1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của tòa án nhân dân cấp huyện, từ thực tiễn tỉnh đồng nai

115 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Áp Dụng Pháp Luật Trong Xét Xử Sơ Thẩm Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Của Tòa Án Nhân Dân Cấp Huyện, Từ Thực Tiễn Tỉnh Đồng Nai
Tác giả Nguyễn Hoàng Sơn
Người hướng dẫn TS. Phạm Thị Huyền Sang
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Luật Học
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 115
Dung lượng 0,97 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Lý do chọn đề tài (7)
    • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài (10)
    • 3. Tình hình nghiên cứu đề tài (11)
    • 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn (13)
    • 5. Ý nghĩa của luận văn (13)
    • 6. Cấu trúc của luận văn (14)
  • B. NỘI DUNG (15)
  • Chương 1 (15)
    • 1.1 Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội (15)
      • 1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội (15)
      • 1.1.2 Đặc điểm người chưa thành niên phạm tội (18)
    • 1.2 Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (19)
      • 1.2.1 Khái niệm của áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (19)
      • 1.2.2 Đặc điểm của áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (28)
    • 1.3. Nội dung, thủ tục áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (37)
      • 1.3.1 Nội dung áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (38)
      • 1.3.2 Thủ tục áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (39)
    • 1.4. Các yếu tố bảo đảm áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (49)
  • Chương 2 (57)
    • 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về người chưa thành niên phạm tội (57)
      • 2.2.2 Đặc điểm người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (61)
    • 2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (69)
    • 2.4. Đánh giá chung về áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa (82)
  • Chương 3 (89)
    • 3.1 Định hướng áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (89)
      • 3.1.1 Những thay đổi trong nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (92)
      • 3.1.2 Những thay đổi về hình phạt và quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên (dưới 18 tuổi phạm tội) (94)
    • 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội (98)
      • 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về hình thức và nội dung (98)
      • 3.2.2 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ (101)
      • 3.2.3 Nâng cao sự lãnh đạo của Đảng, cơ quan Nhà nước (106)
      • 3.2.4 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về pháp luật của nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội (108)
    • C. KẾT LUẬN (112)
    • D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (115)

Nội dung

Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội

1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội

Theo Từ điển tiếng Việt, người chưa thành niên là những cá nhân chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí tuệ và tinh thần, đồng thời chưa có đủ quyền và nghĩa vụ công dân Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990, trẻ em được định nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quy định tuổi thành niên sớm hơn Ngoài ra, Quy tắc tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh), được thông qua vào ngày 14.12.1992, cũng khẳng định khái niệm người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, tiếp nối các quy định của Công ước về Quyền trẻ em.

Quy tắc RIYADH về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên, được Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 14/12/1990, không định nghĩa cụ thể về người chưa thành niên nhưng ngầm hiểu rằng đó là những người dưới 18 tuổi Quy tắc này nhấn mạnh rằng các hướng dẫn cần được thực hiện trong khuôn khổ của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các công ước quốc tế liên quan đến quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như quyền trẻ em Đây là những quy tắc phổ biến của Liên Hợp Quốc nhằm áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên.

Công ước Quyền trẻ em xác định trẻ em là những người dưới 18 tuổi, đồng thời có sự thống nhất về độ tuổi người chưa thành niên trong các văn kiện và tiêu chuẩn liên quan đến quyền lợi, phúc lợi của thanh niên Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền và lợi ích của các thành niên.

Theo pháp luật Việt Nam, người chưa thành niên được định nghĩa là người dưới 18 tuổi, như quy định tại Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 và Bộ luật lao động Quan niệm này thống nhất với Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam tham gia, khẳng định sự phù hợp giữa luật pháp trong nước và các tiêu chuẩn quốc tế.

Theo Điều 90 của Bộ luật hình sự năm 2015, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của chương này Các quy định khác trong phần thứ nhất của Bộ luật không được trái với chương này, và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải tuân theo Điều 91 của BLHS năm 2015.

