Cở sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc quản lí, phục hồi và bảo vệ rừng
Cơ sở lí luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản a, Biến đối khí hậu
Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu được Bộ Tài nguyên và Môi trường khởi xướng vào tháng 7 năm 2008, nhằm giải quyết những biến đổi khí hậu kéo dài, thường diễn ra trong vài thập kỷ hoặc lâu hơn Biến đổi khí hậu có thể do các quá trình tự nhiên, tác động bên ngoài hoặc hoạt động của con người làm thay đổi thành phần khí quyển và sử dụng đất Một trong những hậu quả nghiêm trọng của biến đổi khí hậu là xâm nhập mặn, hiện tượng nước mặn từ biển xâm nhập sâu vào nội địa, ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng và vật nuôi nước ngọt, chủ yếu do nước biển dâng, triều cường và sự cạn kiệt nguồn nước ngọt Bên cạnh đó, hạn hán cũng là một vấn đề nghiêm trọng khi thiếu nước kéo dài, ảnh hưởng đến cả nguồn nước mặt và nước ngầm, có thể xảy ra ngay cả khi lượng mưa không thiếu.
Ví dụ: Nếu rừng bị phá hủy và đất không còn khả năng giữ nước, nước sẽ trôi tuột hết d, Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính là hiện tượng khí quyển ở tầng đối lưu, nơi các khí nhà kính như H2O, CO2, N2O, CH4 và CFC cho phép bức xạ sóng ngắn xuyên qua nhưng giữ lại nhiệt bức xạ từ mặt đất dưới dạng sóng dài Nhờ đó, nhiệt độ trung bình trên Trái đất duy trì khoảng 15 độ C, trong khi nếu không có hiệu ứng này, nhiệt độ sẽ giảm xuống -18 độ C Hiệu ứng nhà kính đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của sự sống trên hành tinh.
Sự điều chỉnh trong hệ thống tự nhiên và xã hội là cần thiết để ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu đã được dự báo Điều này không chỉ giúp giảm thiểu những tác hại mà còn tạo ra cơ hội mới cho phát triển bền vững.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), thuật ngữ “lồng ghép” ám chỉ việc kết hợp các đặc điểm dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH và các yếu tố liên quan.
Các chính sách nhà nước cần tích hợp 8 khả năng thích ứng, bao gồm quản lý nguồn nước, dự báo và phòng chống thiên tai, kế hoạch khẩn cấp và quy hoạch sử dụng đất Kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) được xây dựng dựa trên các giả định khoa học về sự phát triển tương lai của các yếu tố kinh tế và xã hội như dân số, kinh tế, công nghệ, năng lượng và nông nghiệp, cũng như lượng phát thải khí nhà kính từ năng lượng hóa thạch và tái tạo, cùng với sự gia tăng mực nước biển.
1.1.2 Khái quát về tài nguyên rừng
1.1.2.1 Tầm quan trọng và vai trò của rừng đối với BVMT
Rừng là hệ sinh thái có độ đa dạng sinh học cao nhất trên cạn, đặc biệt là rừng ẩm nhiệt đới Bên cạnh vai trò là nguồn tài nguyên động thực vật phong phú, rừng còn là yếu tố địa lý thiết yếu trong tự nhiên, góp phần quan trọng vào việc hình thành cảnh quan và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các yếu tố khí hậu và đất đai.
Rừng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa thiết yếu trong bảo vệ môi trường Diện tích đất có rừng lý tưởng của một quốc gia cần đạt 45% tổng diện tích Tùy thuộc vào nhận thức và lợi ích khác nhau, vai trò của rừng được đánh giá đa dạng Hiện nay, rừng được xem xét qua các vai trò chính như bảo vệ môi trường, cung cấp tài nguyên và duy trì đa dạng sinh học.
Hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới là một trong những hệ sinh thái đa dạng và phong phú nhất trên cạn Trung bình, năng suất của các khu rừng trên toàn cầu đạt khoảng 5 tấn chất khô trên mỗi hecta mỗi năm, góp phần đáp ứng từ 2-3% nhu cầu lương thực cho con người.
