1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc lớp 1, 2, 3

88 21 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sử Dụng Câu Hỏi Trong Dạy Học Tập Đọc Lớp 1, 2, 3
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà
Người hướng dẫn Cô Giáo Lê Thị Thanh Bình
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Giáo Dục Tiểu Học
Thể loại Khoá Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2006
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 801,66 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (6)
  • 3. Nhiệm vụ nghiên cứu (6)
  • 4. Khách thể và đối tợng nghiên cứu (6)
  • 5. Giả thuyết khoa học (7)
  • 6. Phơng pháp nghiên cứu (7)
  • 7. Cấu trúc khoá luận (7)
    • 1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề (0)
    • 1.2 Một số khái niệm cơ bản (9)
      • 1.2.1 Định nghĩa câu hỏi (9)
      • 1.2.2 Câu hỏi trong dạy học (10)
    • 1.3 Câu hỏi trong dạy học tập đọc (12)
      • 1.3.1 Đặc điểm của câu hỏi trong dạy học tập đọc (12)
      • 1.3.2 ý nghĩa của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc lớp 1, 2, 3 (0)
    • 1.4 Khái quát về phân môn Tập Đọc ở lớp 1, 2, 3 (16)
      • 1.4.1 Mục đích – yêu cầu (16)
      • 1.4.2 Néi dung (17)
    • 1.5 Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1, 2, 3 (21)
  • Chơng II Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu (0)
    • 2.1 Thực trạng nhận thức của giáo viên trong việc sử dụng câu hỏi để dạy học Tập Đọc (23)
    • 2.2 Thực trạng của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học Tập Đọc ở lớp 1, 2, 3 hiện nay (24)
    • 2.3 Hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi trong việc thực hiện mục tiêu của bàitập đọc (0)
    • 2.4 Nguyên nhân của thực trạng (28)
  • Chơng III Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi (0)
    • 3.1 Nguyên tắc đề xuất biện pháp (0)
      • 3.1.1 Nguyên tắc khoa học (30)
      • 3.1.2 Nguyên tắc hệ thống (31)
      • 3.1.3 Nguyên tắc vừa sức (32)
    • 3.2 Các biện pháp (32)
      • 3.2.1 Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với mục tiêu của bài tập đọc (32)
      • 3.2.2 Xây dựng hệ thống câu hỏi đảm bảo sự đa dạng, phong phú về kiểu loại câu hái (36)
      • 3.2.3 Hình thành quy trình sử dụng câu hỏi trong dạy học Tập Đọc ở lớp 1, 2, 3 (0)
      • 3.2.4 Sử dụng câu hỏi kết hợp với các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát (54)
      • 3.2.5 Sử dụng câu hỏi kết hợp với các phơng tiện dạy học (57)
    • 3.5 Thực nghiệm s phạm (58)
      • 3.5.1 Mục đích thực nghiệm (58)
      • 3.5.2 Đối tợng thực nghiệm (59)
      • 3.5.3 Nội dung thực nghiệm (59)
      • 3.5.4 Quy trình thực nghiệm (0)
      • 3.5.5 Phân tích thực nghiệm (0)
  • Tài liệu tham khảo (87)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn dạy học tập đọc ở lớp 1, 2, 3, chúng tôi muốn làm rõ ý nghĩa của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học Việc áp dụng câu hỏi không chỉ giúp học sinh phát triển tư duy mà còn tăng cường khả năng tiếp thu kiến thức Chúng tôi đề xuất quy trình sử dụng câu hỏi hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy học tập đọc cho học sinh ở các lớp này.

Nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc ở lớp 1, 2, 3

3.2 Thực nghiệm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc ở lớp 2.

Khách thể và đối tợng nghiên cứu

Ph-ơng pháp dạy học tập đọc ở lớp 1,2,3

Ph-ơng pháp sử dụng dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học tập đọc ở lớp 1,2,3.

Giả thuyết khoa học

Việc sử dụng câu hỏi trong quá trình dạy học tập đọc cho học sinh lớp 1, 2, 3 theo một quy trình hợp lý không chỉ nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn khuyến khích tính tích cực và chủ động của học sinh.

Phơng pháp nghiên cứu

6.1 Ph-ơng pháp lý thuyết:

+ Đọc và nghiên cứu, tổng kết các tài liệu có liên quan đến đề tài nhằm phân tích cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

 Nghiên cứu SGK tiếng việt 1,2,3, vở bài tập tiếng việt 1,2,3, tài liệu giảng dạy và các tài liệu tham khảo để xây dựng hệ thống câu hỏi

Phương pháp thực tiễn được áp dụng thông qua việc điều tra và khảo sát tình hình sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc tại các trường tiểu học Điều này được thực hiện bằng cách dự giờ và trao đổi với giáo viên, từ đó tổng hợp thông tin để rút ra nhận xét và đánh giá về hiệu quả của phương pháp này.

Cấu trúc khoá luận

Một số khái niệm cơ bản

Trong cuộc sống, chúng ta thường xuyên đối mặt với nhiều câu hỏi và cần tìm cách giải quyết chúng Khi xem xét các câu hỏi, người ta thường phân tích trên hai khía cạnh chính: nội dung và hình thức.

 Về mặt nội dung: Câu hỏi là những câu nêu lên điều ch-a biết hoặc còn hoài nghi mà ng-ời nói muốn ng-ời nghe trả lời

 Về mặt hình thức: Câu hỏi có nh-ng dấu hiệu đặc tr-ng nh- :

+ Cuèi c©u cã dÊu chÊm hái (?)

+ Có các từ để hỏi: ai; gì; nào; thế nào; sao; bao nhiêu; bao giờ ; bao lâu; mấy;đâu…đặt vào vị trí của thành phần nghi vấn

+ Các phụ từ : có không;đã; ch-a; rồi…phối hơp với nhau tạo thành khuôn mÉu c©u hái

+ Có từ “hay”đặt tại giữa hai vế câu dể thể hiện sự nghi vấn lựa chọn

+ Có các hình thái từ dặt ở cuối câu: à; ừ; hả; hở; chứ; chớ; nhỉ; nhé…

Trong thực tế, có những câu hỏi không yêu cầu trả lời, mà chỉ nhằm khẳng định, phủ định hoặc bác bỏ một điều gì đó Chúng có thể được sử dụng để thúc giục hành động, đánh thức cảm xúc, can ngăn, đe dọa hoặc từ chối một điều Những câu hỏi này còn có thể bộc lộ tình cảm và cảm xúc trước các sự việc hoặc hành động.

