1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ảnh hưởng từ dự toán sản xuất kinh doanh tới kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa việt nam

185 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 185
Dung lượng 2 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU (20)
    • 1.1. Ảnh hưởng từ sự rõ ràng của mục tiêu dự toán (20)
    • 1.2. Ảnh hưởng từ mức độ khó trong mục tiêu dự toán (23)
    • 1.3. Ảnh hưởng từ sự phản hồi thông tin dự toán (25)
    • 1.4. Ảnh hưởng từ phạm vi sử dụng và tần suất sử dụng dự toán (28)
    • 1.5. Ảnh hưởng từ sự tinh vi của dự toán (30)
    • 1.6. Ảnh hưởng từ sự tham gia của nhà quản lý vào dự toán (32)
    • 1.7. Vai trò của đặc điểm doanh nghiệp đối với mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động (37)
    • 1.8. Khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo được thực hiện (38)
      • 1.8.1. Khoảng trống nghiên cứu (38)
      • 1.8.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo được thực hiện trong luận án (39)
  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT, GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (42)
    • 2.1. Một số vấn đề về dự toán sản xuất kinh doanh (42)
      • 2.1.1. Khái niệm dự toán sản xuất kinh doanh (42)
      • 2.1.2. Các chức năng của dự toán sản xuất kinh doanh (44)
      • 2.1.3. Các khía cạnh đặc trưng của dự toán sản xuất kinh doanh (48)
    • 2.2. Một số vấn đề về kết quả hoạt động của doanh nghiệp (50)
      • 2.2.1. Kết quả hoạt động của nhà quản lý (51)
      • 2.2.2. Kết quả tài chính (51)
      • 2.2.3. Kết quả phi tài chính (53)
      • 2.2.4. Kết quả thực hiện dự toán (54)
    • 2.3. Các lý thuyết sử dụng trong luận án (54)
      • 2.3.1. Lý thuyết đại diện (55)
      • 2.3.2. Lý thuyết động lực (56)
      • 2.3.3. Lý thuyết bất định (57)
    • 2.4. Các giả thuyết nghiên cứu (58)
      • 2.4.1. Sự rõ ràng của mục tiêu dự toán và kết quả hoạt động của DNNVV Việt Nam (58)
      • 2.4.2. Mức độ khó của mục tiêu dự toán và kết quả hoạt động của DNNVV Việt Nam (59)
      • 2.4.3. Sự phản hồi thông tin dự toán và kết quả hoạt động của DNNVV Việt Nam (59)
      • 2.4.3. Phạm vi và tần suất sử dụng dự toán và kết quả hoạt động DNNVV Việt Nam (60)
      • 2.4.4. Sự tinh vi của dự toán và kết quả hoạt động của DNNVV Việt Nam (61)
      • 2.4.5. Sự tham gia của nhà quản lý vào dự toán và kết quả hoạt động của DNNVV Việt Nam (61)
      • 2.4.6. Vai trò trung gian của kết quả hoạt động của nhà quản lý (62)
      • 2.4.7. Vai trò của quy mô doanh nghiệp (63)
    • 2.5. Mô hình nghiên cứu (64)
  • CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (68)
    • 3.1. Quy trình nghiên cứu (68)
    • 3.2. Phương pháp nghiên cứu định tính (69)
      • 3.2.1. Nhiệm vụ của nghiên cứu định tính (69)
      • 3.2.2. Nghiên cứu định tính giai đoạn 1 (70)
      • 3.2.3. Nghiên cứu định tính giai đoạn 2 (71)
      • 3.2.4. Hệ thống thang đo dự kiến (71)
    • 3.3. Nghiên cứu định lượng sơ bộ (79)
      • 3.3.1. Thiết kế nghiên cứu (79)
      • 3.3.2. Phân tích dữ liệu (79)
    • 3.4. Nghiên cứu định lượng chính thức (79)
      • 3.4.1. Chọn mẫu (79)
      • 3.4.2. Xử lý dữ liệu (82)
  • CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (91)
    • 4.1. Kết quả nghiên cứu định tính (91)
      • 4.1.1. Kết quả nghiên cứu định tính giai đoạn 1 (91)
      • 4.1.2. Kết quả nghiên cứu định tính giai đoạn 2 (95)
    • 4.2. Kết quả nghiên cứu định lượng (99)
      • 4.2.1. Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ (99)
      • 4.2.2. Kết quả nghiên cứu định lượng chính thức (100)
  • CHƯƠNG 5 113BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ (124)
    • 5.1. Bàn luận kết quả nghiên cứu (124)
      • 5.1.1. Bàn luận về dự toán sản xuất kinh doanh trong DNNVV Việt Nam (124)
      • 5.1.2. Bàn luận về ảnh hưởng từ sự rõ ràng của mục tiêu dự toán tới kết quả hoạt động DNNVV Việt Nam (125)
      • 5.1.3. Bản luận về ảnh hưởng từ mức độ khó của mục tiêu dự toán tới kết quả hoạt động DNNVV Việt Nam (125)
      • 5.1.4. Bàn luận về ảnh hưởng từ sự phản hồi thông tin dự toán tới kết quả hoạt động DNNVV Việt Nam (126)
      • 5.1.5. Bàn luận về ảnh hưởng từ phạm vi và tần suất sử dụng dự toán tới kết quả hoạt động DNNVV Việt Nam (127)
      • 5.1.6. Bản luận về ảnh hưởng từ sự tinh vi của dự toán tới kết quả hoạt động (128)
      • 5.1.7. Bàn luận về ảnh hưởng từ sự tham gia của nhà quản lý vào dự toán tới kết quả hoạt động DNNVV Việt Nam (128)
      • 5.1.8. Bàn luận về vai trò trung gian của kết quả hoạt động của nhà quản lý (129)
      • 5.1.9. Bàn luận về vai trò của đặc điểm quy mô trong mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động DNNVV Việt Nam (130)
    • 5.2. Một số khuyến nghị (132)
      • 5.2.1. Khuyến nghị đối với nhà quản lý doanh nghiệp (132)
      • 5.2.2. Khuyến nghị đối với các hiệp hội doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo (135)
    • 5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu trong tương lai (135)
      • 5.3.1. Hạn chế của nghiên cứu (135)
      • 5.3.2. Các hướng nghiên cứu trong tương lai (136)
  • KẾT LUẬN (41)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (142)
  • PHỤ LỤC (155)

Nội dung

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Ảnh hưởng từ sự rõ ràng của mục tiêu dự toán

Theo Yuen (2004), sự rõ ràng của mục tiêu dự toán (Budget goal clarity) là việc diễn đạt mục tiêu một cách cụ thể và chi tiết, giúp nhà quản lý hiểu và thực hiện hiệu quả Kenis (1979) cũng nhấn mạnh rằng sự rõ ràng này cho phép các nhà quản lý bộ phận hiểu rõ các tuyên bố của cấp trên về mục tiêu cần thực hiện Mức độ rõ ràng của mục tiêu được thể hiện qua khả năng của nhà quản lý bộ phận trong việc trả lời hai câu hỏi cơ bản.

(1) Nhiệm vụ được giao là gì?

(2) Cần làm những gì để thực hiện được mục tiêu được giao?

Trong các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa dự toán và kết quả hoạt động doanh nghiệp, sự rõ ràng của mục tiêu dự toán được xem là một yếu tố quan trọng Nhiều nghiên cứu trong suốt nhiều năm, như của Kenis (1979), Hirst (1981, 1987), Yuen (2004) và Ivancevich & McMahon (1982), đã chỉ ra mối liên hệ có ý nghĩa giữa sự rõ ràng của mục tiêu dự toán và kết quả hoạt động của doanh nghiệp Hướng nghiên cứu này nhấn mạnh vai trò của chức năng lập kế hoạch trong dự toán, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp.