Người chưa thành niên được hiểu là những người dưới 18 tuổi, trong đó chỉ những người từ 14 đến dưới 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội Người dưới 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự Cụ thể, người từ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm cho các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong khi người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự cho mọi loại tội phạm.

Pháp luật hình sự quy định rằng người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự do chưa phát triển đầy đủ trí tuệ và khả năng tự chủ, dẫn đến việc họ không nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi mình gây ra Điều này có nghĩa là hành vi của họ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, do đó không phải chịu trách nhiệm hình sự Đối với người từ 14 đến chưa đủ 18 tuổi, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nghiêm trọng, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng quy định rằng bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, khẳng định tính nghiêm túc trong việc xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật.

Theo Bộ luật hình sự, bị cáo chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm Tòa án xét xử Định nghĩa về người chưa thành niên phạm tội là những cá nhân trong độ tuổi này thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, được pháp luật hình sự quy định là tội phạm và bị Tòa án đưa ra xét xử.

Việc xác định tuổi của bị cáo chưa thành niên là rất quan trọng, vì điều này giúp ngăn chặn và áp dụng các thủ tục đặc biệt nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ Xác định đúng tuổi của bị cáo là cơ sở để đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử.

18 còn giúp Cơ quan tiến hành tố tụng xác định đƣợc việc xét xử và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên

1.1.2 Đặc điểm người chưa thành niên phạm tội

Người chưa thành niên là những cá nhân chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí tuệ và tinh thần, đồng thời cũng chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân Do đó, họ sở hữu những đặc điểm riêng biệt.

Trạng thái cảm xúc của người chưa thành niên thường không ổn định do đang trong quá trình phát triển sinh lý, tâm lý và ý thức Giai đoạn này có thể dẫn đến những biến động cảm xúc tạm thời, gây ra tình trạng mất cân bằng tâm lý Điều này có thể là nguyên nhân gây ra các hành vi lệch chuẩn, khi những mâu thuẫn nhỏ có thể kích thích sự nóng giận quá mức, dẫn đến những hành động sai lầm hoặc thậm chí là hành vi phạm tội.

Lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về mặt sinh học nhưng lại thiếu sót về trí tuệ, dẫn đến việc nhận thức pháp luật của các em còn hạn chế Nhiều thanh thiếu niên thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà không nhận thức được hậu quả nghiêm trọng cho xã hội Việc giải thích và phân tích hành vi là cần thiết để giúp các em hiểu rõ rằng những hành động của mình là vi phạm pháp luật.

Nhu cầu độc lập là khả năng cá nhân tự hành động và đưa ra quyết định mà không bị ảnh hưởng bởi người khác Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nhu cầu này không chỉ có mặt tích cực mà còn có thể dẫn đến những mặt tiêu cực nếu phát triển quá mức, đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên.

Người chưa thành niên thường thể hiện nhu cầu độc lập quá mức qua các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ và phô trương Những hành vi này mang tính lệch chuẩn và có thể dẫn đến các hành vi phạm tội.

Nhu cầu khám phá cái mới là một phần tự nhiên trong sự phát triển của các em ở lứa tuổi chưa thành niên Tuy nhiên, nếu không có sự hướng dẫn và giám sát từ gia đình và xã hội, sự tò mò này có thể dẫn đến hành vi phạm tội Điều quan trọng là các em cần học cách tự chủ và phân biệt đúng sai để tránh những rủi ro không đáng có.

Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội

1.2.1 Khái niệm của áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội

Người chưa thành niên thường có nhận thức hạn chế về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, thường bị ảnh hưởng bởi các điều kiện bên ngoài Chính sách hình sự của Nhà nước ta tập trung vào việc giáo dục và hỗ trợ họ sửa chữa sai lầm, nhằm giúp họ phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

Pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, luôn coi trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ trong mọi tình huống, bao gồm cả khi quyền lợi của trẻ em bị xâm phạm hoặc khi trẻ vi phạm pháp luật Luật hình sự bảo vệ người chưa thành niên, coi họ là đối tượng phạm tội, đồng thời quy định chế tài và thủ tục tố tụng phù hợp với độ tuổi để thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đưa ra các quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong quá trình tố tụng.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định 20 chương riêng về thủ tục tố tụng đối với vụ án liên quan đến người chưa thành niên Điều 413 xác định rằng các quy định trong chương này áp dụng cho người bị buộc tội, người bị hại, và người làm chứng dưới 18 tuổi, đồng thời không trái với các quy định khác trong bộ luật Mặc dù chưa có khái niệm pháp lý cụ thể về thủ tục tố tụng cho người chưa thành niên, nhưng nghiên cứu cho thấy có những đặc trưng riêng biệt so với thủ tục áp dụng cho người thành niên Những đặc trưng này bao gồm tiêu chuẩn của người tiến hành tố tụng, đối tượng chứng minh, biện pháp ngăn chặn, quyền bào chữa, và sự tham gia của gia đình, nhà trường, cũng như tổ chức xã hội Bộ luật cũng đảm bảo quyền tố tụng và tính khách quan, toàn diện trong điều tra, truy tố, và xét xử đối với đối tượng này Để hiểu rõ hơn về khái niệm xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội, cần làm rõ nội dung cụ thể của khái niệm này.

“Xét xử” là thuật ngữ Hán Việt có nghĩa là xem xét và phán xử Theo từ điển Luật học năm 2006, xét xử được định nghĩa là hoạt động đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc, từ đó đưa ra phán quyết nhân danh Nhà nước Đây là chức năng đặc trưng của Tòa án, cơ quan duy nhất có quyền xét xử theo quy định pháp luật Việt Nam Mặc dù Hiến pháp năm 1946 quy định tổ chức Tòa án chưa hoàn toàn độc lập vì Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm, nhưng vẫn phản ánh tinh thần độc lập trong hoạt động xét xử.

Tòa án được hiểu là cơ quan xét xử, theo quy định của các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 Hiến pháp 2013, cụ thể tại các Điều 102, 103 và 104, đã làm rõ chức năng và nhiệm vụ của Tòa án Dựa trên Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân cũng quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án.

Tòa án có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính, và giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật Xét xử vụ án hình sự là một nhiệm vụ quan trọng, giúp bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ Hoạt động xét xử là giai đoạn độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, dựa vào chứng cứ do cơ quan điều tra và viện kiểm sát thu thập, cũng như kết quả điều tra tại phiên tòa Để đảm bảo tính khách quan, công bằng và đúng pháp luật, các phiên tòa cần được tổ chức một cách dân chủ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và tổ chức Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, và phán quyết của Tòa án phải dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xem xét đầy đủ các chứng cứ và ý kiến của các bên liên quan để đưa ra bản án hợp pháp và thuyết phục Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay xác định nguyên tắc xét xử hai cấp.

Xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là hai giai đoạn quan trọng trong quá trình xét xử hình sự, trong đó xét xử sơ thẩm đóng vai trò chủ chốt tại Tòa án Theo từ điển Luật, "xét xử sơ thẩm" là thuật ngữ Hán Việt chỉ việc đưa vụ án ra xét xử lần đầu tại Tòa án có thẩm quyền Giai đoạn này được coi là bước kết thúc trong việc giải quyết vụ án hình sự, nơi mọi tài liệu và chứng cứ liên quan đến vụ án được xem xét và đánh giá.