1.2.2 Câu hỏi trong dạy học

1.2.2.1 Khái niệm câu hỏi trong dạy học

Dạy học là một quá trình thống nhất giữa hoạt động của thầy và trò, phản ánh tính chất hai mặt của quá trình này Câu hỏi trong dạy học, do giáo viên hoặc học sinh đưa ra, nhằm gợi mở và làm sáng tỏ các vấn đề mới Qua đó, giáo viên và học sinh có thể rút ra những kết luận cần thiết từ tài liệu đã học, kinh nghiệm thực tiễn, và củng cố kiến thức, kiểm tra kết quả học tập hiệu quả.

1.2.2.2 Phân loại câu hỏi trong dạy học:

Hiện nay, có nhiều cách phân loại câu hỏi trong dạy học Sau đây chúng tôi xin trình bày một số cách phân loại phổ biến

 Phân loại theo đặc điểm :

Nếu coi câu hỏi là một trong những thành phần của bộ máy tổ chức, lĩnh hội, cho phép ta chia ra làm 3 nhóm câu hỏi sau:

Nhóm câu hỏi đầu tiên nhằm củng cố tri thức, bao gồm việc tái hiện những kiến thức đã học, hệ thống hóa các sự kiện và khái niệm cơ bản, đồng thời rèn luyện các kỹ năng cần thiết.

Nhóm câu hỏi thứ hai tập trung vào việc giúp học sinh phát triển khả năng tư duy logic và sáng tạo Những câu hỏi này khuyến khích hoạt động phân tích, tổng hợp độc lập, so sánh khái quát và đánh giá để rút ra kết luận, từ đó làm phong phú thêm hệ thống tri thức của học sinh.

Nhóm câu hỏi thứ ba yêu cầu người học ứng dụng kiến thức đã tiếp thu vào thực tế Điều này thể hiện qua các hành động cụ thể, hình thành công việc và thể hiện khả năng ứng dụng các kỹ năng đã học.

 Phân loại dựa vào tiến trình bài dạy gồm:

+ Câu hỏi kiểm tra bài cũ: Là những câu hỏi dùng để kiểm tra những kiến thức đã học

+ Câu hỏi để dạy bài mới: Là những câu hỏi giúp học sinh khai thác bài học + Câu hỏi củng cố: Để củng cố kiến thức đã học

 Phân loại dựa vào mục đích gồm các loại:

+ Câu hỏi gợi mở: Giáo viên khéo léo dẫn dắt học sinh bằng các câu hỏi để các em tù rót ra kÕt luËn cÇn thiÕt

 Câu hỏi củng cố đ-ợc sử dụng sau khi truyền thụ tri thức mới nhằm giúp học sinh hoàn thiện tài liệu đã học

Câu hỏi kiểm tra được áp dụng trước, trong hoặc sau giờ dạy, nhằm đánh giá kiến thức của học sinh sau khi hoàn thành một hoặc nhiều bài học, chương, hoặc toàn bộ môn học.

Câu hỏi tổng kết được sử dụng để giúp học sinh hệ thống hóa và khái quát hóa những kiến thức đã học từ các bài, chương hoặc toàn bộ bài học.

 Phân loại theo hình thức thực hiện gồm :

+ Câu hỏi trả lời miệng

+ Câu hỏi trả lời viết

Câu hỏi trong giáo dục có thể được phân loại theo đối tượng thực hiện, bao gồm câu hỏi dành cho cả lớp, nhóm học sinh, cá nhân, học sinh đại trà, học sinh yếu, và học sinh khá, giỏi Việc phân loại này giúp giáo viên dễ dàng điều chỉnh phương pháp giảng dạy và tạo ra môi trường học tập phù hợp cho từng đối tượng học sinh.

Phân loại câu hỏi theo mức độ tính độc lập của học sinh dựa trên hoạt động của họ khi tìm câu trả lời Câu hỏi có thể được chia thành các loại: câu hỏi yêu cầu tái hiện chi tiết, câu hỏi yêu cầu giải thích và cắt nghĩa, câu hỏi yêu cầu bàn luận và phát biểu ý kiến chủ quan, cùng với sự đánh giá cá nhân của học sinh.

Việc phân loại câu hỏi thành một hệ thống logic chặt chẽ là một nhiệm vụ khó khăn, do đó cần lưu ý rằng việc phân loại này chỉ mang tính tương đối, nhằm mục đích tìm ra cách sử dụng hợp lý cho các loại câu hỏi.

Câu hỏi trong dạy học tập đọc

Câu hỏi đ-ợc sử dụng rộng rãi trong tất cả các môn học Tuy nhiên, tuỳ từng môn học, câu hỏi có đặc điểm và ý nghĩa riêng

1.3.1 Đặc điểm của câu hỏi trong dạy học tập đọc

Câu hỏi đóng vai trò quan trọng trong việc dạy học, đặc biệt là trong việc dạy đọc cho học sinh lớp 1, 2, 3 Nó liên quan đến "Vấn đề cơm ăn nước uống hàng ngày", giúp tổ chức và thúc đẩy quá trình lĩnh hội kiến thức Các đặc điểm của câu hỏi này bao gồm khả năng kích thích tư duy và khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập.

Câu hỏi trong dạy học tập đọc khác với câu hỏi thông thường trong cuộc sống, vì chúng không nhằm đánh đố học sinh mà là những câu hỏi mở, giúp học sinh khai thác bài học hiệu quả Những câu hỏi này hướng dẫn học sinh nắm vững tri thức và kỹ năng cần thiết để phục vụ cho cuộc sống và việc học tập.

Các câu hỏi được đưa ra cần có mục đích rõ ràng, nhằm giúp học sinh đạt được những kiến thức cần thiết Mục tiêu của các câu hỏi là để học sinh phát triển kỹ năng trong quá trình tìm kiếm câu trả lời.

Để soạn thảo các câu hỏi hiệu quả, cần dựa vào môn học và đối tượng tiếp nhận, cụ thể là ngôn ngữ học và sư phạm Điều này đặc biệt quan trọng khi áp dụng cho các bài tập đọc dành cho học sinh lớp 1, 2 và 3.

 Câu hỏi ở đây đ-ợc hiểu theo quan điểm coi câu hỏi là khái niệm rộng nhất

Bài viết này bao gồm cả câu hỏi và bài tập, được phân loại theo yêu cầu và độ khó trong quá trình giải quyết Nội dung có thể là câu hỏi lý thuyết hoặc bài tập thực hành, tùy thuộc vào mục đích học tập.

Những câu hỏi trong bài viết cho thấy học sinh chỉ cần vận dụng kiến thức đã học hoặc tra cứu trong sách giáo khoa để trả lời, cho thấy đây là những câu hỏi thông thường và chưa yêu cầu tư duy cao.

