TỔNG QUAN VỀ DNNVV VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DNNVV
Tổng quan về DNNVV
1.1.1 Khái niệm và những qui định về DN và DNNVV của Việt Nam
Doanh nghiệp (DN) là nền tảng quan trọng của nền kinh tế, được định nghĩa là một tổ chức được pháp luật công nhận với mục tiêu cung cấp hàng hóa, dịch vụ hoặc cả hai cho người tiêu dùng, đồng thời tìm kiếm lợi nhuận.
DN được thành lập không vì mục tiêu lợi nhuận
Tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp xác định doanh nghiệp (DN) là tổ chức kinh tế có tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh Kinh doanh theo Luật Đầu tư được hiểu là quá trình liên tục từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường với mục đích sinh lợi Đầu tư là hành động mà nhà đầu tư bỏ vốn bằng tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản và thực hiện các hoạt động đầu tư theo quy định Để quản lý hiệu quả, nhà nước phân loại DN theo nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí quy mô hoạt động, phân chia thành bốn loại: DN cực lớn.
DN lớn, DN vừa, DN nhỏ Một số nước khác còn phân thêm một dạng DN nữa là
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) bao gồm cả doanh nghiệp cực nhỏ và siêu nhỏ, được phân loại chung ở hầu hết các quốc gia Việc gộp các loại hình doanh nghiệp này giúp tạo ra các chính sách hỗ trợ đồng nhất cho sự phát triển của chúng.
DNNVV là loại doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và phổ biến trong hầu hết các nền kinh tế Mỗi quốc gia áp dụng các tiêu chí khác nhau để phân định quy mô doanh nghiệp, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng nơi.
Việc xác định quy mô doanh nghiệp (DN) diễn ra trong một không gian và thời gian cụ thể, với ranh giới quy mô không cố định mà mang tính động, thay đổi theo đặc điểm hoạt động và mức độ phát triển của DN trong nền kinh tế.
Hai là, qui mô DN phản ánh mức độ sản xuất, cung ứng sản phẩm lao vụ của
Để đánh giá quy mô doanh nghiệp (DN), có thể xem xét các yếu tố đầu vào như vốn đầu tư và số lượng lao động, hoặc các yếu tố đầu ra như doanh thu và lợi nhuận Tại Việt Nam, việc phân định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) lần đầu tiên được quy định trong văn bản 681/CP–KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ, trong đó tiêu chí xác định DNNVV là DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động hàng năm dưới 200 người.
Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định 90/2001/NĐ–CP về trợ giúp phát triển DNNVV, xác định tiêu chí phân loại doanh nghiệp với vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng và lao động dưới 300 người Đến năm 2009, Nghị định 56/2009/NĐ–CP được ban hành, quy định lại tiêu chí phân loại DNNVV thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa, dựa trên tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân năm, trong đó tổng nguồn vốn được ưu tiên.
–DN siêu nhỏ là DN có số lao động từ 10 người trở xuống, không phân biệt số vốn, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
–DN nhỏ và DN vừa: Tổng nguồn vốn và số lao động cụ thể cho từng loại
DN nhỏ và DN vừa được qui định cụ thể tại Bảng 1.1
Cả 03 (ba) văn bản nêu trên đều qui định tùy theo tính chất, mục tiêu của từng chính sách, chương trình trợ giúp mà cơ quan chủ trì có thể cụ thể hóa các tiêu chí nêu trên cho phù hợp
Bảng 1.1 Tiêu chí phân loại DN theo qui mô nhỏ và vừa
Số lao động Tổng nguồn vốn
I Thương mại và dịch vụ
Từ trên 10 tỷ đến 50 tỷ đồng
II Các ngành nghề khác
Từ trên 20 tỷ đến 100 tỷ đồng
1.1.2 Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường
Ngân hàng Thế giới đã xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là xương sống của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng ngay cả ở các quốc gia phát triển Sự quan trọng này đến từ nhiều vai trò thiết yếu mà DNNVV đảm nhận trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.
1.1.2.1 Tạo công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội
Giải quyết việc làm cho người lao động là một thách thức lớn đối với các chính phủ trên toàn thế giới Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ thất nghiệp và tạo ra cơ hội việc làm Mặc dù mỗi DNNVV có quy mô lao động không lớn, nhưng với số lượng đông đảo, chúng đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra nhiều công ăn việc làm trong nền kinh tế.
1.1.2.2 Nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần thúc đấy tăng trưởng kinh tế và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Sự hiện diện của nhiều doanh nghiệp trong cùng một ngành đã làm giảm tính độc quyền, buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh và liên tục đổi mới để phát triển Đặc biệt, với tính linh hoạt của mình, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) cũng tạo ra sức ép cạnh tranh đáng kể lên các doanh nghiệp lớn.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tạo ra sản lượng và thu nhập đáng kể cho xã hội Với tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao, DNNVV đáp ứng hiệu quả những nhu cầu đa dạng và độc đáo của người tiêu dùng.
Sự phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) không chỉ làm gia tăng số lượng doanh nghiệp mà còn nâng cao khả năng cung ứng sản phẩm và lao động cho nền kinh tế Điều này đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
1.1.2.3 Hỗ trợ đắc lực cho DN lớn, là cơ sở để hình thành các DN, tập đoàn kinh tế lớn mạnh
Trong nền kinh tế, không thể chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn, vì chúng không thể bao quát toàn bộ thị trường Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) với tính năng nhỏ gọn và linh hoạt, tập trung vào các thị trường ngách, hỗ trợ doanh nghiệp lớn trong việc tiếp cận thị trường DNNVV đóng vai trò là doanh nghiệp vệ tinh, cung cấp sản phẩm đầu vào và tham gia vào các giai đoạn sản xuất của doanh nghiệp lớn, từ đó thúc đẩy chuyên môn hóa và phân công lao động, tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp lớn.