Trong quá trình điều tra, các cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập thông tin sẽ được xem xét công khai tại phiên tòa Quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng cùng với người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai và đầy đủ nhất.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức TAND, Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm bao gồm TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự khu vực và Tòa án quân sự cấp quân khu Giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự bắt đầu khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát và kết thúc khi ra bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm Bản án này có thể bị kháng cáo, kháng nghị, và nếu không có kháng cáo trong thời hạn luật định, sẽ có hiệu lực thi hành Giai đoạn xét xử sơ thẩm là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự, với hoạt động của Tòa án đóng vai trò chính và là trọng tâm, khác biệt so với giai đoạn điều tra và truy tố.

Hoạt động xét xử hình sự của Tòa án là thực hiện quyền lực nhà nước, với Tòa án đóng vai trò là cơ quan thực thi quyền lực tư pháp tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tòa án đại diện cho nhà nước đưa ra các phán quyết về trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội.

Hoạt động xét xử hình sự của Tòa án là một quy trình công khai và dân chủ, được thực hiện theo quy định của pháp luật, với phiên tòa hình sự là biểu hiện tập trung Mục tiêu của hoạt động này là xác định sự thật khách quan về tội phạm và người thực hiện tội phạm, từ đó quyết định trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp phù hợp.

Theo quy định của pháp luật hình sự ở nhiều quốc gia, việc xét xử người chưa thành niên phạm tội thường được thực hiện bởi các Tòa án chuyên biệt Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam không có mô hình tòa án riêng cho đối tượng này, mà quy định việc xét xử người chưa thành niên trong hệ thống tòa án thống nhất, bao gồm cả người đã thành niên phạm tội Căn cứ theo Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 24 Bộ luật Tố tụng hình sự, quy trình xét xử cho đối tượng này được thực hiện trong cùng một hệ thống pháp lý.

Năm 2015, Điều 10 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Điều 288 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, yêu cầu phiên tòa chỉ được tiến hành khi đủ thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký tòa án Đặc biệt, khi xét xử người chưa thành niên phạm tội, cần tuân thủ những quy định riêng như yêu cầu có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong Hội đồng xét xử Điều này nhằm đảm bảo rằng có người hiểu biết về tâm lý lứa tuổi và có kinh nghiệm giáo dục cho người chưa thành niên Tính công khai và dân chủ trong hoạt động xét xử cũng là nguyên tắc quan trọng áp dụng cho các vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội.

Trong 24 vụ án liên quan đến bị cáo là người chưa thành niên (NCTN), tòa án thực hiện xét xử công khai nhưng cũng có thể xét xử kín trong những trường hợp cần thiết Việc này nhằm bảo vệ bí mật về hành vi và đời tư của người chưa thành niên cùng gia đình họ, tránh gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển và hoàn thiện bản thân của các em trong tương lai.

Tính công khai và dân chủ trong phiên tòa xét xử người chưa thành niên phạm tội được thể hiện qua việc Tòa án phải đảm bảo quyền tự bào chữa hoặc quyền mời người khác bào chữa cho người chưa thành niên.

Nội dung, thủ tục áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội

xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội

Bộ luật hình sự hiện hành của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 Tuy nhiên, do BLHS năm

Bộ luật hình sự năm 2015 gặp nhiều sai sót và cần thời gian để sửa chữa, bổ sung, vì vậy đã bị hoãn thi hành theo Nghị quyết 144/2016/QH13 của Quốc hội ngày 29 tháng 6 năm 2015 Đến ngày 20 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015.

41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 thì Bộ luật hình sự năm 2015 bao gồm cả phần sửa đổi, bổ sung năm 2017 sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 có

Bộ luật Hình sự gồm 26 chương và 426 điều luật, trong đó có 14 chương quy định về 317 loại tội phạm cụ thể Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên, một số loại tội phạm như “Tội tham ô tài sản” và “Tội ra bản án trái pháp luật” không thể bị áp dụng Nghiên cứu về áp dụng luật hình sự đối với người chưa thành niên cho thấy quy trình này thường diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại Tòa án.