Ví dụ: Ng-ời ông đanh những quả đào cho ai?

Những câu hỏi yêu cầu học sinh áp dụng kiến thức đã học và thực hiện các thao tác phức tạp để giải quyết những nhiệm vụ khó khăn hơn được gọi là bài tập.

Ví dụ: Tóm tắt ý của mỗi đoạn bằng cách điền tiếp ý kiến vào từng chỗ trống

 Đoạn 1: Tả vẻ đẹp của…

 Đoạn 2: Tả vẻ đẹp của…

 Đoạn 3: Tả cảm xúc của…

(Ngôi tr-ờng mới – TV2 – T1)

Dựa vào những đặc điểm chung, chúng ta có thể xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp cho từng bài tập đọc ở lớp 1, 2, 3 Việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc không chỉ giúp học sinh hiểu rõ nội dung bài đọc mà còn phát triển kỹ năng tư duy và khả năng phân tích Điều này rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giảng dạy và tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập.

Câu hỏi đóng vai trò quan trọng trong dạy học tập đọc, như tác giả Lê Ph-ơng Nga đã chỉ ra, rằng phương pháp dạy học mới yêu cầu xây dựng giờ học thành một hệ thống các hoạt động liên kết chặt chẽ Việc này không chỉ giúp đạt được kết quả tốt cho học sinh mà còn yêu cầu giáo viên thiết kế một hệ thống câu hỏi và bài tập phù hợp Qua hệ thống này, giáo viên có thể xác định rõ mục tiêu của giờ dạy, trình tự giảng dạy và dự đoán kết quả của một giờ tập đọc.

Việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học tập đọc, đặc biệt ở lớp 1, 2, 3, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hoạt động của giáo viên và học sinh, giúp các hoạt động này không lệch khỏi mục tiêu giảng dạy Hơn nữa, việc áp dụng hệ thống câu hỏi còn góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục, đó là đào tạo những con người phát triển toàn diện về giáo dục, giáo dưỡng và phát triển.

Trả lời các câu hỏi giúp học sinh củng cố kiến thức bài học, nâng cao vốn tiếng Việt và văn học, đồng thời phát triển tư duy và mở rộng hiểu biết về cuộc sống Qua việc tái hiện và phát hiện, học sinh có thể hình thành biểu tượng rõ nét về các sự vật và hiện tượng.

Ví dụ: Qua việc trả lời các câu hỏi trong bài “Cây đa quê h-ơng”, học sinh hiểu đ-ợc đặc điểm, tác dụng của cây đa…

Một nhà tâm lý đã khẳng định rằng "chỉ có trong phát triển tư duy, học sinh mới có thể hiểu rõ bản chất của hiện tượng một cách hiệu quả" Vì vậy, trong quá trình tìm kiếm câu trả lời, những tri thức mà học sinh đạt được sẽ được ghi nhớ bền vững, từ đó mở mang trí tuệ và nâng cao nhận thức của các em.

Hệ thống câu hỏi được thiết kế hợp lý từ đầu giúp người dạy và người học đi đúng hướng, tránh tình trạng lan man và đảm bảo vấn đề cốt lõi được giải quyết hiệu quả.

Tập đọc là môn học quan trọng trong việc thực hành tiếng Việt, với nhiệm vụ chính là hình thành năng lực đọc cho học sinh Năng lực đọc được xây dựng từ bốn kỹ năng cơ bản: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc hay Kỹ năng này được phát triển thông qua việc tìm kiếm và trả lời các câu hỏi liên quan.

Để trả lời các câu hỏi của giáo viên trong giờ học, học sinh cần kết hợp nhiều hoạt động như lắng nghe, theo dõi tài liệu, huy động trí nhớ và suy nghĩ để tìm ra đáp án Quá trình này không chỉ giúp học sinh linh hoạt và nhạy bén hơn trong nhận thức mà còn nâng cao năng lực tư duy, khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh và đối chiếu Đồng thời, các kỹ năng đọc, nghe và nói của học sinh cũng được củng cố và phát triển.

Khái quát về phân môn Tập Đọc ở lớp 1, 2, 3

 Phát triển các kỹ năng nghe, đọc, nói cho học sinh

 C-ờng độ đọc vừa phải

 Tốc độ đọc vừa phải (không ê, a ngắc ngứ đạt yêu cầu khoảng 10 tiếng/phút - đối với lớp1; 50 tiếng/1 phút - đối với lớp 2; 70- 80 tiếng/1 phút - đối với lớp 3 )

 Đọc thầm và hiểu nội dung:

 Biết đọc không thành tiếng, không mấp máy môi

 Hiểu đ-ợc nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh, nắm đ-ợc nội dung của câu, đoạn hoặc bài đã học

 Nghe và nắm đ-ợc cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài

 Nghe – hiểu các câu hỏi và yêu cầu cảu thầy cô

 Nghe – hiểu và có khẳ năng nhận xét ý kiến của bạn

 Biết trao đổi với bạn trong nhóm về bài đọc

 Biết trả lời các câu hỏi về bài đọc

 Trau dồi vốn tiếng việt, vốn văn học, phát triển t- duy mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống:

Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu giúp mở rộng hiểu biết về cuộc sống và hình thành các kỹ năng thiết yếu cho học tập và đời sống Những kỹ năng này bao gồm khai lý lịch, đọc thời khóa biểu, nhận và gọi điện thoại, điền vào tờ khai, làm đơn, viết thư, phát biểu trong cuộc họp, và giới thiệu hoạt động của trường lớp.

 Phát triển một số thao tác t- duy cơ bản: Phân tích, tổng hợp phán đoán

Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng là rất quan trọng Điều này bao gồm việc phát triển tình yêu với cái đẹp và cái thiện, cũng như thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống Hơn nữa, việc khuyến khích hứng thú đọc sách và yêu thích tiếng Việt sẽ góp phần tạo nên một thế hệ có tri thức và nhân cách tốt đẹp.

Bồi dưỡng tình cảm yêu quý và kính trọng đối với ông bà, cha mẹ và thầy cô là rất quan trọng Đồng thời, cần phát triển lòng biết ơn và yêu thương trường lớp, khuyến khích sự đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, và thực hành tinh thần vị tha trong cuộc sống.

 Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện xã giao tối thiếu

Thông qua những câu chuyện, bài văn và bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa, chúng ta có thể nuôi dưỡng lòng ham muốn đọc sách, phát triển khả năng cảm thụ văn học, cảm nhận vẻ đẹp của tiếng Việt và khơi dậy tình yêu đối với ngôn ngữ này.