Dự toán là công cụ quản lý quan trọng, với chức năng lập kế hoạch giúp cụ thể hóa các mục tiêu kinh doanh thành chỉ tiêu tài chính rõ ràng cho từng cá nhân và bộ phận trong doanh nghiệp Quản lý dựa trên các chỉ tiêu dự toán vẫn là phương thức phổ biến, vì việc mô tả mục tiêu một cách rõ ràng có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động Mục tiêu dự toán rõ ràng sẽ thúc đẩy động lực làm việc của các nhà quản lý, trong khi mục tiêu mơ hồ sẽ gây khó khăn trong việc thực hiện Nghiên cứu của Kenis (1979) đã khẳng định tầm quan trọng của việc thiết kế mục tiêu dự toán một cách cụ thể.

Trong nghiên cứu của Kenis (1979), 500 nhà quản lý từ các công ty sản xuất tại Philadelphia, Mỹ đã được khảo sát qua bảng hỏi, trong đó 298 phiếu trả lời được thu thập Phân tích hồi quy tuyến tính cho thấy, mục tiêu dự toán rõ ràng hơn sẽ dẫn đến kết quả hoạt động cao hơn Mức độ rõ ràng của mục tiêu được đánh giá qua nhận định của các nhà quản lý về khả năng hiểu nội dung, thứ tự ưu tiên và cách thức thực hiện mục tiêu, sử dụng thang điểm từ 1 (Rất không đồng ý) đến 5 (Rất đồng ý) Kết quả hoạt động cũng được đo lường bằng thang đo Likert 5 mức độ, liên quan đến thái độ chấp hành dự toán, động lực hoạt động, cảm giác hài lòng với công việc, thái độ tham gia vào dự toán và mức độ đạt được mục tiêu dự toán do tác giả phát triển.

Nghiên cứu của Kenis (1979) đã nhận được sự hỗ trợ từ nhiều nghiên cứu sau này, bao gồm Simon (1997), Qi (2010), Lu (2011), Faith (2013) và Jamil (2015) Đặc biệt, nghiên cứu của Qi (2010) trên các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Trung Quốc, một quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi, cũng cho thấy kết quả tương tự Phân tích hồi quy dựa trên dữ liệu từ 75 phiếu trả lời của các nhà quản lý DNNVV tại ba tỉnh đã xác nhận những phát hiện này.

Nghiên cứu tại Hồ Nam, Hồ Bắc và Quảng Đông cho thấy sự rõ ràng của mục tiêu dự toán có ảnh hưởng tích cực đến khả năng đạt được mục tiêu và sự hài lòng của nhà quản lý Các nghiên cứu sau này, như của Jamil (2015), đã mở rộng khái niệm đo lường kết quả hoạt động bằng cách bổ sung các yếu tố như tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận, chỉ ra rằng sự rõ ràng của mục tiêu dự toán càng cao thì doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp càng tăng, dựa trên khảo sát 68 doanh nghiệp nhỏ tại Ấn Độ Tương tự, nghiên cứu của Faith (2013) sử dụng tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA) cũng xác nhận mối quan hệ tích cực giữa sự rõ ràng của mục tiêu và kết quả tài chính của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Yuen (2004) cho thấy sự rõ ràng của mục tiêu dự toán ảnh hưởng gián tiếp đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp và nhà quản lý bằng cách hạn chế sự phát sinh dự toán lỏng Dự toán lỏng xảy ra khi các nhà quản lý điều chỉnh mục tiêu dự toán dễ dàng hơn bằng cách hạ thấp chỉ tiêu kết quả và nâng cao chỉ tiêu nguồn lực sử dụng (Dunk, 1993) Sự hình thành dự toán lỏng làm giảm động lực làm việc của các nhà quản lý, từ đó tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Cụ thể, nghiên cứu trên các nhà quản trị khách sạn tại Macau cho thấy sự rõ ràng của mục tiêu dự toán có tác động mạnh mẽ và ngược chiều tới khuynh hướng phát sinh dự toán lỏng, với hệ số Beta là -0.6078, cho thấy mục tiêu dự toán càng rõ ràng thì khả năng phát sinh dự toán lỏng càng thấp (Yuen, 2004).

Nghiên cứu về ảnh hưởng của sự rõ ràng trong mục tiêu dự toán đối với kết quả hoạt động của doanh nghiệp và nhà quản lý đang trở thành một xu hướng phổ biến Sự đa dạng trong cách đo lường kết quả hoạt động tạo ra sự khác biệt giữa các nghiên cứu trong lĩnh vực này Một số nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng trực tiếp của sự rõ ràng mục tiêu dự toán đến hiệu suất doanh nghiệp (Kenis, 1979), trong khi những nghiên cứu khác lại xem xét ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc sử dụng dự toán lỏng (Yuen, 2004) Phân tích hồi quy tuyến tính là phương pháp thường được áp dụng trong các nghiên cứu trước đây để làm rõ mối quan hệ giữa sự rõ ràng của mục tiêu dự toán và kết quả hoạt động doanh nghiệp, nhưng phương pháp này chưa thể chỉ ra mối liên hệ với các biến nghiên cứu khác cũng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động.

Ảnh hưởng từ mức độ khó trong mục tiêu dự toán

Mức độ khó của mục tiêu dự toán, hay độ chặt của mục tiêu, là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động Được thể hiện qua nhận định của nhà quản lý về việc cần sử dụng kỹ năng, thời gian và công sức như thế nào để đạt được các mục tiêu, độ khó này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện mục tiêu của nhà quản lý Tính khả thi của mục tiêu dự toán là một yếu tố then chốt, theo Kenis (1979), trong việc đánh giá sự thành công của quá trình quản lý.

Theo Kenis (1979), việc đánh giá mục tiêu dự toán dễ dàng có thể làm giảm động lực làm việc của nhà quản lý, trong khi mục tiêu quá khó lại gây nghi ngờ về tính khả thi, ảnh hưởng tiêu cực đến sự hài lòng và kết quả hoạt động Nghiên cứu trên 500 nhà quản lý tại Philadelphia cho thấy có mối quan hệ ngược chiều giữa độ khó của mục tiêu và kết quả thực hiện dự toán, sự hài lòng với công việc Kenis đã sử dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích mối liên hệ này, nhưng chưa xem xét vai trò trung gian của động lực và sự hài lòng trong mối quan hệ giữa độ khó của mục tiêu và kết quả hoạt động doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Kenis (1979) đã mở ra hướng nghiên cứu mới, tiếp tục được các tác giả như Hirst (1981, 1990), Mia (1989), Qi (2010), Joshua (2013), Hemsing và Baker (2013), Martin (2015) và Jamil (2015) phát triển, cho thấy mối liên hệ giữa độ khó của mục tiêu dự toán và kết quả hoạt động doanh nghiệp có nhiều chiều hướng khác nhau Đặc biệt, nghiên cứu của Hirst (1990) chỉ ra rằng độ khó của mục tiêu dự toán có tác động tích cực đến kết quả thực hiện dự toán khi kết hợp với phản hồi thông tin từ dự toán Qua nghiên cứu định lượng với 44 nhà quản lý cấp cao trong ngành bất động sản tại Anh, kết quả cho thấy việc thiết lập mục tiêu dự toán khó khăn và phản hồi thông tin không nâng cao kết quả thực hiện một cách độc lập, nhưng sự tương tác giữa hai yếu tố này lại dẫn đến kết quả tích cực Điều này chứng tỏ rằng việc nâng cao độ khó mục tiêu dự toán cùng với tăng cường thông tin phản hồi có thể gia tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Martin (2015) chỉ ra rằng độ khó của mục tiêu có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động doanh nghiệp, được chứng minh qua mẫu 97 nhà quản lý tại Đức bằng phương pháp hồi quy tuyến tính và phi tuyến tính Cụ thể, mô hình hồi quy tuyến tính cho thấy mối quan hệ thuận chiều và có ý nghĩa thống kê giữa độ khó mục tiêu và kết quả hoạt động Trong khi đó, mô hình hồi quy phi tuyến tính xác nhận mối quan hệ này chỉ khi kiểm soát biến số đo lường tính linh hoạt Khác với nghiên cứu của Hirst (1990) và Kenis (1979) sử dụng mức độ thực hiện dự toán, Martin (2015) phát triển phương pháp đo lường kết quả hoạt động qua ROA, phản ánh chính xác hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Qi (2010) trên các DNNVV Trung Quốc đã kế thừa mô hình của Kenis (1979) và mở rộng thang đo kết quả hoạt động doanh nghiệp về tài chính, bao gồm tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận Kết quả cho thấy độ khó của mục tiêu dự toán không chỉ thúc đẩy động lực làm việc của nhà quản lý mà còn nâng cao kết quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp Cụ thể, độ khó mục tiêu càng cao thì tốc độ tăng lợi nhuận và doanh thu của doanh nghiệp càng lớn.