1.3.1 Nội dung áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội

Cần xác định rõ các tài liệu và chứng cứ để chứng minh thời điểm thực hiện hành vi vi phạm tội, từ đó áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội Việc định tội cần được thực hiện ngay để xem xét hành vi của bị cáo thuộc tội gì và khung hình phạt ra sao, bao gồm các mức độ từ ít nghiêm trọng đến đặc biệt nghiêm trọng, cũng như phân loại tội cố ý hay vô ý Đồng thời, cần xác định chính xác độ tuổi của bị cáo để quyết định xem có phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự hay không.

14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123 ”

Nếu bị cáo chưa đủ 16 tuổi tại thời điểm phạm tội và hành vi cấu thành tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng (mức phạt cao nhất là 7 năm tù), hoặc dù là tội rất nghiêm trọng (mức phạt cao nhất là 15 năm tù) nhưng do lỗi vô ý, Thẩm phán sẽ căn cứ vào khoản 3 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự để quyết định đình chỉ vụ án.

Trong các vụ án liên quan đến bị can, bị cáo là người chưa thành niên, giai đoạn chuẩn bị xét xử cần xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, đặc biệt là biện pháp tạm giam Tạm giam chỉ được áp dụng trong những trường hợp cụ thể theo Điều 419 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Nếu không áp dụng biện pháp tạm giam, bị cáo sẽ được giao cho cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp để giám sát Cũng cần kiểm tra xem bị cáo hoặc đại diện hợp pháp đã mời luật sư bào chữa hay chưa; nếu chưa, cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

1.3.2 Thủ tục áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội

- Giai đoạn xét xử tại phiên tòa:

Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định tại Điều 300, 301 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, bao gồm việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa và chủ tọa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử Quyết định này giúp đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng xác định thời hạn triệu tập phiên tòa có đúng theo quy định pháp luật hay không, đồng thời nắm rõ danh sách những người tham gia tố tụng và các vật chứng được xem xét Đặc biệt, trong trường hợp có bị cáo là người chưa thành niên, sự có mặt của đại diện gia đình, nhà trường hoặc tổ chức xã hội tại phiên tòa là bắt buộc theo quy định tại Điều 420 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chủ tọa phiên tòa không chỉ kiểm tra căn cước của những người tham gia tố tụng mà còn giải thích rõ ràng quyền và nghĩa vụ của họ Đặc biệt, cần làm nổi bật cách thức đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, bao gồm quyền nhận bản cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử, cũng như quyền chấp nhận hoặc từ chối người bào chữa.

Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa là một phần quan trọng trong quá trình xét xử, nơi Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng nghiên cứu và kiểm tra chứng cứ công khai Trong giai đoạn này, Hội đồng xét xử sẽ tiến hành xét hỏi các bên liên quan như bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và nhân chứng Theo Điều 306 Bộ luật tố tụng hình sự, thủ tục xét hỏi bắt đầu bằng việc Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung Sau đó, việc xét hỏi sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 307, với Hội đồng xét xử xác định các tình tiết của vụ án theo thứ tự hợp lý Quy trình này phụ thuộc vào năng lực của chủ tọa phiên tòa và có thể thay đổi tùy thuộc vào kết quả điều tra cũng như thái độ khai báo của từng bị cáo Để đạt hiệu quả trong xét hỏi, đặc biệt trong các vụ án phức tạp, chủ tọa thường chuẩn bị một đề cương chi tiết.

Cương xét hỏi là một phần quan trọng trong quá trình điều tra, nhằm xác định hành vi phạm tội của từng bị cáo và từng tội danh mà họ bị truy tố, theo quy định tại khoản 2 Điều 307.

