lý nhà nước tập trung sang kinh tế tư nhân.

Năm 1967, chiến thắng trong cuộc chiến sáu ngày đã giúp Israel mở rộng diện tích lãnh thổ gấp ba lần, tạo ra nhu cầu cấp thiết về phát triển hạ tầng Kết quả là, trong hai năm 1967-1968, đầu tư ngân sách nhà nước cho chi tiêu công cộng đã tăng vọt 725%.

Năm 1973, sau cuộc chiến tranh với Ai Cập, Israel rơi vào thời kỳ khó khăn với tổn thất nặng nề Trong bối cảnh đó, chính phủ buộc phải vay nợ nước ngoài ngắn hạn với lãi suất cao, đồng thời độc quyền thị trường vốn và quy định lãi suất cũng như phát hành trái phiếu Đầu tư vào các dự án tư nhân nhằm kích thích nền kinh tế đã dẫn đến lạm phát Để đối phó, chính phủ đã thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát bằng chỉ số CPI, điều này đã tạo ra siêu lạm phát ở Israel trong thập niên 1980, đạt đỉnh 445% vào năm 1984.

Từ thập niên 1990, Israel đã trải qua giai đoạn phục hồi và phát triển kinh tế mạnh mẽ bằng cách cắt giảm nợ công và tái cấu trúc vai trò của nhà nước trên thị trường vốn, tạo điều kiện cho khối tư nhân phát triển Để thích ứng với các điều kiện tự nhiên và chính trị, Israel đã chọn đầu tư vào công nghệ cao, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và nông nghiệp Bên cạnh đó, quốc gia này cũng chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài nhờ vào nguồn lực chất xám và tinh thần kinh doanh, đồng thời tận dụng sự hỗ trợ từ cộng đồng người Do Thái ở nước ngoài.

Chính phủ Israel đã chuyển đổi tư duy lãnh đạo kinh tế từ can thiệp cứng nhắc sang quản lý vĩ mô, đóng vai trò chất xúc tác cho sự phát triển của khối kinh tế tư nhân Năm 2003, Thủ tướng Ariel Sharon thực hiện các cải cách kinh tế mạnh mẽ, bao gồm cắt giảm thuế, giảm lương nhà nước và tư nhân hóa nhiều lĩnh vực, từ hàng không đến viễn thông Kết quả là, Israel đã trở thành trung tâm sáng tạo hàng đầu thế giới với nhiều thành tựu công nghệ, phép màu nông nghiệp và thu hút đầu tư mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn.

2.4.2 Mô hình nông nghiệp công nghệ cao

2.4.2.1 Sự kết hợp giữa các “nhà”

Lịch sử phát triển kinh tế Israel cho thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế qua nhiều công cụ khác nhau, tùy thuộc vào từng giai đoạn Trong giai đoạn 1948-1970, chính phủ hoạt động như một doanh nhân chủ chốt, thu hút khu vực kinh tế tư nhân với nhiều doanh nghiệp nhỏ Ngược lại, từ 1990 đến nay, các hoạt động của chính phủ đã trở thành chất xúc tác mạnh mẽ cho sự phát triển vượt bậc của khu vực kinh tế tư nhân.

Israel là quốc gia hàng đầu thế giới về nguồn vốn nhà nước dành cho đầu tư nghiên cứu và phát triển kỹ thuật nông nghiệp Đặc biệt, Israel cũng dẫn đầu trong việc áp dụng công nghệ cao vào nông nghiệp Theo dữ liệu công bố vào ngày 06/10/2014 trên trang web đầu tư tại Israel, hàng năm, quốc gia này đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