Rừng đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế, cung cấp nguyên liệu thiết yếu cho con người Chúng không chỉ cung cấp thực phẩm và lương thực mà còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, dược liệu, cũng như phục vụ cho du lịch và giải trí.
Rừng được mệnh danh là "lá phổi xanh" của trái đất, có khả năng hấp thụ CO2 và tái sinh oxy, góp phần điều hòa khí hậu cho khu vực Mỗi hectare rừng tạo ra khoảng 16 tấn oxy mỗi năm, trong đó rừng thông có thể sản xuất tới 30 tấn, còn rừng trồng từ 3 đến 10 tấn Thực tế, rừng còn được coi là những nhà máy lọc bụi khổng lồ, đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng không khí hàng năm.
Một hecta rừng thông có khả năng hút 36,4 tấn bụi từ không khí mỗi năm Nghiên cứu cho thấy nước mưa ở những khu vực không có rừng chứa các chất phóng xạ cao gấp hai lần so với nước mưa trong rừng Ngoài ra, rừng thông còn giúp giảm tiếng ồn một cách đáng kể.
Ví dụ : như một dải cây rộng 50m ở cạnh đường giao thông có khả năng làm giảm tiếng ồn 20-30 dB (dB- dexiben)
Bên cạnh đó, rừng cũng góp phần làm giảm tiếng ồn Rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng làm cân bằng lượng O2 và CO2 trong khí quyển
- Về tác dụng cân bằng sinh thái
Rừng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, ảnh hưởng đến nhiệt độ, độ ẩm không khí và thành phần khí quyển Chúng hoạt động như một vật cản cho gió, làm giảm tốc độ và thay đổi hướng gió, đồng thời làm sạch không khí và ảnh hưởng đến vòng tuần hoàn tự nhiên Hàng năm, quá trình quang hợp của cây xanh cố định khoảng 100 tỷ tấn CO2, trong khi lượng tương tự được thải trở lại khí quyển qua các quá trình tự nhiên khác Ngoài ra, rừng còn tạo ra tiểu khí hậu có lợi cho sức khỏe con người bằng cách giảm nhiệt độ và tăng độ ẩm không khí.
Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu toàn cầu bằng cách giảm đáng kể lượng nhiệt từ mặt trời chiếu xuống bề mặt trái đất nhờ vào tán rừng dày đặc Ngoài ra, rừng còn góp phần duy trì chu trình carbon, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu.
Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu toàn cầu, với nhiệt độ không khí trong rừng thường thấp hơn khoảng 3 - 5 độ C so với đất trống Biến đổi khí hậu là một hiện tượng không thể tránh khỏi, và hầu hết các nhà khoa học môi trường đồng thuận rằng sự gia tăng nồng độ khí nhà kính, chủ yếu là carbon dioxide (CO2), trong khí quyển là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu Dự báo nhiệt độ trái đất có thể tăng nhanh từ 1,4 đến 5,8 độ C trong giai đoạn từ năm 1990.
Hiện tượng thay đổi khí hậu toàn cầu đang gây ra nhiều tác động nghiêm trọng, bao gồm khí hậu ngày càng khắc nghiệt, hiện tượng xói mòn bờ biển gia tăng, quá trình mặn hóa diễn ra mạnh mẽ và sự mất mát của các rạn san hô.
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Hiện trạng rừng của tỉnh Nghệ An
Tỉnh Nghệ An hiện có tổng diện tích 1.648.820,67 ha, theo số liệu kiểm kê đất đai vào tháng 5 năm 2015 Trong đó, diện tích quy hoạch cho lâm nghiệp đạt 1.173.076,3 ha.
Hơn 10 năm qua cùng với việc đổi mới đất nước, ngành LN Nghệ An đã có những chuyển biến tích cực Từ sản xuất theo truyền thống lấy quốc doanh làm nòng cốt, khai thác rừng tự nhiên là chủ yếu sang SXLN nhân dân theo hướng xã hội hóa nghề rừng, đa thành phần, đa nguồn lực đầu tư phát triển rừng.Vì vậy, diện tích rừng toàn Tỉnh đã tăng từ 899.905,1 ha, độ che phủ 54,3% (năm 2014) lên 904.642,8 ha, độ che phủ 54,6% (năm 2015) Việc phát triển SXLN đã góp phần giải quyết việc làm, cải thiện thu nhập giảm đói nghèo cho hàng vạn hộ nông dân Kinh tế rừng đã có bước tăng trưởng đáng kể góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng Đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Chất lượng rừng tự nhiên đang giảm sút, dẫn đến khả năng phòng hộ chưa hiệu quả, ảnh hưởng đến việc điều tiết nguồn nước và hạn chế lũ quét, lũ ống Sự xói lở và bào mòn đất trong mùa mưa cũng vẫn còn là vấn đề nghiêm trọng.