Theo Bộ luật tố tụng hình sự, trong quá trình xét hỏi, chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi từng người theo thứ tự: Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự Các bên tham gia phiên tòa có quyền đề xuất thêm câu hỏi để làm rõ các tình tiết Người giám định sẽ được hỏi về các vấn đề liên quan đến giám định Chủ tọa phiên tòa điều khiển quá trình xét hỏi, áp dụng các biện pháp theo quy định của Bộ luật để nghiên cứu các tình tiết vụ án một cách khách quan và toàn diện, nhằm xác định sự thật và loại bỏ những tình tiết không liên quan Hội đồng xét xử chỉ sử dụng chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để làm căn cứ ra bản án.

Việc xét hỏi tại phiên tòa đối với bị cáo là người chưa thành niên cần được thực hiện một cách nhẹ nhàng và từ tốn, nhằm giúp họ bình tĩnh khai báo đúng sự thật Hội đồng xét xử nên có thái độ phù hợp để động viên bị cáo, và trong trường hợp bị cáo quá sợ hãi hoặc không thể khai báo do sự có mặt của người lớn, Chủ tọa phiên tòa có thể cách ly người đó hoặc tạm thời chuyển sang xét hỏi người khác để tạo điều kiện cho bị cáo.

Việc lấy lời khai từ đại diện gia đình và nhà trường là rất quan trọng để xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đặc biệt trong các vụ án liên quan đến bị cáo chưa thành niên Các đại diện này có thể trình bày chứng cứ và đưa ra yêu cầu, và nếu được sự đồng ý của chủ tọa, có thể tham gia vào quá trình xét xử.

Việc xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn quyết định để xác định có tội hay không và xác định loại tội danh Trong khi hoạt động điều tra ở giai đoạn trước đó chủ yếu nhằm thu thập chứng cứ một cách bán công khai, thì xét hỏi tại phiên tòa diễn ra hoàn toàn công khai, nhằm kiểm tra lại các chứng cứ đã được thu thập bởi Cơ quan điều tra Tại đây, các bên tham gia phiên tòa sẽ tranh luận, bảo vệ hoặc phản bác những tình tiết liên quan đến vụ án.

Theo Bộ luật tố tụng hình sự, việc xét hỏi tại phiên tòa phải diễn ra qua hình thức hỏi và đáp Trong trường hợp người được hỏi vắng mặt hoặc có mặt nhưng có lời khai mâu thuẫn với lời khai trước đó, Hội đồng xét xử có quyền công bố lời khai tại cơ quan điều tra Mục đích của việc này không phải để gây áp lực lên bị cáo hay những người tham gia tố tụng, mà nhằm đảm bảo nguyên tắc trong quá trình nghị án Các chứng cứ và tài liệu, bao gồm lời khai của người tham gia tố tụng, cần được thẩm tra tại phiên tòa Nhận định về tính trung thực của lời khai sẽ được Hội đồng xét xử trình bày trong phần nhận xét của bản án, không phải trong quá trình xét hỏi.

Sau khi xem xét các tình tiết của vụ án, chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia khác về việc có yêu cầu xét hỏi thêm hay không Nếu có yêu cầu và chủ tọa thấy cần thiết, phiên tòa sẽ tiếp tục việc xét hỏi; nếu không, phiên tòa sẽ tiến hành các bước tiếp theo.

Các yếu tố bảo đảm áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội

Xử lý người chưa thành niên phạm tội không chỉ nhằm trừng phạt mà còn giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội Mục tiêu của việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm là ngăn ngừa tái phạm và khuyến khích ý thức tuân thủ pháp luật Hệ thống pháp luật được thực hiện bởi Tòa án thông qua vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm, với những yếu tố quyết định đến quá trình xét xử.

Trình độ và năng lực của chủ thể áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội là yếu tố then chốt để đảm bảo việc áp dụng pháp luật chính xác và hiệu quả Để đạt được điều này, cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, bao gồm các quy định cụ thể được giải thích và hướng dẫn thực hiện một cách rõ ràng.