Chính phủ đã đầu tư 90 triệu đô la Mỹ vào nghiên cứu và phát triển (R&D), trong đó 50 triệu đô la được dành riêng cho lĩnh vực nông nghiệp Hơn nữa, để hỗ trợ nông dân, chính phủ cũng triển khai các thí nghiệm và cung cấp hỗ trợ sản xuất nhằm đưa những thành quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Chính phủ Israel thực hiện kiểm soát chặt chẽ sản xuất nông nghiệp thông qua hệ thống trợ cấp và định mức nước tiêu thụ cho từng mùa vụ, đồng thời đầu tư vào nông trại kỹ thuật cao và quy hoạch cải tạo đất Bộ Nông nghiệp Israel hỗ trợ và quản lý toàn bộ hoạt động nông nghiệp, từ nghiên cứu thị trường đến việc thiết lập tiêu chuẩn nông sản và kế hoạch phát triển Sự can thiệp của nhà nước đảm bảo ổn định vĩ mô, đồng thời tạo cơ hội cho tư nhân hóa, góp phần vào động lực phát triển bền vững.

 Nhà khoa học và nhà nông

Nông nghiệp công nghệ cao ở Israel nổi bật với sự kết hợp chặt chẽ giữa khoa học và nông dân Các nhà khoa học không chỉ thực tế mà còn gần gũi với đồng ruộng, nhiều người trong số họ là nông dân hoặc tư vấn trực tiếp cho nông dân Tại các trung tâm nông nghiệp lớn, có các phòng nghiên cứu và đại diện của viện khoa học, nơi mà các nghiên cứu mới được thử nghiệm và nông dân được mời tham quan, trao đổi ý kiến Sau khi thu thập phản hồi, các thử nghiệm được triển khai trên một số hộ nông dân với sự hỗ trợ tài chính từ hệ thống tài chính vi mô hoặc quỹ của viện thí nghiệm, trước khi mở rộng sản xuất với sự tư vấn kỹ thuật chặt chẽ từ các nhà khoa học.

Mạng lưới dịch vụ nông nghiệp trực tuyến tạo ra sự tương tác hai chiều giữa các nhà khoa học và nông dân, giúp nông dân tiếp cận thông tin về nông nghiệp, thị trường và kỹ thuật canh tác Họ nhận được tư vấn và hỗ trợ, đồng thời những khó khăn của họ được chuyển đến các nhà nghiên cứu để tìm kiếm giải pháp Các kết quả nghiên cứu cũng được trao đổi nhanh chóng, tạo điều kiện thử nghiệm trực tiếp trên đồng ruộng và điều chỉnh hiệu quả hơn.

ÁP DỤNG CÁC MÔ HÌNH VÀO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT

Ngày đăng: 04/08/2021, 06:50

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
 Cao Đức Phát, 2015, Diễn đàn Kết nối doanh nghiệp Việt kiều với doanh nghiệp trong nước và cuộc họp nhóm về công tác thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Bộ NN và PTNT, Tp Hồ Chí Minh, ngày 9/2/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diễn đàn Kết nối doanh nghiệp Việt kiều với doanh nghiệp trong nước và cuộc họp nhóm về công tác thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
Năm: 2015
 Hoàng Vũ Quang, Nguyễn Tiến Định 2015, Tham luận Phát triển Hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp, Hội thảo Tái cơ cấu nông nghiệp, Học viện nông nghiệp Việt Nam tổ chức, Hà Nội 17/1/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tham luận Phát triển Hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp
Năm: 2015
 Nguyễn Đỗ Anh Tuấn 2014, Hội thảo về những cơ hội và thách thức mở ra trong năm 2015 của ngành Nông nghiệp, Hà Nội, ngày 29/12/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội thảo về những cơ hội và thách thức mở ra trong năm 2015 của ngành Nông nghiệp
Năm: 2014
 Nguyễn Hữu Dũng 2015, Tọa đàm “Tiêu thụ nông sản: Liên kết từ sản xuất đến thị trường”, Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ tổ chức, 27/4/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tọa đàm “Tiêu thụ nông sản: Liên kết từ sản xuất đến thị trường”
Năm: 2015
 Thái Hương 2012, Diễn đàn “Ứng dụng công nghệ cao phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua đối tác công tư”, Vụ Hợp tác Quốc tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức, Hà Nội, ngày 3/8/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diễn đàn “Ứng dụng công nghệ cao phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua đối tác công tư
Năm: 2012

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w