Mối quan hệ giữa độ khó của mục tiêu dự toán và kết quả hoạt động doanh nghiệp đã được khẳng định qua nhiều nghiên cứu, mặc dù vẫn còn sự không thống nhất trong kết quả Độ khó của mục tiêu dự toán có thể thúc đẩy động lực làm việc và nâng cao kết quả hoạt động doanh nghiệp, như nghiên cứu của Qi (2010), Hirst (1990) và Martin (2015) đã chỉ ra Tuy nhiên, nó cũng có thể gây áp lực công việc và ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả, theo nghiên cứu của Kenis (1979) Việc mở rộng thang đo kết quả hoạt động doanh nghiệp là cơ sở cho những nghiên cứu mới, như đã được đề cập trong các công trình của Martin (2015) và Jamil (2015).

Ảnh hưởng từ sự phản hồi thông tin dự toán

Dự toán không chỉ là công cụ tổng hợp mà còn thực hiện nhiều chức năng quản lý quan trọng, đặc biệt là lập kế hoạch và kiểm soát Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp, trong đó sự phản hồi thông tin dự toán được nhiều tác giả như Caroll và Tosy (1970), Kenis (1979), Brownell (1981), Lukka (1988), Kren (1992) và Chong và Chong (2002) đặc biệt quan tâm.

(2015) là điển hình cho hướng nghiên cứu này

Theo Hirst và Lowy (1990), sự phản hồi thông tin dự toán (Budgetary feedback) là tần suất mà nhà quản lý bộ phận nhận được thông tin đánh giá về việc hoàn thành các chỉ tiêu dự toán Hai tác giả cũng chỉ ra rằng sự phản hồi này ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến kết quả hoạt động doanh nghiệp thông qua việc thiết lập mục tiêu dự toán ở mức độ khó cao Họ đã thực hiện phân tích hồi quy tuyến tính trên mẫu nghiên cứu nhỏ gồm 44 nhà quản lý doanh nghiệp tại New South Wales.

Nghiên cứu của Hirst và Lowy (1990) chỉ ra rằng sự phản hồi thông tin dự toán có mối quan hệ ngược chiều với kết quả hoạt động doanh nghiệp, nhưng khi kết hợp với độ khó của mục tiêu dự toán, tác động này lại thay đổi chiều hướng Cụ thể, việc thiết lập mục tiêu dự toán khó khăn và tăng cường phản hồi thông tin sẽ nâng cao kết quả hoạt động doanh nghiệp Kết quả hoạt động được đo lường qua đánh giá của nhà quản lý về mức độ hoàn thành các chỉ tiêu dự toán, từ không bao giờ hoàn thành đến luôn luôn hoàn thành Nghiên cứu này phát triển từ nền tảng của Kenis (1979) và làm rõ hơn ảnh hưởng của phản hồi thông tin dự toán đến kết quả hoạt động doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Kenis (1979) đã xem xét sự phản hồi thông tin dự toán như một yếu tố quan trọng trong doanh nghiệp, cho thấy rằng sự phản hồi này có tác động tích cực đến động lực làm việc và sự hài lòng của nhà quản lý Nếu không nhận được phản hồi về kết quả thực hiện mục tiêu, nhà quản lý sẽ không thể đánh giá được thành công hay thất bại của mình, dẫn đến giảm động lực và sự hài lòng với công việc (Becker và Green, 1962) Tuy nhiên, khi kiểm định giả thuyết về mối quan hệ giữa sự phản hồi từ dự toán và kết quả thực hiện dự toán, Kenis (1979) không tìm thấy mối liên hệ có ý nghĩa thống kê Sự phản hồi thông tin dự toán được đo lường bằng thang đo Likert 7 mức độ trên ba khía cạnh khác nhau.

+ Mức độ thường xuyên nhận được phản hồi về thành tích khi hoàn thành các mục tiêu dự toán được giao

+ Mức độ thông tin được cung cấp về chênh lệch giữa mục tiêu dự toán với kết quả thực tế và những hướng dẫn xử lý chênh lệch

Mức độ nhận biết của nhà quản lý cấp trên đối với kết quả thực hiện dự toán của nhà quản lý cấp dưới trong phạm vi thẩm quyền là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý Sự hiểu biết này giúp cấp trên đánh giá chính xác tình hình tài chính và đưa ra quyết định kịp thời, nâng cao hiệu suất làm việc của toàn bộ tổ chức Việc theo dõi và phân tích kết quả thực hiện dự toán không chỉ hỗ trợ trong việc kiểm soát ngân sách mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Chong và Chong (2002) kế thừa thang đo mức độ phản hồi thông tin dự toán từ Kenis (1979), xem xét nhân tố này như một biến điều tiết trong mối quan hệ giữa sự tham gia của nhà quản lý vào quy trình dự toán và kết quả hoạt động Thông qua mẫu phỏng vấn 120 quản lý cấp trung tại 80 công ty sản xuất ở Perth, Australia, nghiên cứu cho thấy mức độ tham gia của quản lý vào quy trình dự toán có thể gia tăng khả năng đạt mục tiêu dự toán nếu có sự tác động của mức độ phản hồi thông tin cao.

Nghiên cứu của Lu (2011) chỉ ra rằng mức độ thông tin phản hồi từ dự toán ảnh hưởng đến nhận thức của nhà quản lý về dự toán sản xuất kinh doanh Dữ liệu khảo sát từ các nhà quản lý bệnh viện công tại Trung Quốc cho thấy, khi mức độ phản hồi thông tin dự toán tăng lên, động lực và thái độ của nhà quản lý đối với dự toán cũng được cải thiện Hơn nữa, nghiên cứu còn chứng minh rằng sự phản hồi thông tin dự toán có tác động tích cực gián tiếp đến kết quả thực hiện dự toán Đồng thời, mức độ phản hồi thông tin cao cũng giúp hạn chế xu hướng phát sinh dự toán lỏng trong quản lý.