Có 50 nhân tố quan trọng quyết định việc áp dụng pháp luật (ADPL) trong hoạt động của Tòa án nhân dân Đối với việc xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội, chủ thể áp dụng pháp luật bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

NCTN thường có những hạn chế trong nhận thức về thế giới xung quanh, dễ mắc sai lầm và phạm tội, nhưng cũng dễ được giáo dục để trở thành người có ích cho xã hội Do đó, pháp luật Tố tụng hình sự yêu cầu Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không chỉ có năng lực chuyên môn mà còn cần kiến thức về tâm lý học, đặc biệt là tâm lý học lứa tuổi NCTN và khoa học giáo dục Thái độ đồng cảm và tình yêu thương đối với các em sẽ giúp Thẩm phán phân tích và đánh giá đúng các tình tiết vụ án, từ đó áp dụng giải quyết một cách thấu tình đạt lý Điều này cũng được quy định trong BLTTHS, yêu cầu người tiến hành tố tụng phải có hiểu biết về tâm lý học và khoa học giáo dục khi xử lý các vụ án liên quan đến NCTN.

HĐXX trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội cần có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh để đảm bảo việc áp dụng pháp luật đúng đắn Tuy nhiên, các tiêu chuẩn cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân hiện nay chưa rõ ràng, đặc biệt là về khả năng hiểu biết tâm lý học và khoa học giáo dục Điều này gây khó khăn trong việc thực hiện các yêu cầu và tiêu chuẩn, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả áp dụng pháp luật Do đó, cần thiết phải xác định một mô hình Tòa chuyên trách để xét xử người chưa thành niên.

Việc tiêu chuẩn hóa các yêu cầu đối với những người tham gia tố tụng trong vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội là cần thiết và nên được thực hiện Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 đã quy định những tiêu chuẩn cơ bản cho Thẩm phán và Hội thẩm, nhưng chưa bao gồm yêu cầu về hiểu biết tâm lý lứa tuổi hay khoa học giáo dục Do đó, điều này đã dẫn đến việc thiếu sót trong tiêu chuẩn cần thiết cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xử lý các vụ án liên quan đến người chưa thành niên Để đảm bảo có người có hiểu biết về tâm lý lứa tuổi trong Hội đồng xét xử, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rằng phải có ít nhất một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Việc thiếu vắng những cá nhân này trong Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ vi phạm thủ tục tố tụng Ngoài các điều kiện cần như phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm, việc có kiến thức về tâm lý học và khoa học giáo dục là điều kiện đủ để đảm bảo xét xử đúng đắn và khách quan đối với người chưa thành niên phạm tội.

- Thực hiện đầy đủ và chặt chẽ các thủ tục tố tụng trong xét xử các vụ án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

Trong các chủ thể tội phạm, người chưa thành niên (NCTN) được coi là đối tượng dễ bị tổn thương và có khả năng tự bảo vệ quyền lợi hạn chế Do đó, Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định các biện pháp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhằm thể hiện chính sách nhân đạo trong xử lý NCTN phạm tội Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) thiết lập các thủ tục tố tụng đặc biệt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN Nguyên tắc áp dụng luật đối với NCTN phạm tội chủ yếu tập trung vào các quy định về thủ tục tố tụng.

Chương 28 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định các điều khoản đặc biệt áp dụng cho người bị bắt, tạm giữ, bị can và bị cáo, đặc biệt là đối với người chưa thành niên (NCTN) Nếu có sự xung đột giữa các chương, quy định tại Chương 28 sẽ được ưu tiên Việc áp dụng các quy định này phụ thuộc vào độ tuổi của NCTN tại thời điểm phạm tội và trong suốt quá trình tố tụng, quyền bào chữa của họ phải được đảm bảo theo Điều 422 BLTTHS Trong giai đoạn xét xử, Tòa án cần chú ý đến sự hiện diện của đại diện gia đình NCTN, trừ trường hợp có lý do chính đáng cho sự vắng mặt Nếu NCTN đang học tại trường hoặc trong tổ chức nào đó, đại diện từ cơ sở giáo dục hoặc tổ chức đó cũng phải có mặt Những đại diện này có quyền đưa ra tài liệu, yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và tham gia vào các hoạt động tranh luận HĐXX cần có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh để đảm bảo quyền lợi cho NCTN.