Lớp 1: Gồm 38 bài tập đọc trong phần lý thuyết tổng hợp gồm 3 chủ điểm nhà tr-ờng, gia đình, thiên nhiên đất n-ớc sắp xếp xen kẽ nhau giữa các tuần

Trường em là nơi gắn bó với những kỷ niệm đáng nhớ, từ việc tặng cháu cái nhãn vở ý nghĩa cho đến những bài học quý giá từ mẹ và cô Quyển vở của em không chỉ là nơi ghi chép kiến thức mà còn là chứng nhân cho những câu chuyện thú vị, như chuyện về con quạ thông minh hay mèo con đi học Ở lớp, tình bạn tốt đẹp luôn là điều quý giá, như cây bàng rợp bóng mát trong sân trường Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng nói dối có thể gây hại cho bản thân và người khác.

Bàn tay mẹ ấm áp, cùng với hình ảnh cái bống và những bức vẽ ngựa, tạo nên không gian thân thuộc trong ngôi nhà Quà của bố mang lại niềm vui, và giờ đây mẹ mới trở về, đứng ở ngưỡng cửa Những câu chuyện được kể cho bé nghe giữa hai chị em, cùng với sự hiện diện của bác, tạo nên tình cảm gắn bó Hình ảnh người trồng mạ thể hiện sự cần cù và yêu thương trong cuộc sống.

Hoa ngọc lan, ai dậy sớm, m-u chú sẻ, đầm sen, mời vào, chú công, hồ g-ơm, luỹ tre, sau cơm m-a, anh hùng biển cả, ò… ó o, không nên phá tổ chim.

Sáng nay – Con chuột huyênh hoang

Lớp 2: Gồm 93 bài sắp xếp trong 15 chủ điểm

 Có công mài sắt có ngày nên kim

 Tự thuật – Ngày hôm qua đâu rồi – Phần th-ởng

 Làm việc thật là vui – Mít làm thơ

Bạn của nai nhỏ- Danh sách học sinh tổ 1, lớp 2A – Gọi bạn – Bím tóc đuôi sam – Trên chiếc bè – Mít làm thơ

Chiếc bút mực – Mục lục sách - Cái trống tr-ờng em – Mẩu giấy vụn – Ngôi tr-ờng mới – Mua kính

Thầy cô là những người thầy cũ, luôn đồng hành trong thời gian học tập của chúng em Cô giáo lớp em như người mẹ hiền, với bàn tay dịu dàng và sự chăm sóc tận tình Ông bà là nguồn cảm hứng và sáng kiến của bé Hà, với những kỷ niệm đáng nhớ qua từng bức thiếp và bài thơ tình cảm mà cháu dành tặng.

Cây xoài của ông em - Đi chợ

Cha mẹ Sự tích cây vũ sữa - Điện thoại – Mẹ – Bông hoa niềm vui –

Quà của bố – Há miệng chờ sung

Anh em Câu chuyện bó đũa – Nhắn tin – Tiếng võng kêu – Hai anh em – Bé Hoa – Bán chó

Bạn trong nhà Con chó nhà hàng xóm – Thời gian biểu - Đàn gà mới nở –

Tìm ngọc – Gà tỉ tê với gà - Thêm sừng cho ngựa

Bốn mùa Chuyện bốn mùa - Lá th- nhầm địa chỉ - Th- trung thu - Ông mạnh thắng thần gió - mùa xuân đến - mùa n-ớc nổi

Chim sơn ca và bông cúc trắng - Thông báo của th- viện v-ờn chim – Vè chim – Một trí khôn hơn trăm trí khôn – Chim

Muôn thú Bác sĩ sói – Nội quy đảo khỉ – S- tử xuất quân – quả tim khỉ

– Gấu trắng là chúa tò mò- Voi nhà

Sông biển Sơn Tinh, Thuỷ Tinh – Dự báo thời tiết – Tôm càng và cá con

– Bé nhìn biển – Sông H-ơng – Cá sấu sợ cá mập

Quả bầu là một biểu tượng quan trọng trong văn hóa dân gian, được thể hiện qua nhiều tác phẩm như "Quyển số liên lạc" và "Tiếng chổi tre" Những hình ảnh như "bóp nát quả cam" hay "lá cờ" mang đến cảm xúc sâu sắc, trong khi "L-ợm" thể hiện sự sáng tạo của người làm đồ chơi Đàn bê của anh Hồ giáo là một minh chứng cho sự kết nối giữa con người và âm nhạc, trong khi sự kiện "cháy nhà hàng xóm" lại phản ánh những thách thức trong cuộc sống.

Lớp 3: Gồm 93 bài sắp xếp trong 15 chủ điểm

Măng non Cậu bé thông minh; Hai bàn tay em; Đơn xin vào đội;

Ai có lỗi? Khi mẹ vắng nhà; Cô giáo tí hon

Chiếc áo len; Quạt cho bà ngủ; Chú sẻ và bông hoa bằng lăng; Ng-ời mẹ; Mẹ vắng nhà ngày bão; Ông ngoại

Ng-ời lính dũng cảm; Mùa thu của em; Cuộc họp của chữ viết; Bài tập làm văn; Ngày khai tr-ờng; Nhớ lại buổi đầu đi học

Cộng đồng Trận bóng d-ới lòng đ-ờng; Lừa và ngựa; Bận; Các em nhỏ và cụ già; Tiếng ru; Những chiếc chuông reo

Quê h-ơng Giọng quê h-ơng; Quê h-ơng; Th- gửi bà; Đất quý đất yêu; Vẽ quê h-ơng; Chõ bánh khúc của gì tôi

Nắng phương Nam rực rỡ, cảnh đẹp non sông luôn gợi nhớ về miền Nam, nơi có người con của Tây Nguyên Vàm Cỏ Đông và Cửa Tùng là những địa điểm đáng nhớ, cùng với hình ảnh người liên lạc nhỏ và ký ức về Việt Bắc Trường tiểu học vùng cao và hũ bạc của người cha gợi nhắc về quê hương, trong khi nhà bố ở và nhà rông ở Tây Nguyên mang đến cảm giác gần gũi và ấm áp.

Thành thị và nông thôn Đôi bạn; Về quê ngoại; Ba điều -ớc; Mồ côi xử kiện;

Anh đom đóm; Âm thanh thành phố

Hai bà trưng đã báo cáo kết quả tháng thi đua noi gương chú bộ đội, những người đã trở về làng sau thời gian ở lại với chiến khu Họ đã đứng bên bác Hồ và vượt qua những chặng đường khó khăn trên đường mòn Hồ Chí Minh.