(Lu, 2011) Tuy nhiên việc hạn chế phát sinh dự toán lỏng này chưa chứng minh được mối quan hệ có ý nghĩa tới kết quả thực hiện dự toán

Nghiên cứu trong nước đã nhấn mạnh tầm quan trọng của phản hồi thông tin dự toán đối với kết quả hoạt động doanh nghiệp Các nghiên cứu của Giang Thị Xuyên (2002), Phạm Thị Thủy (2007), và Trần Trung Tuấn (2016) khẳng định vai trò then chốt của dự toán sản xuất kinh doanh trong hệ thống thông tin kế toán quản trị Cụ thể, Phạm Thị Thủy (2007) chỉ ra rằng dự toán là công cụ quan trọng cho việc phân tích biến động chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, và chi phí sản xuất chung, từ đó cung cấp thông tin cần thiết cho kiểm soát chi phí Tác giả cũng đề xuất rằng việc cung cấp thông tin về biến động chi phí sẽ giúp các nhà quản lý, đặc biệt là trong bộ phận sản xuất, kiểm soát chi phí hiệu quả hơn, nâng cao kết quả hoạt động doanh nghiệp Tương tự, nghiên cứu của Trần Trung Tuấn cũng đưa ra những giải pháp tương đồng.

Năm 2016 đã chỉ ra mối liên hệ giữa việc phản hồi thông tin từ phân tích biến động doanh thu và chi phí với kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh hệ thống kế toán trung tâm trách nhiệm quản lý.

Sự phản hồi thông tin dự toán là yếu tố quan trọng phản ánh chức năng kiểm soát và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động doanh nghiệp, như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đó chưa đạt được sự đồng thuận về mức độ và phương thức ảnh hưởng của yếu tố này Ví dụ, nghiên cứu của Hirst và Lowy (1990) cho thấy ảnh hưởng ngược chiều trực tiếp đến kết quả thực hiện mục tiêu dự toán, nhưng lại có ảnh hưởng thuận chiều gián tiếp thông qua độ khó của mục tiêu Nhiều nghiên cứu sau này như của Nouri và Parker (1998) cũng khai thác tác động gián tiếp này, cùng với các khía cạnh như tính công bằng (Magner và Johnson, 1995) và tính ổn định của thông tin (Kren, 1992) Tuy nhiên, các nghiên cứu trước chủ yếu dựa vào kết quả thực hiện mục tiêu dự toán để đánh giá hoạt động doanh nghiệp mà chưa mở rộng sang nhiều thang đo khác, và việc chỉ sử dụng phân tích hồi quy tuyến tính cũng hạn chế kết quả nghiên cứu.

Ảnh hưởng từ phạm vi sử dụng và tần suất sử dụng dự toán

Nghiên cứu về ảnh hưởng của đặc điểm mục tiêu dự toán và phản hồi thông tin dự toán đến kết quả hoạt động doanh nghiệp đã thu hút sự chú ý của nhiều tác giả, trong đó có Wijewardena và De Zoysa (2001, 2004), Qi (2010) và Jamil (2015) Theo Wijewardena và De Zoysa, tần suất sử dụng dự toán cao hơn và áp dụng cho nhiều bộ phận sẽ cải thiện đáng kể kết quả hoạt động của doanh nghiệp Tần suất ở đây được hiểu là mức độ thường xuyên áp dụng dự toán trong quản lý, cho thấy sự quan trọng của việc sử dụng dự toán trong các hoạt động doanh nghiệp.

Trong một cuộc khảo sát được thực hiện với 473 nhà quản lý của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong lĩnh vực sản xuất tại Australia, Wijewardena và De Zoysa đã thu thập và phân tích dữ liệu để đưa ra những kết luận quan trọng về hoạt động và hiệu quả quản lý trong ngành này.

Nghiên cứu năm 2001 cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa việc lập kế hoạch thường xuyên và tốc độ tăng doanh thu của doanh nghiệp Bên cạnh đó, tần suất và phạm vi kiểm soát dự toán cũng ảnh hưởng tích cực đến doanh thu Để đo lường các yếu tố này, hai tác giả đã phân chia thành ba cấp độ trong cả hai khía cạnh lập kế hoạch và kiểm tra kiểm soát Trong chức năng lập kế hoạch, ba cấp độ chuẩn hóa của quy trình dự toán đã được xác định.

Thứ nhất: là những doanh nghiệp không lập dự toán

Doanh nghiệp thứ hai thực hiện lập dự toán một cách đơn giản, chỉ tập trung vào một số hoạt động cụ thể mà không có sự liên kết chặt chẽ trong quy trình lập kế hoạch.

Doanh nghiệp thứ ba là những đơn vị lập dự toán chi tiết cho nhiều hoạt động khác nhau, chú trọng vào việc phối hợp hiệu quả các hoạt động trong quy trình dự toán.

Tác giả đã trình bày ba cấp độ chuẩn hóa cho chức năng kiểm soát, tương tự như với chức năng lập kế hoạch Nhóm tác giả khuyến cáo rằng cách phân chia này chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp sử dụng quy trình dự toán trong quản lý Ba cấp độ này giúp cải thiện hiệu quả kiểm soát trong các hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ nhất: là những doanh nghiệp không đo lường chênh lệch giữa kết quả thực tế và kết quả dự toán

Các doanh nghiệp thứ hai áp dụng phân tích chênh lệch để xác định và điều chỉnh các phương pháp phù hợp cho những chỉ tiêu cơ bản.

Thứ ba, các doanh nghiệp áp dụng phân tích chênh lệch để phát triển các phương pháp tối ưu hóa nhiều chỉ tiêu khác nhau liên quan đến doanh thu và chi phí.

Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) để khảo sát mối quan hệ giữa tốc độ tăng doanh thu và tỷ lệ sinh lời trên vốn đầu tư (ROI) dựa trên thang đo Likert 5 mức độ Kết quả cho thấy, tần suất và phạm vi sử dụng dự toán trong lập kế hoạch và kiểm soát cao hơn tương ứng với tốc độ tăng doanh thu cao Tuy nhiên, phân tích ROI không đạt mức ý nghĩa thống kê Nghiên cứu này cũng được kiểm nghiệm trong bối cảnh 168 DNNVV tại Sri Lanka (Wijewardena và De Zoysa, 2004).

Nghiên cứu của Qi (2010) và Jamil (2015) tiếp nối công trình của Wijewardena và De Zoysa (2001, 2004) nhằm khám phá ảnh hưởng của tần suất và phạm vi sử dụng dự toán đến kết quả hoạt động doanh nghiệp tại Trung Quốc và Ấn Độ, hai quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ở Châu Á Cả hai nghiên cứu đều sử dụng thang đo Likert 7 mức độ để đo lường tần suất và phạm vi sử dụng dự toán, trong khi kết quả hoạt động được đánh giá thông qua tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận Phương pháp phân tích của Qi là hồi quy đa biến, khác với phân tích phương sai của nghiên cứu trước Kết quả từ 75 nhà quản lý DNNVV Trung Quốc cho thấy tần suất và phạm vi sử dụng dự toán có tác động tích cực đến tốc độ tăng doanh thu, nhưng không xác định được mối quan hệ với lợi nhuận Ngược lại, nghiên cứu của Jamil trên 268 nhà quản lý DNNVV Ấn Độ chỉ ra mối quan hệ tích cực có ý nghĩa thống kê giữa tần suất và phạm vi sử dụng dự toán với cả tốc độ tăng lợi nhuận và doanh thu.

Phạm Ngọc Toàn (2010) đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa phạm vi áp dụng quy trình dự toán và kết quả hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp Ông cho rằng việc lập dự toán ở các doanh nghiệp siêu nhỏ không hiệu quả, vì nguồn lực tiêu hao cho việc lập dự toán lớn hơn lợi ích thu được Ngược lại, doanh nghiệp lớn cần mở rộng quy trình lập dự toán để nâng cao hiệu quả hoạt động Tác giả cũng nhấn mạnh rằng quy trình dự toán cần được thực hiện liên tục, có sự tham gia của tất cả các bộ phận, nhằm đảm bảo tính linh hoạt và phát triển Mặc dù nghiên cứu đã chỉ ra tầm quan trọng của tần suất và phạm vi áp dụng quy trình dự toán, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở những hàm ý và khuyến nghị mà chưa đi sâu vào phân tích cụ thể.