Cơ chế, chính sách tài chính được Nhà nước sử dụng để hỗ trợ các DNNVV phát triển
1.2.1 Khái quát về cơ chế, chính sách được Nhà nước sử dụng để hỗ trợ Ở mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ, bàn tay hữu hình của nhà nước đối với các DN luôn luôn hiện hữu Đối với toàn bộ các DNNVV, nhà nước đóng vai trò là người khởi xướng, khuyến khích, giúp đỡ, bảo vệ, cứu trợ, điều tiết thỏa đáng khi cần thiết
Chính phủ các nước không chỉ đối xử bình đẳng với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) như với doanh nghiệp lớn, mà còn cung cấp nhiều ưu đãi rõ rệt cho DNNVV Điều này thể hiện nhận thức rằng việc hỗ trợ DNNVV là một bước đi dân chủ và là biện pháp hiệu quả để thúc đẩy bình đẳng xã hội.
Bàn tay hữu hình của nhà nước được thể hiện qua hệ thống luật lệ, từ cấp trung ương đến chính quyền địa phương, bao gồm cả hiến pháp Hệ thống các luật lệ này lan tỏa ra mọi hoạt động của khu vực nhà nước.
Tóm tắt những chính sách thể hiện trong những luật lệ của nhà nước trong việc trợ giúp DNNVV như sau:
1 Tạo điều kiện dễ dàng việc khởi nghiệp và việc hành nghề của DNNVV
2 Tạo điều kiện cho DN tiếp cận các nguồn vốn với điều kiện thuận lợi, với lãi suất thấp, với ân hạn dài, với sự trợ giúp khi khó khăn trong việc trả nợ
3 Cho hưởng nhiều ưu đãi thuế
4 Chuyển giao và giúp làm chủ công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến
5 Giúp đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, từ giám đốc đến kỹ thuật viên, nhân viên quản lý, kế toán và công nhân lành nghề
6 Cho nhận thầu công việc sản xuất, kinh doanh; cho đảm nhận từng dự án hoặc bộ phận dự án kinh tế (của nhà nước); cho hạn ngạch hoặc tỷ phần trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho thị trường trong nước hoặc xuất khẩu
7 Giúp tiếp cận thị trường, cung cấp thông tin kịp thời và chuẩn xác về thị trường, cho tham gia nhiều hình thức thiết lập và phát triển quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước
8 Đặc biệt chăm sóc và giúp đỡ:
DNNVV có nhiều triển vọng;
DNNVV sản xuất sản phẩm thân thiện và bảo vệ môi trường;
DNNVV sử dụng lao động khuyết tật;
DNNVV gặp nhiều thiệt thòi và khó khăn;
DNNVV do phụ nữ làm chủ, sử dụng nhiều lao động nữ;
DNNVV trong một số ngành nghề cần ưu tiên;…
9 Hoạch định, thông qua và thực hiện chiến lược trung hạn và dài hạn, những chương trình quốc gia từng năm và nhiều năm để phát triển DNNVV
10 Theo dõi tình hình, thường thì làm thống kê riêng về DNNVV, kiểm điểm việc thực hiện các luật lệ, chiến lược và chương trình, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh để phát triển DNNVV
11 Lập cơ quan nhà nước chuyên trách về DNNVV
12 Giúp sự thành lập và hoạt động có hiệu quả của các hiệp hội DNNVV Dành cho các hội ấy cơ hội và vị trí thích đáng trong các hội đồng, ủy ban, các hội nghị quan trọng của nhà nước để hoạch định các chính sách kinh tế quốc gia
Mỗi quốc gia thường khởi đầu bằng việc ban hành các quy định nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách trong sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Ban đầu, các quy định này có thể chưa hoàn thiện, nhưng theo thời gian, chúng sẽ được bổ sung và hoàn chỉnh để bao quát đầy đủ các nội dung liên quan Sự khác biệt giữa các quốc gia chủ yếu nằm ở mức độ khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ dành cho DNNVV, từ đó tạo ra những chính sách phù hợp với từng bối cảnh phát triển.
1.2.2 Cơ chế tài chính vĩ mô hỗ trợ sự phát triển của các DNNVV
1.2.2.1 Cơ chế hỗ trợ tài chính vĩ mô
Cơ chế hỗ trợ tài chính là tập hợp các hình thức, phương pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động đến hoạt động của hệ thống tài chính và các quan hệ phân phối Mục tiêu của cơ chế này là cung cấp hỗ trợ tài chính cho những đối tượng cụ thể, phù hợp với vai trò kinh tế của nhà nước.
Cơ chế hỗ trợ tài chính là phần quan trọng trong cơ chế tài chính, thể hiện qua các công cụ tài chính vĩ mô Nhà nước đã thể chế hóa cơ chế này thông qua hệ thống luật pháp và chính sách tài chính, đồng thời thực hiện các công cụ tài chính để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Pháp luật về tài chính là hệ thống quy phạm pháp luật mà nhà nước áp dụng để quản lý các hoạt động kinh tế xã hội Nó bao gồm luật ngân sách nhà nước, các văn bản pháp lý về tài chính công, luật thuế, luật ngân hàng trung ương, luật tổ chức tín dụng, luật kinh doanh bảo hiểm, và các quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán Những quy định này đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý vĩ mô và vi mô, đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả trong lĩnh vực tài chính.
Chính sách hỗ trợ tài chính là một phần quan trọng trong chính sách tài chính, đóng vai trò là công cụ thiết yếu để nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế trong từng giai đoạn Đây là hệ thống các quan điểm và biện pháp của nhà nước nhằm sử dụng các công cụ tài chính – tiền tệ để tác động đến sự hình thành và phát triển của hệ thống tài chính, cũng như các mối quan hệ giữa chúng, với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho những đối tượng cụ thể, dựa trên vai trò kinh tế của nhà nước.