Bảo vệ tổ quốc Ông tổ nghề thêu; Bàn tay cô giáo; Ng-ời tri thức yêu n-ớc; Nhà bác học và bà cụ; Cái đầu; Chiếc máy bơm

Nhà ảo thuật; Em vẽ Bác Hồ; Ch-ơng trình xiếc đặc sắc; Đối đáp với vua; Mặt trời mọc ở đằng tây; Tiếng đàn

Hội vật; Hội đua voi ở tây nguyên; Ngày hội rừng xanh; sự tích lễ hội Chử Đồng Tử; Đi hội chùa h-ơng; R-ớc đèn ông sao

Cuộc chạy đua trong rừng; Cùng vui chơi; Tin thể thao;

Buổi học thể dục; Bé thành phi công; Lời kêu gọi toàn d©n tËp thÓ dôc

Gặp gỡ ở Lúc-xăm-bua tạo nên một mái nhà chung, nơi ngọn lửa ô-lim-pích tỏa sáng Bác sĩ Y-éc-xanh truyền cảm hứng qua bài hát trồng cây, trong khi hình ảnh con cò và người đi săn cùng con vợt gợi lên những kỷ niệm đẹp Mè hoa lợn sóng mang đến sự sống động, và cuốn sổ tay ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ.

Cóc kiện trời; Mặt trời xanh của tôi; Quà của đồng nội;

Sự tích chú cuội cung trăng; M-a; Trên con tàu vũ trụ

Bỗu trời và mặt đất Cóc kiện trời; Mặt trời xanh của tôi; Quà của đồng nội;

Sự tích chú cuội cung trăng; M-a; Trên con tàu vũ trụ

Các ngữ liệu được sử dụng trong việc dạy tập đọc rất đa dạng về nội dung và thể loại, bao gồm cả văn bản nghệ thuật và văn bản thông thường như khoa học, truyền thông và báo chí hành chính Tỉ lệ các loại văn bản này được phân chia một cách hợp lý để đảm bảo hiệu quả trong quá trình giảng dạy.

Lớp Văn bản nghệ thuật Văn bản thông th-ờng

- Các bài tập đọc đ-ợc xây dựng theo quan điểm giao tiếp

Hệ thống bài học phân môn tập đọc không chỉ rèn luyện kỹ năng nghe, nói, viết cho học sinh mà còn cung cấp cho các em những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội và con người Qua đó, học sinh được trang bị vốn từ phong phú, khả năng diễn đạt tốt và hiểu biết về các tác phẩm văn học, góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách.

Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1, 2, 3

Quá trình dạy học là sự nhận thức của học sinh, vì vậy giáo viên cần chú ý đến đặc điểm nhận thức của từng học sinh Để nâng cao chất lượng dạy học, giáo viên cần áp dụng các biện pháp và phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng Qua việc nghiên cứu tài liệu tâm lý và thực tế, chúng tôi đã xác định được một số đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1, 2, 3 như sau:

Học sinh lớp 1, 2, 3 đang trong giai đoạn làm quen với hoạt động học, nhưng khả năng chú ý của các em còn yếu và chưa có sự điều chỉnh có ý thức Ở độ tuổi này, sự chú ý không chủ định phát triển chậm, khiến các em dễ bị phân tâm bởi những yếu tố mới mẻ và bất ngờ Sự tập trung của các em còn thiếu bền vững, do quá trình ức chế não bộ chưa phát triển mạnh mẽ, dẫn đến việc dễ quên yêu cầu của giáo viên Để cải thiện tình trạng này, giáo viên nên đưa ra những câu hỏi ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, có thể trình bày bằng phiếu bài tập để hỗ trợ học sinh.

Tư duy của học sinh ở giai đoạn này chủ yếu là tư duy trực quan hình tượng, với năng lực phân tích chưa phát triển Các em dễ dàng nhận diện và phân tích hành động bên ngoài của nhân vật trong tác phẩm, nhưng gặp khó khăn trong việc đưa ra nhận xét về tính cách của các nhân vật.

Năng lực so sánh và tổng hợp của học sinh ở giai đoạn này còn hạn chế, khiến các em chỉ có thể trả lời những câu hỏi đơn giản Các em gặp khó khăn khi phải so sánh và tổng hợp ý nghĩ, cảm xúc của nhân vật trong bài, đặc biệt khi những cảm xúc này không được bộc lộ rõ ràng Khả năng khái quát của các em yếu, thường sa vào chi tiết cụ thể và thiếu khả năng tổng hợp vấn đề Việc tìm đại ý của bài đọc trở nên khó khăn do vốn sống nghèo nàn và trình độ nhận thức hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng thể hiện suy nghĩ Tuy nhiên, trong quá trình học tập, khả năng chú ý và tư duy của các em đang dần được phát triển và nâng cao.

Ở lứa tuổi này, nhu cầu nhận thức của trẻ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy các em tìm hiểu về thế giới xung quanh Nhu cầu này không chỉ là một trong những nhu cầu tinh thần mà còn có vai trò quan trọng trong sự phát triển trí tuệ, giúp trẻ hướng tới kho tàng tri thức nhân loại và đỉnh cao của khoa học, nghệ thuật Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động học tập hiệu quả cho học sinh.

Để nâng cao hiệu quả giờ học, giáo viên cần nắm vững đặc điểm nhận thức và trình độ của học sinh Việc tìm hiểu này là một quá trình lâu dài nhưng rất cần thiết Giáo viên cần xác định rõ những ưu điểm và hạn chế của học sinh để có biện pháp phát huy thế mạnh và khắc phục những điểm yếu.

Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

Thực trạng nhận thức của giáo viên trong việc sử dụng câu hỏi để dạy học Tập Đọc

để dạy học tập đọc

Phương pháp dạy học tập đọc đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà sư phạm, với nhiều tài liệu trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề này Tất cả đều thống nhất rằng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc là rất quan trọng và cần thiết Theo tác giả Lađ-den Xcaia, nhiệm vụ chính trong việc phát triển lời nói là tổ chức các hoạt động học tập liên quan đến văn bản có sẵn, và sự thành công của tổ chức này phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống câu hỏi và bài tập được sử dụng.

T.S Lê Ph-ơng Nga, Nguyễn Thị Hạnh cũng đã khẳng định sự cần thiết của việc sử dụng câu hỏi trong quá trình dạy học tập đọc nhằm nâng cao chất l-ợng dạy học và thực hiện quan điểm đổi mới ph-ơng pháp dạy học

Mặc dù việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc rất quan trọng, nhưng nhiều giáo viên vẫn chưa nhận thức đúng vai trò của nó, dẫn đến việc giờ tập đọc chủ yếu là sự giảng dạy một chiều từ giáo viên Để hiểu rõ hơn về nhận thức của giáo viên về việc này, chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra cho giáo viên lớp 1, 2, 3 nhằm thu thập thông tin về việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc.