Nghiên cứu ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt là tần suất và phạm vi sử dụng dự toán, là một hướng đi phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Sự khác biệt trong bối cảnh nghiên cứu, thang đo kết quả hoạt động và phương pháp phân tích đã góp phần làm phong phú thêm kết quả của các nghiên cứu trước đây.

Ảnh hưởng từ sự tinh vi của dự toán

Dự toán sản xuất kinh doanh là yếu tố quan trọng trong hệ thống thông tin quản lý và kế toán quản trị doanh nghiệp, giúp nhà quản lý đưa ra quyết định kinh doanh hợp lý và kịp thời thông qua các ước tính về doanh thu và chi phí tương lai Các chỉ tiêu dự toán được ước lượng chính xác không chỉ hỗ trợ xây dựng kế hoạch kinh doanh hiệu quả mà còn là cơ sở cho việc kiểm tra, kiểm soát và phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong doanh nghiệp Chất lượng thông tin cung cấp quyết định hiệu quả của dự toán, và sự tinh vi của dự toán đã được nhấn mạnh trong nhiều nghiên cứu trước đây như của Raj (1980), Merchant (1981), Pike (1984, 1988, 1989), Farragher (2001), Qi (2010), và Jamil (2015).

Sự tinh vi của dự toán, theo Merchant (1981), phản ánh tính công phu, hiện đại và chuyên nghiệp trong thiết lập và vận hành dự toán sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp Khái niệm này không chỉ liên quan đến việc áp dụng các kỹ thuật hiện đại như hệ thống máy tính và phần mềm dự toán, mà còn phụ thuộc vào yếu tố con người như trình độ chuyên môn và kỹ năng của nhà quản lý, cùng với mức độ tham khảo ý kiến từ các chuyên gia bên ngoài Nghiên cứu của Merchant dựa trên khảo sát 201 nhà quản lý cấp cao từ 19 doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất điện cho thấy rằng sự tinh vi của dự toán được đo lường qua số lượng nhân viên tham gia, mức độ sử dụng máy vi tính và các kỹ thuật dự toán như dự toán năm và dự toán trên cơ sở không Kết quả phân tích hồi quy đa biến chỉ ra rằng việc sử dụng nhiều máy tính và nhân viên cùng với các kỹ thuật dự toán tiên tiến sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Qi (2010) tại Trung Quốc, kế thừa từ Merchant (1981), không tìm thấy mối liên hệ ý nghĩa thống kê giữa sự tinh vi của dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động doanh nghiệp khi sử dụng mô hình hồi quy đa biến Tuy nhiên, khi áp dụng mô hình cấu trúc tuyến tính (Lisrel model), mối quan hệ này lại có ý nghĩa thống kê với tương quan nghịch chiều Mặc dù nghiên cứu của Qi đã cải tiến về thang đo kết quả hoạt động cả về tài chính và phi tài chính, cùng với phương pháp xử lý thông tin tiên tiến, nhưng kết quả không đạt như kỳ vọng trong giả thuyết nghiên cứu Bối cảnh nghiên cứu có thể là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa hai nghiên cứu này.

Trong khi đó những nghiên cứu của nhóm các tác giả Raj (1980), Pike (1984,

Nghiên cứu của Farragher (2001) cho thấy sự tinh vi của dự toán vốn có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động doanh nghiệp Qua khảo sát 177 kế toán trưởng tại các công ty trong danh mục SandP tại Mỹ, nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật dự toán tinh vi hơn sẽ đạt tỷ lệ lợi nhuận cao hơn Sự tinh vi này được đo lường bằng thang đo Likert 5 mức độ, bao gồm các tiêu chí như phân tích chiến lược, mục tiêu đầu tư cụ thể, nghiên cứu đầu tư, dự báo chi phí và lợi nhuận, phân tích rủi ro, đánh giá lại dự báo và kiểm toán sau.

Xu hướng nghiên cứu về ảnh hưởng của sự tinh vi trong dự toán tới kết quả hoạt động doanh nghiệp đang ngày càng phổ biến, với nhiều nghiên cứu trước đây khai thác mối quan hệ này, như các tác phẩm của Pike (1984, 1988, 1989), Farragher (2001), và Verbeeten (2006) trong lĩnh vực dự toán vốn Bên cạnh đó, các nghiên cứu như của Merchant (1981) và Qi (2010) đã tìm hiểu tác động của quy trình dự toán tới kết quả hoạt động doanh nghiệp trong phạm vi dự toán hoạt động Tuy nhiên, sự khác biệt về bối cảnh nghiên cứu, phương pháp đo lường kết quả và phân tích dữ liệu đã dẫn đến những kết quả không đồng nhất Hơn nữa, sự tinh vi của dự toán còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố bất định như công nghệ thông tin, môi trường kinh doanh và cấu trúc doanh nghiệp, do đó, chủ đề này vẫn thu hút sự quan tâm nghiên cứu cho đến nay.

Ảnh hưởng từ sự tham gia của nhà quản lý vào dự toán

Dự toán không chỉ là công cụ lập kế hoạch và kiểm soát mà còn giúp phối hợp hoạt động giữa các bộ phận và các cấp quản lý trong doanh nghiệp để đạt được mục tiêu chung Nhiều nghiên cứu trước đây, như của Argyris (1952), Milani (1975), Kenis (1979), Brownell (1982), và Kren (1990), đã chỉ ra rằng mức độ phân quyền trong việc tham gia dự toán của các nhà quản lý bộ phận có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

Theo Lu (2011) và Jamil (2015), hiệu quả của dự toán phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các nhà quản lý, vì họ là những người vận hành công cụ này Do đó, trong các nghiên cứu về ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp, mức độ tham gia của nhà quản lý vào quy trình dự toán là yếu tố nổi bật nhất.

Sự tham gia của nhà quản lý vào dự toán (Budgetary participation) được hiểu là mức độ mà nhà quản lý có thể tham gia vào việc thiết lập mục tiêu dự toán trong bộ phận của họ và ảnh hưởng của họ đối với việc thực hiện các mục tiêu này Theo Kenis (1979), khi nhà quản lý tham gia nhiều hơn vào việc thiết lập mục tiêu dự toán, tính khả thi của các mục tiêu này sẽ tăng lên, dẫn đến kết quả hoạt động cải thiện Nghiên cứu dựa trên 169 phiếu khảo sát từ các nhà quản lý doanh nghiệp sản xuất tại Philadelphia cho thấy rằng mức độ tham gia dự toán cao hơn liên quan đến kết quả thực hiện dự toán, động lực và sự hài lòng trong công việc của nhà quản lý Tuy nhiên, nghiên cứu chưa chứng minh được mối quan hệ thuận chiều có ý nghĩa giữa mức độ tham gia dự toán và hiệu năng chi phí cũng như kết quả công việc.

Hình 1.1 Mô hình nghiên cứu của Kenis (1979)

Hướng tiếp cận của Kenis (1979) đã được nhiều nghiên cứu sau này tiếp tục mở rộng và làm rõ, như các nghiên cứu của Brownell (1982), Brownell và Mc Innes (1983), Kren (1990), Hirst (1990) và Qi.