Các công cụ tài chính là phương tiện mà nhà nước sử dụng để điều tiết quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, nhằm thực hiện định hướng kinh tế của mình Những công cụ này bao gồm ngân sách nhà nước, thuế, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng và dự trữ quốc gia Trong nền kinh tế thị trường, các công cụ tài chính giúp điều hành các quan hệ kinh tế, hoạt động kinh doanh và giải quyết các vấn đề xã hội, phù hợp với chính sách kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển.
1.2.2.2 Vai trò của việc hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước đối với sự phát triển của DNNVV ở Việt Nam Để phát triển kinh tế, đòi hỏi phải khai thác và sử dụng mọi tiềm năng của đất nước Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước nhằm giải phóng sức sản xuất, khai thác mọi nguồn lực trong xã hội Một trong những vấn đề quan trọng trong việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là phải đa dạng hóa các hình thức đầu tư, các loại hình DN để ai cũng có thể tham gia Trong đó phát triển DNNVV là hình thức đầu tư thích hợp, kích thích đầu tư trực tiếp có hiệu quả để phát triển kinh tế i) Kích thích các tầng lớp dân cư bỏ vốn đầu tư nhằm tạo lập DN mới hoặc mở rộng qui mô, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế
Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc sử dụng tài chính hỗ trợ phát triển
1.3.1 Chính sách tài chính hỗ trợ các DNNVV ở một số quốc gia trên thế giới
Hiện nay, DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội ở hầu hết các quốc gia Chính phủ nhiều nước đã chú trọng và hỗ trợ DNNVV thông qua các chính sách và chương trình khác nhau Mặc dù điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia khác nhau, chính sách trợ giúp DNNVV cũng có sự khác biệt, nhưng tài chính vẫn được coi là công cụ quan trọng để khuyến khích sự tăng trưởng của DNNVV, tập trung vào một số điểm chủ yếu.
1.3.1.1 Ưu đãi thuế nhằm nâng cao khả năng tự tích lũy cho DNNVV
Chính sách thuế là công cụ quan trọng giúp các nước nâng cao khả năng tự tích lũy và tài trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Tại Mỹ, sau cải cách thuế năm 1986, áp dụng thuế lũy tiến cho thu nhập công ty; Đức miễn thuế doanh thu cho các doanh nghiệp nhỏ có doanh thu dưới 25.000 DM và giảm 50% thuế cho thu nhập dưới 2 triệu DM; Nhật Bản quy định DNNVV có thu nhập dưới 8 triệu yên/năm chỉ phải nộp thuế suất 28%, trong khi các công ty lớn nộp thuế suất 37,5%.
Một số quốc gia trong khu vực ASEAN đã áp dụng chính sách thuế ưu đãi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Cụ thể, Thái Lan quy định thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cho DNNVV có vốn đăng ký dưới 5 triệu Baht: thu nhập ròng dưới 1 triệu Baht chịu thuế 20%, phần trên 2 triệu Baht chịu thuế 25%, và phần vượt quá 3 triệu Baht chịu thuế 30% Tương tự, Singapore áp dụng biểu thuế lũy tiến cho DNNVV, với mức thuế 8,5% cho thu nhập ròng dưới 300.000 SGD và 17% cho phần vượt quá 300.000 SGD.
1.3.1.2 Thực hiện tín dụng ưu đãi
Ngoài chính sách ưu đãi thuế, nhiều quốc gia trên thế giới cũng chú trọng đến việc cung cấp ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Đặc biệt, Malaysia đã thiết lập một số tổ chức tài chính và chính sách tài chính của Chính phủ nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng cho DNNVV, trong đó có Ngân hàng Công nghiệp và Ngân hàng Pembangunan Malaysia Berhad (BPMB).
Tổ chức tài chính phát triển công nghiệp Malaysia đã thành lập Quỹ kỹ thuật công nghiệp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển mạnh mẽ hơn.
Vào năm 1960, quỹ với số vốn ban đầu 50 triệu USD được thành lập nhằm cung cấp vốn dựa trên tính khả thi của các cơ sở công nghiệp, nghiên cứu và phát triển sản phẩm Tại Hàn Quốc, chính phủ đã thiết lập các tổ chức tài chính để cung ứng tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) cũng như các doanh nghiệp mới Ngân hàng công nghiệp vừa và nhỏ (SMIB) được thành lập để chuyên môn hóa trong việc tài trợ cho DNNVV Quỹ phát triển DNNVV được hình thành từ ngân sách nhà nước, dưới sự quản lý của SMIB và Ngân hàng Quốc gia, cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao trong các ngành công nghiệp ưu tiên theo quy định của chính phủ.
1.3.1.3 Bảo đảm và bảo lãnh tín dụng
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thường gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng do khả năng tài chính hạn chế Để hỗ trợ, nhiều quốc gia như Anh, Hà Lan và hầu hết các nước Châu Á đã thực hiện các biện pháp bảo đảm tín dụng cho DNNVV Ví dụ, Hàn Quốc đã thành lập quỹ bảo lãnh vào năm 1976 với sự đồng tài trợ của Chính phủ và các định chế tài chính Tương tự, Malaysia đã thành lập Công ty bảo đảm tín dụng từ năm 1972, nhằm cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho các DNNVV từ hệ thống ngân hàng.
Để tăng cường tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), nhiều quốc gia đã áp dụng các quy định bắt buộc dành một tỷ lệ nhất định tín dụng cho DNNVV Tại Hàn Quốc, tỷ lệ này là 45% đối với ngân hàng thương mại quốc gia và 80% đối với ngân hàng địa phương, trong khi các chi nhánh nước ngoài cũng phải cấp tối thiểu 30% Tương tự, Indonesia quy định từ năm 1990 rằng các ngân hàng thương mại phải dành ít nhất 20% tín dụng cho DNNVV.