Tổng diện tích đất lâm nghiệp năm 2015 : 1.173.076,3 ha Trong đó:
- Rừng phòng hộ: 394.508,0 ha (diện tích có rừng 294.647,6 ha, chưa có rừng 99.860,4 ha)
- Rừng đặc dụng: 170.003,7 ha (diện tích có rừng 156.565,5 ha, chưa có rừng 13.438,2 ha)
- Rừng sản xuất: 608.564,6 ha (diện tích có rừng 405.306,2 ha, chưa có rừng 203.270,7 ha) b, Khu vực phân bố :
Rừng tự nhiên phân bố tập trung chủ yếu ở các huyện miền núi và trung du (98,9%): Tương Dương 164.732,7 ha; Quế Phong 143.549,8 ha; Con Cuông 131.192,4 ha; Kỳ Sơn 93.214 ha
- Rừng trồng tập trung nhiều ở các huyện trung du và đồng bằng: Thanh Chương 20.064 ha; Quỳnh Lưu 11.843 ha; Tân Kỳ 10.164 ha; Yên Thành 9.091 ha
- Đất trống hiện còn tập trung ở Kỳ Sơn 88.046 ha; Tương Dương 85.823 ha; Quế Phong 31.125 ha;
1.2.2 Định hướng và quy hoạch rừng của tỉnh Nghệ An đến năm 2020
Bảo vệ và phát triển đồng bộ cả ba loại rừng là cần thiết để phát huy hiệu quả chức năng của rừng trong việc bảo vệ môi trường, cung cấp và điều tiết nguồn nước, cũng như điều chỉnh dòng chảy Điều này giúp hạn chế tác hại của mưa bão, úng lụt, hạn hán, và ngăn chặn xói mòn, rửa trôi đất, xói lở và cát bay ven biển Đồng thời, việc này cũng tạo lập các khu rừng phòng hộ đầu nguồn, ven biển, và bảo vệ môi trường, nhằm bảo vệ các công trình cơ sở hạ tầng, dân cư và đồng ruộng.
Bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo vệ nguồn gen động vật và thực vật quý hiếm Cần ngăn chặn hiệu quả sự suy giảm và suy thoái chất lượng rừng, đồng thời bảo vệ và phát triển các khu rừng di tích lịch sử Đảm bảo phát triển kinh tế rừng bền vững là yếu tố then chốt để duy trì sự cân bằng giữa bảo tồn và khai thác tài nguyên rừng.