Nghiên cứu của Brownell và Mc Innes (1986) chỉ ra rằng mức độ tham gia của nhà quản lý vào quy trình lập dự toán có ảnh hưởng lớn đến cách thức xây dựng dự toán trong doanh nghiệp Khi dự toán được áp đặt từ trên xuống, sự tham gia của các nhà quản lý bộ phận sẽ rất hạn chế, dẫn đến thái độ chống đối khi thực hiện các mục tiêu được giao Ngược lại, quy trình lập dự toán từ dưới lên lại khuyến khích sự hài lòng trong công việc của các nhà quản lý, vì họ có cơ hội tham gia nhiều hơn vào việc thiết lập mục tiêu Nghiên cứu cũng mở rộng mối quan hệ giữa mức độ tham gia của nhà quản lý và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, với động lực làm việc là biến trung gian Dữ liệu được thu thập từ khảo sát 224 quản lý cấp trung của ba công ty độc lập, trong đó có hai công ty điện tử.

Môi trường bên trong tổ chức

+ Sự tham gia dự toán của nhà quản lý bộ phận

+ Sự rõ ràng của mục tiêu dự toán

+ Sự phản hồi thông tin từ dự toán

+ Sự đánh giá bằng dự toán

+ Độ khó của mục tiêu dự toán

Thái độ của nhà quản lý: + Sự hài lòng với công việc + Tham gia vào công việc + Áp lực trong công việc

+ Kết quả dự toán + Kết quả công việc + Hiệu năng chi phí

Thái độ của nhà quản lý trong việc tuân thủ dự toán và động lực từ dự toán đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của một công ty sản xuất thép Nghiên cứu cho thấy mức độ tham gia trực tiếp của nhà quản lý vào dự toán có tác động tích cực đến kết quả hoạt động doanh nghiệp, tuy nhiên không xác định được mối quan hệ gián tiếp thông qua động lực làm việc với mức ý nghĩa thống kê Brownell và Mc Innes (1986) đã đo lường mức độ tham gia của nhà quản lý vào dự toán theo hai thang đo của Milani (1975) và Hofstede (1967), nhưng chỉ thu được kết quả khi áp dụng thang đo của Milani (1975) Theo Milani (1975), mức độ tham gia này được đánh giá dựa trên 7 mức độ khác nhau của các nội dung liên quan.

+ Mức độ tham gia trong hoạt động thiết lập mục tiêu

+ Mức độ phù hợp của việc điều chỉnh dự toán mà cấp trên đưa ra

+ Mức độ thường xuyên được hỏi ý kiến từ cấp trên

+ Mức độ ảnh hưởng của nhà quản lý trực tiếp tới dự toán cuối cùng

+ Mức độ quan trọng của những đóng góp từ nhà quản lý trực tiếp

+ Mức độ thường xuyên đóng góp ý kiến từ nhà quản lý trực tiếp

Nghiên cứu của Shields (1988), Mia (1989), Kren (1992), Young (1993) và Chong (2002) khẳng định rằng sự tham gia của nhà quản lý vào dự toán sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động doanh nghiệp, được đo lường dựa trên đánh giá cá nhân của họ theo thang đo Likert 7 mức độ với 8 chức năng quản lý Những nghiên cứu này cũng mở rộng các biến trung gian tác động đến mối quan hệ giữa mức độ tham gia của nhà quản lý và kết quả hoạt động doanh nghiệp Ví dụ, nghiên cứu của Mia (1989) cho thấy mức độ tham gia cao của nhà quản lý dẫn đến kết quả hoạt động tốt hơn, đặc biệt khi có sự tương tác với công việc khó khăn Nghiên cứu của Lu (2011) chỉ ra rằng sự tham gia của quản lý bộ phận vào dự toán là yếu tố quan trọng, giúp tăng cường nhận thức tích cực đối với dự toán thông qua ba biến trung gian: thái độ, động lực và khuynh hướng sử dụng dự toán lỏng Phân tích CARONICA từ khảo sát 132 nhà quản lý bệnh viện công Trung Quốc cho thấy sự tham gia cao vào dự toán làm tăng động lực và thái độ tích cực, đồng thời hạn chế dự toán lỏng, từ đó tác động tích cực đến kết quả thực hiện dự toán của doanh nghiệp.

Nhiều nghiên cứu đã phân tích mối quan hệ giữa mức độ tham gia của nhà quản lý vào dự toán và kết quả hoạt động của doanh nghiệp theo hướng tiêu cực Khi nhà quản lý tham gia sâu vào việc thiết lập mục tiêu dự toán, họ có xu hướng hạ thấp các mục tiêu và yêu cầu nhiều nguồn lực hơn, điều này có thể giúp họ dễ dàng đạt chỉ tiêu nhưng lại gây tổn hại đến lợi ích chung của doanh nghiệp Các nghiên cứu của Locke và Bryan (1967), Hopwood (1972), Young (1985), Dunk (1990, 1993), Hergert (1999) và Webb (2002) đã chỉ ra rằng mức độ tham gia cao của nhà quản lý có thể dẫn đến kết quả hoạt động kém Đặc biệt, nghiên cứu của Dunk (1990) cho thấy rằng sự tham gia của nhà quản lý kết hợp với các thỏa thuận đánh giá quan trọng có thể làm giảm hiệu suất của doanh nghiệp, điều này được xác nhận qua phân tích hồi quy đa biến từ khảo sát 30 nhà quản lý tại Anh Những kết quả này cũng hỗ trợ cho khuyến cáo của Brownell và Innes (1986) về việc hạ thấp mục tiêu dự toán nhằm giảm áp lực công việc và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp.

Năm 2011, nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ tích cực giữa mức độ tham gia của nhà quản lý trong quá trình lập dự toán và khả năng phát sinh dự toán lỏng trong quản lý Dự toán lỏng, theo Young (1985), là hành vi điều chỉnh mục tiêu dự toán xuống thấp hơn so với khả năng thực tế của các bộ phận trong doanh nghiệp Tại Việt Nam, khái niệm sự tham gia của nhà quản lý vào quy trình dự toán vẫn chưa rõ ràng và thường được gắn liền với mô hình lập dự toán trong doanh nghiệp, như trong nghiên cứu của Phạm Văn Dược (1997).

Phạm Quang (2002) và Phạm Ngọc Toàn (2010) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa kết quả hoạt động của doanh nghiệp và mô hình dự toán, tương tự như nghiên cứu của Brownell và Mc Innes (1986) Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước chủ yếu chỉ dừng lại ở khuyến nghị mà chưa có sự đo lường cụ thể như các nghiên cứu quốc tế Chẳng hạn, trong nghiên cứu của Phạm Ngọc Toàn (2010) về hệ thống kế toán quản trị cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, tác giả đã đưa ra những đề xuất quan trọng.

-Với doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ: không lập dự toán

Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ, quá trình lập dự toán nên được thực hiện theo trình tự từ trên xuống, với sự tham gia hạn chế của các nhà quản trị cấp thấp Mô hình này yêu cầu các nhà quản lý cấp cao phải có tầm nhìn tổng quát về tất cả các khía cạnh của doanh nghiệp.

-Với doanh nghiệp quy mô vừa: dự toán có thể lập từ trên xuống hoặc từ dưới lên hoặc theo mô hình thông tin phản hồi

Mô hình thông tin phản hồi cho phép sự tham gia của các cấp thấp, từ đó nâng cao tính khả thi và độ tin cậy của dự toán Trong khi đó, nhà quản lý cấp cao cần có khả năng tổng hợp thông tin Tuy nhiên, quá trình lập dự toán thường kéo dài và đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận.