Tòa án cần thực hiện các quy định về thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cao tuổi phạm tội Việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và khách quan sẽ đảm bảo chính sách nhân đạo trong xử lý những trường hợp này.

Yếu tố pháp luật và giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với người phạm tội, đặc biệt là người chưa thành niên (NCTN), đã được quy định đầy đủ trong Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Tuy nhiên, chỉ có các quy phạm pháp luật trong hai bộ luật này chưa đủ để đảm bảo áp dụng pháp luật chính xác Do đó, chủ thể áp dụng pháp luật cần phân tích rõ nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật trong từng trường hợp cụ thể Việc giải thích pháp luật và hướng dẫn thực hiện các quy định là cần thiết, và công việc này được giao cho Tòa án thông qua Hội đồng thẩm phán TANDTC Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đã công nhận Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán là văn bản quy phạm pháp luật, trong khi công văn hướng dẫn của Tòa án tối cao có giá trị hướng dẫn nhưng không được công nhận là văn bản quy phạm pháp luật theo luật năm 2002 Thông tư liên tịch giữa các cơ quan tư pháp cũng chứa đựng các quy định hướng dẫn thực hiện BLHS và BLTTHS Việc giải thích pháp luật đã phát huy tác dụng trong xử lý NCTN phạm tội, đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thuận tiện và chính xác.

Tại tuổi 54, NCTN cần xác định trình độ phát triển thể chất và tinh thần cũng như nhận thức về hành vi phạm tội theo hướng dẫn tại công văn số 81/2002/TANDTC Việc bào chữa cho NCTN phạm tội được quy định tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP, và quyết định hình phạt đối với họ theo Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP Tuy nhiên, thực tiễn phát sinh nhiều trường hợp mới, đòi hỏi sự giải thích chính thức về các quy định pháp luật Mặc dù quy định tại Điều 57 BLTTHS năm 2003 đã được hướng dẫn, vẫn còn sự không thống nhất trong việc yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho NCTN khi họ không đề nghị Ngoài ra, quy định về tổng hợp hình phạt cho NCTN phạm nhiều tội cũng cần được làm rõ hơn, đặc biệt là trong các trường hợp liên quan đến độ tuổi phạm tội.

Khi pháp luật được quy định một cách đầy đủ và rõ ràng, việc giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến người cao tuổi phạm tội sẽ trở nên hiệu quả hơn.

55 yếu tố quan trọng đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án, được thực hiện một cách chính xác và hiệu quả.

Việc áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong xét xử sở thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội cần đảm bảo các mục tiêu cụ thể, bao gồm bảo vệ quyền lợi của trẻ em, giáo dục và cải tạo người phạm tội, cũng như ngăn chặn tái phạm.

Các quy định xử lý người chưa thành niên phạm tội cần phải tuân thủ các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm tăng cường bảo vệ và thực hiện quyền lợi của trẻ em, đảm bảo lợi ích tốt nhất cho các em Đồng thời, các quy định này cũng phải phù hợp với Công ước về quyền trẻ em và các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tư pháp vị thành niên.

Ngày đăng: 01/08/2021, 15:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW về ''một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới'' Khác
[2] Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về ''Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020'' Khác
[3] Bộ luật dân sự (2015), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[4] Bộ luật dân sự (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[5] Bộ luật hình sự (1999), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[6] Bộ luật hình sự (2015), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[7] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb Sự thật, Hà Nội Khác
[8] Luật tố tụng dân sự (2015), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[9] Luật tố tụng dân sự (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[10] Luật tố tụng hình sự (2015), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[11] Luật tố tụng hình sự (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
[12] Luật tổ chức Tòa án nhân dân (2014), Nxb Sự thật, Hà Nội Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w