1.3.1.4 Hỗ trợ tài chính nhằm đổi mới thiết bị và công nghệ
Chính phủ nhiều quốc gia đã triển khai các biện pháp nhằm thúc đẩy đổi mới thiết bị và công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), bao gồm hỗ trợ, tư vấn và cung cấp thông tin kỹ thuật Các biện pháp này còn bao gồm ưu đãi thuế, tín dụng và trợ cấp Chẳng hạn, tại Nhật Bản, chính phủ áp dụng miễn, giảm thuế cho chi phí nghiên cứu và đổi mới kỹ thuật, đồng thời cung cấp vay ưu đãi cho các dự án nghiên cứu công nghệ mới Tại Hàn Quốc, các khoản chi phí đầu tư vào phát triển công nghệ và con người được phép giảm trừ khỏi thu nhập chịu thuế, và thu nhập từ chuyển giao công nghệ cũng không bị tính thuế Hơn nữa, chính phủ còn thành lập các công ty phát triển công nghệ nhỏ và vừa để hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho DNNVV, bao gồm các chương trình hiện đại hóa và hỗ trợ thành lập doanh nghiệp.
Ngoài các biện pháp hỗ trợ, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia còn triển khai các chương trình trợ cấp tài chính, bao gồm tín dụng ưu đãi và ưu đãi thuế, nhằm thúc đẩy xuất khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Đồng thời, họ cũng chú trọng đào tạo cán bộ quản lý cho DNNVV Để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, các chính phủ này đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng và xây dựng các khu công nghiệp đồng bộ, tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh cho DNNVV.
1.3.2 Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Dựa trên những kinh nghiệm thành công trong phát triển của một số quốc gia trong những thập niên qua, Việt Nam có thể rút ra những bài học thực tiễn quý báu để áp dụng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mình.
1.3.2.1 Mục tiêu của chính sách hỗ trợ
Phần lớn chính sách hỗ trợ của các nước tập trung nhằm vào các mục tiêu cơ bản sau:
– Hỗ trợ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
– Hỗ trợ sự mở rộng sản xuất kinh doanh;
– Hỗ trợ đổi mới và ứng dụng công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh; – Hỗ trợ xúc tiến thương mại và hội nhập vào thị trường quốc tế
1.3.2.2 Chính sách và cơ chế hỗ trợ i) Thiết lập chính sách tài chính hỗ trợ trực tiếp từ phía nhà nước cho các DNNVV, bao gồm:
Chính sách thuế cần được thiết kế đặc biệt để ưu đãi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), với sự phân biệt rõ ràng giữa các doanh nghiệp hoạt động ở các vùng kinh tế khác nhau Đối với những vùng còn gặp nhiều khó khăn và cần được khuyến khích phát triển, chính sách thuế nên có mức ưu đãi cao hơn so với các khu vực khác.
Thiết lập các định chế tài trung gian để hỗ trợ cung ứng vốn cho các DNNVV, bao gồm:
– Thông qua các NHTM quốc doanh, nhà nước thực hiện mở rộng chính sách hỗ trợ vốn cho các DNNVV;
Để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), cần hình thành các định chế tín dụng và công ty bảo lãnh chuyên nghiệp thuộc sở hữu nhà nước ở cấp trung ương hoặc địa phương Bên cạnh đó, việc thiết lập chính sách hỗ trợ gián tiếp từ phía nhà nước cũng rất quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của DNNVV.
– Cấp vốn để thành lập các quĩ bảo lãnh tín dụng DNNVV, quĩ phát triển DNNVV
– Khuyến khích các tổ chức tín dụng thuộc khu vực tư cung ứng vốn cho các DNNVV, thông qua các chính sách:
+ Liên kết đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng thuộc khu vực nhà nước với tổ chức tín dụng thuộc khu vực tư nhân;
Nhà nước thực hiện chính sách chuyển vốn từ ngân sách cho các tổ chức tín dụng tư nhân, nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thông qua các chương trình phát triển đã được hoạch định.
Việc sử dụng các công cụ tài chính vĩ mô như lãi suất, tỷ giá và thuế cần phải linh hoạt và phù hợp với cơ chế thị trường Điều này không chỉ giúp tạo ra sự ổn định kinh tế vĩ mô mà còn hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong việc tăng cường đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TÀI CHÍNH TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DNNVV TẠI GIA LAI GIAI ĐOẠN 2005-2010
Thực trạng phát triển các DNNVV tại Gia Lai
2.1.1 Khái lược về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
2.1.1.1 Về điều kiện tự nhiên
Gia Lai là một tỉnh miền núi biên giới ở phía Bắc Tây Nguyên, giáp với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên ở phía Đông, tỉnh Đăk Lăk ở phía Nam, Campuchia ở phía Tây và tỉnh Kon Tum ở phía Bắc Với khí hậu nhiệt đới gió mùa Cao Nguyên và hệ thống sông hồ phong phú, Gia Lai có tiềm năng năng lượng khoảng 10,5–11 tỷ kWh Khí hậu nơi đây rất thích hợp cho việc phát triển cây công nghiệp, nông lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc.
Tỉnh có diện tích tự nhiên 15.537 km² với 7 nhóm đất khác nhau, bao gồm 386.000 ha đất Bazan, phù hợp cho nhiều loại cây trồng Theo tổng điều tra dân số năm 2009, dân số tỉnh đạt 1.278.000 người, trong đó dân tộc Kinh chiếm 51% với 618.630 người, còn lại là các dân tộc thiểu số khác Tốc độ tăng dân số tự nhiên là 1,75%, với 624.931 người trong độ tuổi lao động.