Một nghiên cứu được thực hiện với 100 giáo viên từ các trường Tiểu học Hội Sơn (Anh Sơn, Nghệ An), Tiểu học Lê Lợi và Tiểu học Lê Mao (Thành phố Vinh) đã cho thấy những kết quả đáng chú ý.

Theo một khảo sát, 62% giáo viên cho rằng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học đọc cho học sinh lớp 1, 2, 3 là không cần thiết Họ cho rằng mục tiêu chính của việc dạy đọc là giúp học sinh đọc đúng, do đó, chỉ cần học sinh thực hiện được điều này là đủ để đạt yêu cầu.

Gần 60% giáo viên không đồng ý với việc cho học sinh làm các câu hỏi dưới dạng bài tập trong giờ tập đọc, và họ không xem đây là một hoạt động học tập hiệu quả.

- 80% giáo viên con lúng túng trong việc tổ chức cho học sinh trả lời các câu hỏi trong giờ tập đọc

Theo một khảo sát, 75% giáo viên cho rằng phương pháp sử dụng câu hỏi trong dạy học đọc không hiệu quả trong việc phát huy tính tích cực và hoạt động chủ động của học sinh.

- 83,5% giáo viên vẫn coi việc sử dụng ph-ơng pháp diễn giảng, đàm thoại là ph-ơng pháp dạy học chủ đạo trong giờ tập đọc.

Thực trạng của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học Tập Đọc ở lớp 1, 2, 3 hiện nay

Trong thực tế dạy học hiện nay, giáo viên ở các lớp 1, 2, 3 chủ yếu áp dụng các phương pháp dạy học truyền thống như làm mẫu và thuyết trình, dẫn đến việc học sinh thụ động tiếp thu kiến thức Cả giáo viên và học sinh đều phụ thuộc vào chương trình và tài liệu học được thiết kế theo lý thuyết chung, không linh hoạt cho từng đối tượng học sinh Hầu hết giáo viên chỉ sử dụng các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa, làm hạn chế khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh.

- Loại thứ nhất: Câu hỏi nhắc lại nôi dung miêu tả, nội dung thông tin của văn bản Những câu hỏi này bao gồm các dạng :

+ Nhắc lại những từ ngữ tạo nghĩa chính trong câu

- Ví dụ: Tìm những từ ngữ giúp em cảm nhận đ-ợc vẻ đẹp riêng của mỗi loài chim?

+ Nhắc lại một câu hoặc một nhóm câu thể hiện trong tâm ý của đoạn

Ví dụ: Tìm những chi tiết cho thấy Quang rất ân hận tr-ớc tai nạn do mình g©y ra?

(Trận bóng d-ới lòng đ-ờng- TV3 – T1)

+Tìm chi tiết trong bài để minh hoạ một nhận định, một nhận xét về bài đọc

Ví dụ: Chi tiết nào nói lên tình cảm tha thiết của các nhân vật đối với quê h-ơng?

- Loại thứ hai: câu hỏi làm rõ những ý bỏ lửng, những hàm ngôn, hàm ẩn trong bài Loại câu hỏi này gồm các dạng sau:

+ Câu hỏi làm rõ mối liên hệ giữa các sự kiện, tình tiết trong bài

Ví dụ: Vì sao thầy giáo không trách An khi biết bạn ấy không làm bài tập? (Bàn tay dịu dàng - TV2 – T1)

+ Câu hỏi làm rõ nghĩa hàm ẩn trong bài

Ví dụ: Em hiểu ý hai dòng thơ cuối bài thơ nh- thế nào?

- Loại thứ ba : Lập dàn ý của bài, loại này chiếm tỉ lệ rất ít, gồm những dạng sau:

+ Cho tr-ớc sự phân đoạn rồi yêu cầu tìm ý từng đoạn

Ví dụ: Tìm những câu thơ cho thấy cả nhà luôn nghĩ đến nhau?

(Mẹ vắng nhà ngày bão – TV3 – T1) +Cho tr-ớc ý của đoạn văn rồi yêu cầu tìm đoạn trong bài

Ngôi trường từ xa hiện lên với những hàng cây xanh mát và những bức tường màu vàng nhạt, tạo nên một khung cảnh thanh bình và gần gũi Bên trong lớp học, không khí học tập sôi nổi với những chiếc bàn ghế gọn gàng và những bức tranh sáng tạo treo trên tường, khiến cho không gian thêm phần sinh động Cảm xúc của học sinh khi bước chân vào trường mới thật lẫn lộn, vừa háo hức vừa lo lắng, nhưng tất cả đều tràn đầy hy vọng về những trải nghiệm thú vị đang chờ đón.

(Ngôi tr-ờng mới – TV2 – T1)

- Loại thứ t-: câu hỏi yêu cầu phát biểu đại ý của bài

Ví dụ: Câu lục bát nào nào nói lên ý chính của cả bài thơ?

- Loại thứ năm: câu hỏi nhận biết giá trị nghệ thuật của các từ ngữ, câu văn chi tiết h- cấu Loại câu hỏi này gồm các dạng:

+ Nhận biết những câu văn hay, gợi hình, gợi cảm

Ví dụ: Tìm những câu thơ tả ánh nắng và bầu trời trên quảng tr-ờng Ba Đình vào mùa thu?

+ Câu hỏi nhận biết giá trị của một chi tiết nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo của tác giả

Ví dụ: Vì sao nên chê đất thấp, biển không nên chê sông nhỏ?

Em hiểu câu nói của ng-ời bố nh- thế nào?

Loại thứ sáu trong các câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích mục đích tác động mà tác giả truyền đạt qua văn bản Học sinh cần nêu rõ sự hồi đáp của bản thân đối với nội dung văn bản cũng như tác động mà tác giả muốn gây ra.

Ví dụ: Câu chuyện khuyên em điều gì ?

Qua câu chuyện em nghĩ gì về giọng quê h-ơng?

Dựa vào những câu hỏi đã thống kê, chúng tôi thấy:

- Hệ thống câu hỏi và bài tập giáo viên sử dụng chỉ tập trung vào những câu

Hệ thống câu hỏi hiện tại thiếu sót nghiêm trọng trong việc rèn luyện kỹ năng đọc đúng, đọc thầm và đọc lướt Chưa có các câu hỏi tìm nghĩa từ mới và nhận diện ý chính trong văn bản Đồng thời, cũng thiếu các câu hỏi giúp người đọc tiếp nhận nội dung và hiểu rõ tác động mà người viết muốn truyền tải qua văn bản.