Mô hình dự toán lập từ dưới lên cho phép sự tham gia tối đa của các nhà quản trị cấp thấp trong quá trình lập dự toán, đảm bảo tính khả thi và độ tin cậy cao Tuy nhiên, mô hình này cũng dễ dẫn đến việc xây dựng mục tiêu dự toán thấp hơn khả năng thực tế của bộ phận, gây ra tình trạng dự toán lỏng hoặc dự toán chùng trong các doanh nghiệp.

Sự tham gia của nhà quản lý trực tiếp trong dự toán sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp Nhiều nghiên cứu, như của Kenis (1979) và Brownell & Innes (1986), chỉ ra rằng mức độ tham gia cao của nhà quản lý có thể nâng cao hiệu quả hoạt động Tuy nhiên, các nghiên cứu khác như của Young (1985) và Lu (2011) lại cho thấy mối quan hệ này có thể ngược lại khi dẫn đến sự phát sinh của dự toán lỏng Hơn nữa, mối quan hệ giữa sự tham gia của nhà quản lý và kết quả hoạt động còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trung gian, chẳng hạn như tầm quan trọng của cam kết đánh giá theo Dunk (1993) Do đó, nghiên cứu về ảnh hưởng của sự tham gia của nhà quản lý vào dự toán đối với kết quả hoạt động doanh nghiệp vẫn là một lĩnh vực cần tiếp tục được khai thác.

Vai trò của đặc điểm doanh nghiệp đối với mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động

Theo Covalesky (2003), mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi các nhân tố bất định như quy mô, hình thức sở hữu, cấu trúc tổ chức, trình độ công nghệ và môi trường văn hóa Những khác biệt này có thể thay đổi chiều hướng và cường độ ảnh hưởng của dự toán đến kết quả hoạt động Nhiều nghiên cứu trước đây, như của Merchant (1981), Wijewardena và De Zoysa (2001, 2004), Joshi (2003), Qi (2010) và Jamil (2015), đã áp dụng cách tiếp cận này dựa trên các nhân tố bất định.

Merchant (1981) chỉ ra rằng ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp khác nhau tùy thuộc vào quy mô và hình thức sở hữu Tác giả nhận định rằng các doanh nghiệp lớn có xu hướng sử dụng dự toán như một công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận nhiều hơn so với các doanh nghiệp nhỏ Để kiểm chứng luận điểm này, Merchant đã tiến hành khảo sát qua email.

Nghiên cứu trên 201 nhà quản lý thuộc 19 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp điện cho thấy rằng quy mô doanh nghiệp lớn hơn dẫn đến thời gian sử dụng dự toán dài hơn và tầm quan trọng của dự toán cao hơn Nghiên cứu của Joshi (2003) chỉ ra sự khác biệt giữa doanh nghiệp niêm yết và không niêm yết về đặc điểm dự toán và kết quả hoạt động Khảo sát 54 doanh nghiệp tại Bahrain cho thấy doanh nghiệp niêm yết áp dụng hệ thống dự toán toàn diện hơn, với kết quả hoạt động tốt hơn so với doanh nghiệp không niêm yết Mặc dù Merchant (1981) và Joshi (2003) chưa đo lường tác động cụ thể, nhưng kết quả của họ cho thấy mối liên hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp, dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động.

Nghiên cứu của Qi (2010) và Jamil (2015) đã chỉ ra rằng quy mô và hình thức sở hữu doanh nghiệp có tác động rõ rệt đến mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động Qi (2010) tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Trung Quốc, sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến với dữ liệu từ 75 nhà quản lý ở ba tỉnh Quảng Đông, Hồ Nam và Hồ Bắc Kết quả cho thấy quy mô vốn và hình thức sở hữu là những biến kiểm soát quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Cụ thể, quy mô doanh nghiệp lớn hơn làm gia tăng tác động của tần suất và phạm vi sử dụng dự toán đối với kết quả tài chính, nhưng lại giảm ảnh hưởng của mức độ tham gia của nhà quản lý vào dự toán đến kết quả hoạt động.

Đặc điểm của doanh nghiệp, bao gồm quy mô và hình thức sở hữu, không nằm trong dự toán nhưng ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động Nghiên cứu của Merchant (1981) và Joshi (2003) đã chỉ ra mối liên hệ giữa đặc điểm dự toán và quy mô hoạt động của doanh nghiệp Ngoài ra, các nghiên cứu cũng nhấn mạnh vai trò kiểm soát của quy mô và hình thức sở hữu trong việc phân tích ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp, như được chỉ ra bởi Qi.

Nghiên cứu của Phạm Ngọc Toàn (2010) tại Việt Nam tuy không trực tiếp kiểm định vai trò của quy mô doanh nghiệp, nhưng đã đề xuất rằng các doanh nghiệp cần lựa chọn phương thức tổ chức dự toán sản xuất kinh doanh phù hợp với quy mô hoạt động của mình Điều này cho thấy rằng đặc điểm doanh nghiệp, đặc biệt là quy mô, luôn là yếu tố quan trọng trong các mô hình nghiên cứu về ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).

Khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo được thực hiện

1.8.1 Kho ả ng tr ố ng nghiên c ứ u

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp đã được thực hiện rộng rãi trên thế giới, đặc biệt ở các quốc gia phát triển như Mỹ và Châu Âu Gần đây, một số nghiên cứu tương tự cũng đã xuất hiện tại các quốc gia Châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ; tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này.

Nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào ảnh hưởng của dự toán đến kết quả hoạt động doanh nghiệp, nhưng vẫn còn nhiều bất đồng về mức độ tham gia của nhà quản lý trong quá trình này Kenis (1979) cho rằng sự tham gia sâu của nhà quản lý vào dự toán có thể cải thiện hiệu quả hoạt động, trong khi một số tác giả khác như Young lại có quan điểm khác.

Theo nghiên cứu năm 1985, việc nhà quản lý can thiệp quá mức vào quá trình dự toán có thể dẫn đến sự gia tăng độ lỏng của dự toán, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của tổ chức.

Các nghiên cứu trước đây thường tập trung vào kết quả hoạt động của nhà quản lý hoặc việc thực hiện các mục tiêu dự toán để đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trong khi kết quả hoạt động doanh nghiệp chủ yếu được đánh giá từ góc độ tài chính (Kotane, 2015) Tuy nhiên, quá trình tổng quan nghiên cứu của luận án cho thấy chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên cả ba khía cạnh: tài chính, phi tài chính và kết quả hoạt động của nhà quản lý.

Kết quả hoạt động của nhà quản lý là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu về tác động của dự toán đến hiệu quả doanh nghiệp Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào xác định rõ mối liên hệ giữa hai loại kết quả này.

Việc áp dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến trong các nghiên cứu trước đây đã bộc lộ hạn chế khi xem xét ảnh hưởng của các đặc điểm dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt khi có sự tham gia của các biến trung gian và điều tiết Luận án này sẽ sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM để làm rõ vai trò kiểm soát của các đặc điểm doanh nghiệp và vai trò trung gian của kết quả hoạt động quản lý trong mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

1.8.2 H ướ ng nghiên c ứ u ti ế p theo đượ c th ự c hi ệ n trong lu ậ n án

Dựa trên các khoảng trống nghiên cứu đã được xác định từ việc tổng quan các công trình liên quan đến mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, hướng nghiên cứu tiếp theo của luận án sẽ được triển khai.

Luận án này nghiên cứu ảnh hưởng của dự toán đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam, một lĩnh vực hoàn toàn mới chưa được khai thác trong các nghiên cứu trước đây Sự khác biệt về điều kiện kinh tế và môi trường văn hóa tại Việt Nam hứa hẹn sẽ mang lại những phát hiện mới và giá trị cho nghiên cứu.