Gia Lai có 17 đơn vị hành chính, bao gồm Thành phố Pleiku, Thị xã An Khê, Thị xã AyunPa và 14 huyện Thành phố Pleiku là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của tỉnh, nằm tại giao điểm của hai quốc lộ chiến lược: quốc lộ 14 theo hướng Bắc - Nam và quốc lộ 19 theo hướng Đông - Tây Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế với vùng duyên hải Nam Trung Bộ, cũng như với cả nước và quốc tế.
Gia Lai có vị trí giao thông thuận lợi với ba trục quốc lộ chính: quốc lộ 14 kết nối với Quảng Nam, Đà Nẵng, Tây Nguyên, Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long; quốc lộ 19 nối liền với cảng Quy Nhơn và Campuchia; và quốc lộ 25 kết nối với tỉnh Phú Yên cùng duyên hải Miền Trung.
Gia Lai, nằm trong khu vực tam giác phát triển kinh tế giữa Việt Nam, Lào và Campuchia, có lợi thế chiến lược đáng kể Chính phủ đã định hướng phát triển Gia Lai – Pleiku thành Ngã ba Đông Dương, đóng vai trò quan trọng trong mối liên kết kinh tế giữa ba quốc gia Từ Pleiku, giao thông thuận lợi đến các tỉnh Đông Bắc Campuchia và Thái Lan qua quốc lộ 78, cùng với khả năng kết nối ra biển Đông qua cảng Quy Nhơn, sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu Việc nâng cấp Khu kinh tế cửa khẩu Lệ Thanh thành cửa khẩu quốc tế trong giai đoạn 2007–2015 sẽ hiện thực hóa tiềm năng này.
2.1.1.2 Về tình hình kinh tế xã hội
Kinh tế Gia Lai đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ và toàn diện với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 13,6% mỗi năm trong giai đoạn 2005–2010 Trong đó, ngành nông – lâm nghiệp và thuỷ sản tăng trưởng trung bình 6,97%/năm, công nghiệp – xây dựng tăng 23,31%/năm, và dịch vụ tăng 14,7%/năm.
Sự chuyển dịch cơ cầu kinh tế giai đoạn 2005-2010 của Gia Lai
Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Gia Lai
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực và đúng hướng, nếu như năm 2001 đến tỷ trọng ngành nông – lâm nghiệp chiếm 56,4%; công nghiệp – xây dựng chiếm
17% và dịch vụ chiếm 26,5% thì đến năm 2010 tỷ trọng các ngành tương ứng đã là 43,3 – 29,6% và 27,1% với GDP bình quân đầu người đạt 14,8 triệu đồng (xem Biểu đồ 2.1)
Đến năm 2010, thu ngân sách trên địa bàn đạt 2.414 tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 2005, với mức tăng bình quân 25%/năm, vượt mục tiêu Nghị quyết 18,5%/năm; tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách bình quân đạt 13,4%/năm Tỉnh đã chuyển mình từ việc phụ thuộc hoàn toàn vào trợ cấp từ Trung ương sang tự cân đối được hơn 50% ngân sách địa phương.
Gia Lai đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nhằm thu hẹp khoảng cách GDP bình quân đầu người so với mức trung bình cả nước, đồng thời nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế Dự kiến đến năm 2015, cơ cấu kinh tế sẽ gồm nông – lâm nghiệp và thủy sản chiếm 22%, công nghiệp – xây dựng 43%, và dịch vụ 35%, với GDP bình quân đầu người đạt 20 triệu đồng Để phát triển kinh tế và hội nhập thành công, Gia Lai đã áp dụng các bước đi đột phá như xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, và chú trọng thu hút đầu tư vào du lịch Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất nông nghiệp chất lượng cao đã giúp Gia Lai hình thành các vùng cây công nghiệp chuyên canh như cà phê, tiêu, và cao su, đưa tỉnh vào vị trí hàng đầu cả nước Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi để Gia Lai kêu gọi đầu tư vào chế biến nông – lâm sản, góp phần phát triển sản xuất công nghiệp và nâng cao giá trị gia tăng cho kinh tế nông nghiệp.
Môi trường đầu tư và kinh doanh tại Gia Lai đã có sự cải thiện đáng kể qua từng năm Theo nghiên cứu hợp tác giữa Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) và Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ số năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh (PCI) của Gia Lai năm 2010 đạt 53,3 điểm, xếp hạng 50 trong tổng số 63 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.
Biểu đồ 2.10 Chỉ số thành phần trong chỉ số PCI năm 2010 của Gia Lai
Chi phí gia nhập thị trường là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư Tiếp cận đất đai thuận lợi giúp doanh nghiệp phát triển nhanh chóng Tính minh bạch và trách nhiệm của chính quyền địa phương tạo niềm tin cho nhà đầu tư Lãnh đạo tỉnh cần có tính năng động và tiên phong trong việc thu hút đầu tư Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn ban đầu Đào tạo lao động chất lượng cao là cần thiết để đáp ứng nhu cầu thị trường Thiết chế pháp lý vững chắc bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp Cuối cùng, cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ là yếu tố quyết định cho sự thành công lâu dài của các dự án đầu tư.
2.1.2 Thực trạng phát triển DNNVV tại Gia Lai
2.1.2.1 Quá trình phát triển số lượng, qui mô các DNNVV i) Về số lượng
Biểu đồ 2.2 Tình hình đăng ký mới các DN tại Gia Lai giai đoạn 2001-2010
Nguồn: Sở KHĐT Tỉnh Gia Lai
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở Gia Lai, cũng như trên toàn Việt Nam, đã trải qua một quá trình phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự chuyển đổi của nền kinh tế Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, DNNVV chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã và cơ sở kinh doanh cá thể Tuy nhiên, từ khi áp dụng chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, DNNVV đã có những bước tiến đáng kể trong việc thích ứng và phát triển.