Hệ thống câu hỏi của giáo viên chưa toàn diện và hình thức câu hỏi chưa phong phú, dẫn đến việc thực hiện mục tiêu bài học bị hạn chế.

Nhiều giáo viên gặp khó khăn trong việc sử dụng câu hỏi, dẫn đến việc chưa phát huy được tính tích cực trong lớp học Họ thường chỉ dùng câu hỏi như một công cụ để bình giảng và thuyết trình, thay vì khuyến khích học sinh tham gia Mặc dù có lúc giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu hỏi, nhưng điều này thường chỉ mang tính hình thức và không tạo ra sự tương tác thực sự Kết quả là, giờ dạy vẫn giữ nguyên hình thức truyền thống với giáo viên giảng bài và học sinh chỉ lắng nghe.

2.3 Hiệu qủa của việc sử dụng câu hỏi trong việc thực hiện mục tiêu của bài tập đọc

Phương pháp dạy học tập đọc hiện nay vẫn chịu ảnh hưởng từ phương pháp truyền thống, chủ yếu tập trung vào hoạt động của giáo viên như làm mẫu, đàm thoại và diễn giảng Tuy nhiên, nhận thức về tầm quan trọng của phương pháp dạy học trong nâng cao chất lượng giáo dục ngày càng gia tăng, dẫn đến việc tổ chức hội thảo và thao giảng nhằm cải tiến phương pháp giảng dạy Kết quả là, các phương pháp truyền thống đã được cải tiến để phát huy tính tích cực của người học, tạo ra những yếu tố mới trong tổ chức dạy học Trong môn tập đọc, nhiều giáo viên đã áp dụng hệ thống câu hỏi kết hợp với các phương tiện dạy học và hình thức dạy học mới, giúp giờ dạy trở nên sinh động và khuyến khích học sinh chủ động tìm kiếm tri thức Ngoài ra, một số giáo viên còn sử dụng vở bài tập tiếng Việt để nâng cao chất lượng dạy học tập đọc.

Mặc dù đã đạt được một số thành công trong việc áp dụng hệ thống câu hỏi để dạy học tập đọc, nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế Việc sử dụng câu hỏi để thực hiện mục tiêu của bài tập đọc chưa thực sự hiệu quả và cần được cải thiện.

Giáo viên hiện nay chủ yếu tập trung vào việc hướng dẫn kỹ năng đọc, trong khi kỹ năng nghe, nói và hiểu nội dung văn bản chưa được chú trọng đầy đủ Hệ quả là giờ tập đọc chỉ giúp học sinh cải thiện tốc độ và độ chính xác trong việc đọc, trong khi khả năng nghe, nói và cảm thụ văn bản vẫn còn hạn chế.

Học sinh chưa được chuẩn bị đầy đủ để hoạt động độc lập và sáng tạo, dẫn đến năng lực cá nhân không có cơ hội phát triển Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến hứng thú học tập của các em.

Hình thành thói quen đọc và suy nghĩ ở học sinh là rất quan trọng, giúp các em trải nghiệm và rút ra bài học về nhận thức, tình cảm, hành vi và thái độ Điều này không chỉ nâng cao khả năng tự học mà còn khuyến khích cách học chủ động và sáng tạo hơn.

2.4 Nguyên nhân của thực trạng

Qua việc điều tra và thăm dò ý kiến, chúng tôi đã tìm hiểu quan niệm của giáo viên về vai trò của câu hỏi trong dạy học tập đọc Chúng tôi cũng xem xét cách thức mà giáo viên sử dụng câu hỏi, cũng như những khó khăn thường gặp trong quá trình này Kết quả cho thấy rằng việc sử dụng câu hỏi là rất quan trọng nhưng cũng gặp nhiều thách thức trong thực tiễn giảng dạy.

Trong quá trình dạy học tập đọc, giáo viên thường sử dụng câu hỏi để kích thích tư duy học sinh Mặc dù một số giáo viên đã giúp học sinh làm quen với các câu hỏi nêu vấn đề thông qua những câu hỏi gợi mở, nhưng những câu hỏi này vẫn chưa thực sự sâu sắc Thực tế, việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc vẫn gặp nhiều bất cập do một số nguyên nhân nhất định.

- Do giáo viên ch-a nắm bắt đ-ợc mục tiêu của dạy học tập đọc, vẫn còn nhiều quan niệm sai lầm về mục tiêu dạy tập đọc

Một số giáo viên, do trình độ hạn chế, chỉ sử dụng các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa Điều này dẫn đến việc nhiều câu hỏi cần được điều chỉnh và cải tiến để phù hợp hơn với yêu cầu giảng dạy.

Nhiều học sinh gặp khó khăn khi được hỏi về “Tình cảm của em học sinh dưới mái trường mới”, dẫn đến việc không thể trả lời chính xác Để trả lời câu hỏi này, học sinh cần hiểu rõ khái niệm “Tình cảm” và phải biết sử dụng một câu nhận định kèm theo các câu chứng minh Đây là một thách thức lớn đối với học sinh lớp hai, và giáo viên cần điều chỉnh phương pháp giảng dạy để hỗ trợ học sinh, nhưng không phải giáo viên nào cũng thực hiện được điều này.

Nguyên nhân của thực trạng

Qua việc điều tra và thăm dò ý kiến, chúng tôi đã tìm hiểu quan niệm của giáo viên về câu hỏi trong dạy học tập đọc, cũng như cách thức sử dụng câu hỏi của họ Đồng thời, chúng tôi cũng đã xác định những khó khăn thường gặp trong quá trình giáo viên sử dụng câu hỏi trong giảng dạy.

Trong quá trình dạy học tập đọc, giáo viên thường sử dụng câu hỏi để hỗ trợ học sinh Mặc dù một số giáo viên đã giúp học sinh làm quen với việc đặt câu hỏi nêu vấn đề qua các câu hỏi gợi mở, nhưng những câu hỏi này vẫn chưa thực sự sâu sắc Việc áp dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc còn nhiều bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau.

- Do giáo viên ch-a nắm bắt đ-ợc mục tiêu của dạy học tập đọc, vẫn còn nhiều quan niệm sai lầm về mục tiêu dạy tập đọc

Một số giáo viên, do trình độ hạn chế, thường chỉ sử dụng các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa Điều này dẫn đến việc nhiều câu hỏi cần được gia công sư phạm để phù hợp hơn với nhu cầu học tập của học sinh.