Luận án sẽ mở rộng thang đo kết quả hoạt động doanh nghiệp, bao gồm cả yếu tố tài chính và phi tài chính Đồng thời, nghiên cứu sẽ làm rõ vai trò trung gian của kết quả hoạt động từ nhà quản lý trong mối quan hệ giữa dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

Luận án kế thừa cách tiếp cận của Qi (2010) trong việc phân tích vai trò kiểm soát của quy mô doanh nghiệp trong mô hình nghiên cứu Tuy nhiên, nghiên cứu này áp dụng phân loại theo quy mô vốn thay vì quy mô doanh thu như trong các nghiên cứu trước đó.

Luận án sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bằng phương trình cấu trúc (SEM) để kiểm định vai trò điều tiết của quy mô doanh nghiệp trong mối quan hệ giữa các đặc trưng của dự toán sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam.

Chương 1 của bài viết tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về ảnh hưởng của dự toán sản xuất kinh doanh đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp Các nghiên cứu được phân loại dựa trên các khía cạnh như sự rõ ràng và độ khó của mục tiêu dự toán, phản hồi thông tin, mức độ tham gia của nhà quản lý, và tần suất sử dụng dự toán Tác giả chỉ ra các khoảng trống nghiên cứu và xác định hướng nghiên cứu tiếp theo, tập trung vào các DNNVV Việt Nam, khám phá vai trò trung gian của kết quả hoạt động của nhà quản lý, và áp dụng phương pháp SEM Để triển khai các hướng nghiên cứu này, tác giả sẽ xây dựng cơ sở lý thuyết trong chương 2 và phương pháp nghiên cứu trong chương 3.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT, GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

113BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ

Ngày đăng: 03/08/2021, 21:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Abbadi (2013), “Contingencies influencing the budgeting practices in the Jordanian financial sector”, World Applied Sciences Journal, Vol.22 (7), pp. 991- 1000, 2013 ISSN 1818-4952 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Contingencies influencing the budgeting practices in the Jordanian financial sector”, "World Applied Sciences Journal
Tác giả: Abbadi
Năm: 2013
2. Agbenyo et al (2018), “Budgeting and Its Effect on the Financial Performance of Listed Manufacturing Firms: Evidence from Manufacturing Firms Listed on Ghana Stock Exchange”, Research Journal of Finance and Accounting, Vol.9, No.8, pp.12-22, 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Budgeting and Its Effect on the Financial Performance of Listed Manufacturing Firms: Evidence from Manufacturing Firms Listed on Ghana Stock Exchange”, "Research Journal of Finance and Accounting
Tác giả: Agbenyo et al
Năm: 2018
4. Anderson and Gerbing (1988), “Structural equation modeling in practice: A review and recommended two-step approach”, Psychological Bulletin, Vol.104(4), pp.411-424 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Structural equation modeling in practice: A review and recommended two-step approach”, "Psychological Bulletin
Tác giả: Anderson and Gerbing
Năm: 1988
5. Anderson and Narus (1984), “A model of the distributor’s perspective of distributor-manufacturer working relationships”, Journal of Marketing, Vol. 48, No. 4 (Autumn, 1984), pp. 62-74 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A model of the distributor’s perspective of distributor-manufacturer working relationships”, "Journal of Marketing
Tác giả: Anderson and Narus
Năm: 1984
6. Argyris (1952), The Impact of Budgets on People, School of Business and Public Administration, Cornell University Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Impact of Budgets on People
Tác giả: Argyris
Năm: 1952
7. Asel (2009), Risk management and management control: The impact of the financial crisis on the use of Management Control Systems, Retrieved from http://www.edamba.eu Sách, tạp chí
Tiêu đề: Risk management and management control: The impact of the financial crisis on the use of Management Control Systems
Tác giả: Asel
Năm: 2009
8. Anthony (1965), Planning and control systems: A framework for analysis, Boston: Harvard University Press Sách, tạp chí
Tiêu đề: Planning and control systems: A framework for analysis
Tác giả: Anthony
Năm: 1965
9. Becker and Green (1962), “Budgeting and Employee Behavior”, Journal of Business, (October 1962), pp. 392-402 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Budgeting and Employee Behavior”, "Journal of Business
Tác giả: Becker and Green
Năm: 1962
10. Bộ kế hoạch and đầu tư (2019), Sách trắng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2017, Nhà xuất bản Thống kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách trắng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2017
Tác giả: Bộ kế hoạch and đầu tư
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê
Năm: 2019
12. Bộ kế hoạch và đầu tư (2019), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2019, Nhà xuất bản Thống kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2019
Tác giả: Bộ kế hoạch và đầu tư
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê
Năm: 2019
13. Bremser (1988), Budgeting by department and functional area, American Management Association, Watertown Sách, tạp chí
Tiêu đề: Budgeting by department and functional area
Tác giả: Bremser
Năm: 1988
14. Brownell (1982), “The Role of Accounting Data in Performance Evaluation, Budgetary Participation, and Organizational Effectivenes”, Journal of Accounting Research, Vol. 20, No. 1 (Spring, 1982), pp. 12-27 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Role of Accounting Data in Performance Evaluation, Budgetary Participation, and Organizational Effectivenes”, "Journal of Accounting Research
Tác giả: Brownell
Năm: 1982
15. Brownell (1985), “Budgetary systems and the control of functionally differentiated organizational activities”, Journal of Accounting Research, Vol.23, No.2 Autumn 1985, pp. 502-512 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Budgetary systems and the control of functionally differentiated organizational activities”, "Journal of Accounting Research
Tác giả: Brownell
Năm: 1985
16. Brownell and McInnes (1986), “Budgetary participation, motivation, and managerial performance”, Accounting Review, Vol.61(4), pp. 587-600 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Budgetary participation, motivation, and managerial performance”," Accounting Review
Tác giả: Brownell and McInnes
Năm: 1986
17. Brownell and Merchant (1990), “The Budgetary and Performance Influences of Product Standardization and Manufacturing Process Automation”, Journal of Accounting Research, Vol. 28, No. 2 (Autumn, 1990), pp. 388-397 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Budgetary and Performance Influences of Product Standardization and Manufacturing Process Automation”, "Journal of Accounting Research
Tác giả: Brownell and Merchant
Năm: 1990
18. Caroll and Tosy (1970), “Goal characteristics and personality factors in a management by objectives program”, Administrative Science Quarterly, September - 1970, pp. 295-305 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Goal characteristics and personality factors in a management by objectives program”, "Administrative Science Quarterly
Tác giả: Caroll and Tosy
Năm: 1970
19. Chaney et al (2002), “The effect of fiscal stress and balance budget requirements on the funding and measurement of state pension obligations”, Journal of Account. Public policy, Vol. 21(4-5), pp. 287-414 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The effect of fiscal stress and balance budget requirements on the funding and measurement of state pension obligations”, "Journal of Account. Public policy
Tác giả: Chaney et al
Năm: 2002
20. Chenhall and Brownell (1988), “The effect of participative budgeting on job satisfaction and performance: Role ambiguity as an intervening variable”, Accounting, Organizations and Society, Vol.13(3), pp. 225-234 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The effect of participative budgeting on job satisfaction and performance: Role ambiguity as an intervening variable”, "Accounting, Organizations and Society
Tác giả: Chenhall and Brownell
Năm: 1988
21. Chính phủ (2018), Quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2018
22. Chong (2002), “The role of feedback on the relationship between budgetary participation and performance”, Pacific Accounting Review, Dec 2002; Vol.14, No.2, pp. 33-50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The role of feedback on the relationship between budgetary participation and performance”, "Pacific Accounting Review
Tác giả: Chong
Năm: 2002

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w