Từ năm 1989, sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã có những dấu hiệu tích cực Tuy nhiên, chỉ sau hơn 10 năm, khi Luật Doanh Nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/2000, DNNVV mới thực sự bùng nổ về số lượng, vốn đầu tư và khả năng thu hút lao động, đóng góp một tỷ trọng đáng kể vào toàn bộ khu vực doanh nghiệp.
Theo số liệu từ Sở Kế hoạch Đầu tư Gia Lai, tính đến năm 2001, Gia Lai chỉ có 305 doanh nghiệp đăng ký và đăng ký lại Đến năm 2009, con số này đã tăng lên trên 2.421 doanh nghiệp, và ước tính năm 2010 sẽ có trên 2.976 doanh nghiệp Tốc độ hình thành và phát triển doanh nghiệp tại Gia Lai diễn ra khá nhanh, với mức tăng trung bình hàng năm trên 28,6%.
10 năm, số lượng DN ở Gia Lai đã tăng gần 9 lần (xem Biểu đồ 2.2)
Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, khung pháp luật cho DNNVV ngày càng hoàn thiện, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh đã nhận được sự hỗ trợ từ các chương trình của Chính phủ và địa phương Nhờ đó, nhiều DNNVV đã phát triển mạnh mẽ, trở thành những doanh nghiệp lớn với sức cạnh tranh cao Ví dụ, XNTD Hoàng Anh, ban đầu chỉ là một xí nghiệp chế biến gỗ nhỏ, sau 15 năm đã trở thành Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai, nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn vươn ra khu vực Tương tự, XNTD Quốc Cường cũng đã phát triển thành Công ty Cổ phần Quốc Cường Gia Lai.
Xét theo tiêu chí phân loại DN tại Nghị định 90/2001/NĐ–CP thì có tới 98%
DN ở Gia Lai thuộc loại DNNVV, và theo tiêu chí phân loại tại Nghị định 56/2009/NĐ–CP, mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức, ước tính có tới 95% số DN tại đây là DNNVV.
Cơ cấu DNNVV và DN lớn năm 2008
Theo qui mô lao động Theo qui mô vốn
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thực trạng vận dụng cơ chế, công cụ tài chính từ phía Nhà nước hỗ trợ cho sự phát triển của các DNNVV tại Gia Lai giai đoạn 2005-2010
2.2.1 Thực trạng vận dụng cơ chế tài chính trong hỗ trợ DNNVV
Cơ chế tài chính hỗ trợ DNNVV tại địa phương được thể hiện qua việc triển khai đồng bộ hệ thống pháp luật tài chính liên quan đến DNNVV, kết hợp với các công cụ tài chính phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở Gia Lai Sự phối hợp giữa pháp luật, chính sách và các công cụ tài chính nhằm tối ưu hóa vai trò của tài chính trong việc hỗ trợ DNNVV là rất quan trọng.
Hệ thống pháp luật tài chính đã chứng tỏ hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tại địa phương Chính quyền địa phương các cấp đã tích cực tổ chức, kiểm tra và giám sát việc thực hiện pháp luật tài chính, nhằm đảm bảo vai trò quan trọng của nó trong sự phát triển bền vững của cộng đồng.
Giai đoạn 2005–2010 chứng kiến sự hoàn thiện của pháp luật tài chính tại Việt Nam, bao gồm thuế, ngân sách nhà nước và tín dụng, phù hợp với cơ chế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Các quy định về nghĩa vụ thuế và cơ chế tài chính đã được làm rõ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
DN, pháp luật về tài chính còn có biện pháp hỗ trợ về thuế, hỗ trợ tín dụng đối với
Doanh nghiệp (DN) trong các ngành, lĩnh vực, và vùng miền khác nhau, đặc biệt là DN mới thành lập, đang được hưởng lợi từ những cải cách trong pháp luật tài chính Những cải tiến này hướng tới việc tạo ra một môi trường thuận lợi, công khai và minh bạch hơn Việc áp dụng cơ chế tự khai và tự nộp thuế được xem là một bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, giúp DN dễ dàng hơn trong việc tuân thủ quy định.
Luật Ngân sách Nhà nước, các luật thuế và các văn bản pháp lý liên quan đến tài chính công được áp dụng đồng bộ và điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội thực tế tại Gia Lai.
Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng đã phát huy hiệu quả tại Gia Lai, dẫn đến sự ra đời và hoạt động của nhiều chi nhánh ngân hàng thương mại trên toàn tỉnh Hệ thống tổ chức tín dụng đã đóng góp tích cực vào việc huy động nguồn vốn lớn, phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế cho tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
Nhiều chính sách tài chính đã được ban hành nhằm hỗ trợ và khuyến khích đầu tư, tạo ra khung pháp lý vững chắc cho việc hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
2.2.2 Thực trạng vận dụng các công cụ tài chính trong hỗ trợ DNNVV
2.2.2.1 Thuế, phí và lệ phí
Chính quyền địa phương và ngành thuế triển khai thực hiện các luật và pháp lệnh thuế đã ban hành, áp dụng cho tất cả các thành phần kinh tế và mọi đối tượng chịu thuế.
Hệ thống thuế hiện tại đã hoạt động chủ yếu theo cơ chế thị trường, với các chính sách thuế thường xuyên được điều chỉnh để phù hợp với xu hướng mở cửa và hội nhập kinh tế toàn cầu Để đảm bảo tính pháp lý, các văn bản quy phạm pháp luật cần được nâng cao, với luật là căn cứ cuối cùng.