Nhiều học sinh gặp khó khăn khi trả lời câu hỏi về tình cảm của mình dưới mái trường mới, thường lúng túng hoặc đưa ra câu trả lời không chính xác Để trả lời đúng, học sinh cần hiểu rõ khái niệm "tình cảm" và biết cách sử dụng một câu nhận định kèm theo các câu chứng minh Đây là một yêu cầu thách thức đối với học sinh lớp hai, và giáo viên cần điều chỉnh phương pháp giảng dạy để hỗ trợ các em, nhưng không phải giáo viên nào cũng thực hiện được điều này.

Các câu hỏi mà giáo viên đưa ra chủ yếu là câu hỏi tái hiện và phát hiện, khiến học sinh chỉ cần sử dụng trí nhớ và tìm kiếm thông tin trong sách giáo khoa để trả lời Điều này không kích thích được trí tò mò của học sinh.

Trong quá trình giảng dạy, giáo viên thường áp dụng phương pháp thuyết trình và giải thích, dẫn đến việc truyền đạt kiến thức một chiều Học sinh trở nên thụ động trong việc tiếp nhận thông tin, khiến giờ tập đọc biến thành giờ giảng văn và cuộc trò chuyện trực tiếp giữa giáo viên và học sinh.

Giáo viên tiểu học thường phải đảm nhiệm nhiều môn học khác nhau, với gần hai mươi tiết dạy mỗi tuần Việc chuẩn bị và nghiên cứu để soạn các câu hỏi cho một tiết tập đọc trở nên khó khăn do khối lượng công việc lớn.

Một số giáo viên vẫn xem học sinh tiểu học như những đối tượng chỉ biết nghe và làm theo khuôn mẫu, dẫn đến sự e ngại trong việc sử dụng câu hỏi trong giảng dạy Họ lo lắng rằng học sinh có thể không trả lời được, gây lãng phí thời gian và ảnh hưởng đến việc hoàn thành bài giảng.

Học sinh lớp 1, 2, 3 thường gặp khó khăn trong việc trả lời câu hỏi do ngôn ngữ còn hạn chế và thiếu tự tin khi giao tiếp với thầy cô, bạn bè Các em đang trong giai đoạn làm quen với môi trường học tập, dễ có tâm lý sợ sai và lo lắng bị chê cười Thêm vào đó, phương pháp giảng dạy của giáo viên không tạo được hứng thú, dẫn đến việc học sinh không tập trung, ảnh hưởng đến kết quả học tập.

Xuất phát từ thực trạng trên, chúng tôi thấy việc nghiên cứu “ việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc lớp 1,2,3” là cần thiết

Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc ở các lớp 1, 2, 3

3.1 Nguyên tắc đề xuất các giải pháp

Câu hỏi mà giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học thường mang tính chủ quan và phụ thuộc vào trình độ, thói quen, và thế mạnh của từng giáo viên Một số giáo viên tập trung vào câu hỏi yêu cầu trí nhớ, trong khi những người khác lại chú trọng đến tư duy, kỹ năng, hoặc sáng tạo của học sinh Để đạt được mục tiêu của bài dạy, các câu hỏi cần phải có chất lượng và được thiết kế một cách hiệu quả Do đó, giáo viên cần tuân thủ các nguyên tắc nhất định khi đưa ra câu hỏi trong lớp học.

Quá trình xây dựng hệ thống câu hỏi để phân tích bài tập đọc có thể diễn ra theo hai hướng: từ nội dung tổng thể đến nghĩa từng bộ phận, hoặc ngược lại, từ nghĩa nhỏ đến nghĩa chung Dù lựa chọn hướng nào, hệ thống câu hỏi cần đảm bảo tính chính xác và đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh.

- Cần tránh những câu hỏi gây khó khăn cho học sinh khi xác định câu trả lêi

Câu hỏi "Vì sao lại nói: Ngày hôm qua chỉ ở lại trên cành hoa, trong hạt lúa, trên vở hồng?" (Ngày hôm qua đâu rồi - TV2 – T1) khiến học sinh băn khoăn về ý nghĩa của câu nói Học sinh có thể thắc mắc tại sao ngày hôm qua chỉ hiện hữu ở những hình ảnh cụ thể như cành hoa, hạt lúa và vở hồng, mà không xuất hiện trên các đồ vật hay cây cối khác Điều này dẫn đến việc học sinh gặp khó khăn trong việc tìm ra câu trả lời chính xác cho câu hỏi này.

Không nên đặt ra những câu hỏi mang tính áp đặt, vì những câu hỏi này khiến học sinh chỉ trở thành người minh họa cho những cách hiểu và nhận xét đã có sẵn.

Ví dụ: Những từ nào,câu nào cho thấy các con rất thích món quá của bố ? (Quà của bố - TV 2 – T1)

Học sinh nên tự rút ra ý nghĩa rằng "Các con rất thích món quà của bố", nhưng với câu hỏi này, các em chỉ cần tìm những chi tiết để chứng minh điều đó.

Các câu hỏi mà giáo viên đưa ra cần phải chính xác, rõ ràng và mạch lạc, đồng thời phải thúc đẩy tính tích cực của học sinh.

Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi

Ngày đăng: 01/08/2021, 16:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lê Ph-ơng Nga - Dạy học tập đọc ở tiểu học. NXBGD.2002 Khác
2. Nguyễn Thị Hạnh - Dạy học đọc hiểu ở tiểu học. NXB§HQGHN.2002 Khác
3. Nguyễn Đình Chỉnh - Vấn đề đặt câu hỏi của giáo viên đứng lớp. Kiểm tra đánh giá việc học tập của học sinh. NXBHN.1996 Khác
4. Hoàng hòa Bình - Dạy văn cho học sinh tiểu học. NXBGD.2000 Khác
5. Nguyễn Trí - Dạy và học tiếng việt ở tiểu học theo ch-ơng trình míi.NXBGD.2003 Khác
6. I.Ialecne - Dạy học nêu vấn đề. NXBGD.1977 Khác
7. N.M.Iacôlep ph-ơng pháp và kĩ thuật lên lớp. NXBGD.1973 Khác
8. Bìu Minh Huệ - Tâm lí tiểu học Khác
9. Nguyễn Văn Thành - Giáo dục học tiểu học. Tr-ờng Đại học Vinh Khác
10. Chu Thị Thủy An, Bùi Thị Thu Thủy - Lí luận dạy học iếng việt và văn học ở tiểu học. Tr-ờng Đại học Vinh 2002 Khác
11. Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Hữu Dũng - Đổi mới ph-ơng pháp dạy học ở tiểu học. NXBGD.1998 Khác
12. Sách giáo khoa tiếng việt 1,2,3 Khác
13. Sách giáo viên tiếng việt 1,2,3 Khác
14. Một số tạp chí, tài liệu có liên quan Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w