Chính sách thuế đã được điều chỉnh nhằm đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách Nhà nước, đồng thời tạo ra môi trường sản xuất và kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để cải thiện chính sách thuế, cần giảm dần mức thuế suất một cách có chọn lọc và theo lộ trình hợp lý Đồng thời, mở rộng diện chịu thuế nhằm đảm bảo tính công bằng và trung lập trong hệ thống thuế, với sự xem xét đến các yếu tố như thông lệ quốc tế, khả năng quản lý của Việt Nam, và khuyến khích việc khai thác, sử dụng tài nguyên một cách tiết kiệm, hiệu quả, cũng như bảo vệ môi trường.
Chính sách thuế, phí và lệ phí đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển Cụ thể, việc giảm thuế suất giá trị gia tăng từ 20% xuống 10% và áp dụng thuế suất 0% cho xuất khẩu đã khuyến khích đầu tư Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cũng đã được giảm từ 32% xuống 28% vào năm 2004 và còn 25% vào năm 2009, cùng với sự thay đổi trong cách xác định các khoản chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế Ngoài ra, việc thống nhất quản lý phí và lệ phí, loại bỏ các khoản không phù hợp và tăng cường ưu đãi về thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất kinh doanh tại địa phương.
Chính sách thuế đã hỗ trợ cần thiết cho DNNVV trong bối cảnh nền kinh tế biến động, đặc biệt trong khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009 Chính phủ đã triển khai các giải pháp thuế như giảm 30% thuế TNDN cho quý 4/2008 và năm 2009, cùng với việc giãn thời hạn nộp thuế 9 tháng cho 70% số thuế TNDN còn lại và 3 tháng cho số thuế TNDN tạm nộp phát sinh trong năm 2010 Nhờ những chính sách này, DNNVV tại Gia Lai đã gia tăng quy mô tích lũy phục vụ sản xuất kinh doanh lên 19,87 tỷ đồng và được giãn thời hạn nộp thuế với tổng số tiền 102,7 tỷ đồng.
Luật Quản lý thuế đã thay đổi cơ bản hệ thống hành thu, nâng cao ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế của người dân thông qua cơ chế DN tự khai, tự nộp và tự chịu trách nhiệm Điều này tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng cho doanh nghiệp, đồng thời cho phép cơ quan quản lý thuế được tổ chức lại theo mô hình quản lý chức năng Cán bộ công chức thuế cũng được sắp xếp và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn trong từng lĩnh vực.
Việc triển khai đầy đủ và kịp thời các quy định của luật thuế và pháp lệnh, cũng như giải quyết nhanh chóng các khó khăn vướng mắc về thuế tại địa phương, là rất quan trọng để tạo ra một môi trường thuế công khai, minh bạch và hiện đại Hơn nữa, hiện đại hóa công tác quản lý thu thuế theo chiến lược phát triển ngành thuế đến năm 2010 cũng góp phần nâng cao hiệu quả trong quản lý thuế Tất cả những nỗ lực này đều hướng đến việc cải thiện hệ thống thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế.
Đánh giá việc thực hiện cơ chế, công cụ tài chính hỗ trợ cho sự phát triển
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, DNNVV đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước Trong 10 năm qua, Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của loại hình kinh tế này Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được cải thiện tích cực, mang lại nhiều ưu đãi và sự bình đẳng hơn cho DNNVV, giảm thiểu tình trạng phân biệt so với DNNN Đặc biệt, việc tiếp cận các nguồn vốn, công nghệ, đất đai, lao động và thông tin thị trường đã trở nên thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các DNNVV.
Trong 10 năm qua, thành tựu của công cuộc phát triển kinh tế xã hội và sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Gia Lai đã chứng minh rằng cơ chế tài chính và các công cụ tài chính được triển khai đã phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ DNNVV Điều này thể hiện rõ qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Cơ chế tài chính hiện hành đã thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể trong hệ thống tài chính, giúp họ chủ động thực hiện các quan hệ tài chính phù hợp với quản lý kinh tế thị trường và tình hình kinh tế xã hội địa phương Điều này tạo ra sự minh bạch và thông thoáng, hình thành môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy phát huy nguồn lực xã hội, nhanh chóng phát triển sức sản xuất, giải quyết các vấn đề xã hội và góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội Các công cụ ngân sách, tín dụng ngân hàng và tín dụng nhà nước đã chứng minh vai trò tích cực trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên toàn quốc, đặc biệt là tại Gia Lai.
Chính quyền địa phương đã khéo léo áp dụng cơ chế tài chính và các công cụ tài chính để phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi Điều này khuyến khích doanh nghiệp và cộng đồng dân cư đầu tư vào phát triển kinh tế xã hội, đồng thời thực hiện các biện pháp đa dạng để thu hút nguồn vốn từ các địa phương khác Nhờ đó, Gia Lai đã huy động được một lượng vốn đáng kể cho đầu tư phát triển, góp phần quan trọng vào việc duy trì mức tăng trưởng kinh tế hai con số trong những năm qua.
Mặc dù có nhiều ưu điểm, vẫn tồn tại những vấn đề trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Các chuyên gia và nhà quản lý nhận định rằng hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh hiện tại chưa đáp ứng kịp với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của DNNVV Điều này đã trở thành thách thức lớn và cản trở tiến trình phát triển của DNNVV trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
Cơ chế và chính sách tài chính hiện nay còn nhiều bất cập, đặc biệt là thiếu tính minh bạch và chưa bao quát hết các hoạt động của các chủ thể kinh tế xã hội trong cơ chế thị trường Điều này thể hiện rõ trên nhiều phương diện khác nhau.
2.3.2.1 Thuế, phí và lệ phí
Hệ thống sắc thuế tại Việt Nam đã được luật hoá và áp dụng thống nhất trên toàn quốc, nhưng vẫn còn một số hạn chế trong công cuộc cải cách thu ngân sách nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực thuế Các nhà kinh tế nhận định rằng cần có sự bổ sung và hoàn thiện để nâng cao hiệu quả của hệ thống này.
Hệ thống thuế hiện tại vẫn còn phức tạp và thiếu minh bạch, dẫn đến sự công bằng chưa cao và chi phí thời gian cho doanh nghiệp vẫn lớn Mặc dù thuế GTGT chỉ có hai mức 5% và 10% (ngoại trừ mức 0% cho hàng xuất khẩu), việc xác định thuế cho một số hàng hóa và dịch vụ vẫn rất phức tạp, đặc biệt khi áp dụng chính sách giảm thuế GTGT để chống suy giảm kinh tế Thêm vào đó, tỷ lệ khấu trừ đầu vào và đầu ra làm cho việc tính toán khấu trừ thuế trở nên khó khăn Hơn nữa, thuế nhập khẩu có quá nhiều dòng thuế và mức thuế khác nhau, cùng với hệ thống thuế chồng chéo và các quy định có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ.
Nền kinh tế hiện tại chưa được điều tiết hoàn toàn về các nguồn thu, với mỗi loại thuế có nhiều mức thuế suất khác nhau Cụ thể, thuế thu nhập cá nhân có tới 7 mức thuế suất, trong khi một số chính sách thuế vẫn thiếu công cụ để đối phó với các biện pháp như trợ giá, chuyển giá và bán phá giá hàng nhập khẩu.
Mức thuế suất của một số sắc thuế vẫn còn cao, gây khó khăn trong việc khuyến khích tính tự giác của doanh nghiệp trong việc khai báo nghĩa vụ thuế Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, vẫn có tâm lý trốn tránh và gian dối trong việc khai báo thuế, nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp Dù thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm nhiều trong thời gian qua, nhưng mức hiện tại là 25% vẫn được xem là cao bởi nhiều doanh nghiệp.
Mặc dù thể chế quản lý thuế đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng cơ quan thuế vẫn gặp nhiều vấn đề bất cập trong việc thực hiện giao và nhận dự toán cũng như thanh tra, kiểm tra Ngành tài chính hàng năm vẫn duy trì cơ chế giao chỉ tiêu dự toán từ Trung ương đến địa phương, dẫn đến việc hành thu của cơ quan thuế bị méo mó và áp lực được chuyển giao cho doanh nghiệp Mặc dù có nhiều chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp, nhưng việc triển khai vẫn chưa hiệu quả do doanh nghiệp không nắm bắt thông tin, lo ngại về hành vi gian dối, và cán bộ thuế chỉ tập trung vào việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch được giao.
2.3.2.2 Chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển
Mặc dù ngân sách được ưu tiên cho đầu tư phát triển, nhưng tính tập trung, dứt điểm và hiệu quả trong chi đầu tư từ nguồn vốn NSNN vẫn còn nhiều vấn đề, dẫn đến tình trạng lãng phí ngay từ khâu thiết kế và lựa chọn dự án Hiện nay, nội dung chi đầu tư chỉ chú trọng đến quy mô vốn xây dựng cơ bản, khiến hiệu quả đầu tư chậm được phát huy Do đó, mặc dù tăng trưởng kinh tế đạt mức cao, chất lượng tăng trưởng vẫn hạn chế và thiếu bền vững, dẫn đến vòng luẩn quẩn với công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp và sức cạnh tranh yếu Hơn nữa, việc quy hoạch đầu tư tổng thể chưa rõ ràng cũng gây khó khăn cho việc sử dụng hiệu quả ngân sách nhằm kích thích tăng trưởng và duy trì nguồn thu lâu dài cho NSNN.
Các khoản chi cho lợi ích lâu dài như khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, giáo dục, đào tạo nghề và hỗ trợ xúc tiến thương mại chưa được chú trọng đúng mức, ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững Tại Gia Lai, những khoản chi này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm.
2.3.2.3 Tín dụng Nhà nước i) Tín dụng ưu đãi và hỗ trợ lãi suất
Việc đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Gia Lai chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) Gia Lai, tuy nhiên, VDB chỉ tập trung vào hỗ trợ cho vay vốn và lãi suất theo quy định của Chính phủ DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn này, bao gồm việc phải thực hiện dự án đầu tư tương tự như các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước để được vay vốn ưu đãi Hơn nữa, tỷ lệ cho vay đầu tư của VDB rất thấp, chỉ đáp ứng khoảng 30-40% tổng số vốn đầu tư, dẫn đến vốn cho vay ưu đãi chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng vốn cho vay của VDB Gia Lai.
Chính phủ đã giao cho VDB thực hiện bảo lãnh vay vốn cho các DNNVV tại Gia Lai, tuy nhiên, hạn mức bảo lãnh vẫn bị giới hạn theo chỉ tiêu kế hoạch của VDB và quy trình bảo lãnh còn phức tạp Tổng Giám đốc VDB, Nguyễn Quang Dũng, cho biết VDB gặp khó khăn trong việc thẩm định và xác định tính hiệu quả của dự án, dẫn đến việc nhận chứng thư bảo lãnh cho DNNVV không dễ dàng Tại Gia Lai, tỉnh chưa có đề án tổ chức các quỹ đầu tư phát triển và quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, khiến việc huy động tài chính cho đầu tư phát triển của doanh nghiệp gặp nhiều hạn chế Điều này tạo ra thiệt thòi lớn cho doanh nhân và DNNVV tại Gia Lai so với các doanh nghiệp ở thành phố lớn như Hồ Chí Minh, nơi có sự hỗ trợ lên tới 50–100% lãi suất sau đầu tư với số vốn hỗ trợ lên đến 100 tỷ đồng và thời gian kéo dài tới 7 năm.