Phấn đấu đến năm 2020 đưa độ che phủ của rừng lên 59% diện tích toàn tỉnh
Từ năm 2009-2020 : Rừng trồng tăng bình quân 13.000 ha/năm (Tổng trồng mới và trồng lại sau khai thác bình quân 17.000 ha/năm)
Khoanh nuôi thành rừng tự nhiên : 4.000 ha/năm
Nhiệm vụ và tiến độ thực hiện như sau : a) Bảo vệ diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng hiện có
- Năm 2010 : diện tích rừng cần bảo vệ 856.507,0 ha
+ Rừng phòng hộ và rừng đặc dựng :451.213,1 ha; Khoán bảo vệ 80.000 ha + Rừng sản xuất : 405.293,9 ha
- Giai đoạn 2011-2015 : diện tích cần bảo vệ 890.000 ha/năm
+ Rừng phòng hộ và rừng đặc dựng :458.000ha; Khoán bảo vệ 80.000 ha + Rừng sản xuất : 432.000 ha
- Giai đoạn 2016-2020 : diện tích cần bảo vệ 950.000 ha/năm
+ Rừng phòng hộ và rừng đặc dựng :470.000 ha; Khoán bảo vệ 80.000 ha + Rừng sản xuất : 480.000 ha
13 b) Khoanh nuôi diện tích đất trồng có cây tái sinh thành rừng tự nhiên
- Năm 2010 : diện tích cần khoanh nuôi 185.832,6 ha
- Năm 2011-2015 : diện tích cần khoanh nuôi 139.429,5 ha
- Năm 2016-2020 : diện tích cần khoanh nuôi 82.249,6 ha
+ Rừng đặc dụng : 8.200 ha c) Trồng rừng : 176.000 ha
Trong đó : Trồng rừng mới : 105.000 ha
Bảng 1.1 : Kế hoạch Trồng rừng của tỉnh Nghệ An theo giai đoạn
Nội dung Cộng(ha) Năm 2010 2011-2015 2016-2020
(Nguồn UBND tỉnh Nghệ An, Năm 2008) d) Cải tạo rừng nghèo kiệt, rừng sản xuất Tổng diện tích 35.400 ha
- Giai đoạn 2011-2015 Cải tạo 15.800 ha
- Giai đoạn 2016-2020 Cải tạo 18.400 ha
+ Trồng rừng phòng hộ: Quế, Thông nhựa, Cây chủ thả Cánh kiến, Mét, Tre măng, Phi lao, Sú và cây bản địa
+ Trồng rừng đặc dụng bằng các loại cây bản địa trong vùng
Trồng mới và cải tạo rừng nghèo kiệt, rừng sản xuất là rất quan trọng, bao gồm việc trồng các loại cây nguyên liệu làm giấy, cây bản địa để sản xuất gỗ dân dụng, cũng như các loại cây ghép thanh như Mây, Lùng, Cánh kiến, Quế, Tre, Mét và Thông nhựa Việc này không chỉ giúp phục hồi hệ sinh thái mà còn tạo ra nguồn nguyên liệu bền vững cho ngành công nghiệp.
Bảng 1.2 : Quy hoạch bảo vệ và phát triển tỉnh Nghệ An theo 3 loại rừng
(Nguồn UBND tỉnh Nghệ An, Năm 2008)
Quy hoạch diện tích cho ba loại rừng cơ bản hiện đang ổn định, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn xảy ra một số thay đổi, như chuyển đổi mục đích sử dụng Chất lượng của ba loại rừng này cần được cải thiện theo hướng tích cực.
Hiện trạng quản lí, phục hồi và bảo vệ rừng tại huyện Nghi Lộc, Nghệ An
Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực nghiên cứu
2.1.1 Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nghi Lộc
- Tọa độ địa lý của huyện Nghi Lộc:
Từ 180 0 53’43” đến 180 0 41’08” độ vĩ Bắc
Từ 105 0 27’45” đến 105 0 45’08” độ kinh Đông
- Về vị trí địa lý: Nghi Lộc là một huyện đồng bằng ven biển lớn thứ 3 sau huyện Quỳnh Lưu có địa hình đa dạng
+ Phía Đông trông ra biển Đông và giáp Thị xã Cửa Lò, phía Đông Nam giáp huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh),
+ Phía Nam giáp Thành phố Vinh và huyện Hưng Nguyên, phía Tây Nam giáp huyện Nam Đàn
+ Phía Tây giáp huyện Đô Lương, phía Tây Bắc giáp huyện Yên Thành và phía Bắc giáp huyện Diễn Châu
Huyện Nghi Lộc bao gồm 29 xã và 1 thị trấn, với tổng diện tích tự nhiên là 34.770,43 ha Diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm 14.309,52 ha, trong khi đó đất lâm nghiệp là 9.329,7 ha Đất ở tại huyện có diện tích 1.234,91 ha, và đất chưa sử dụng là 3.646,69 ha Tính đến cuối năm 2015, huyện Nghi Lộc có 46.730 hộ dân với tổng dân số là 186.439 người.
Huyện có hệ thống giao thông thuận lợi, gần sân bay Vinh và cảng Cửa Lò, cùng với các tuyến tỉnh lộ đi qua, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và phát triển kinh tế Đặc biệt, 10 xã trong khu vực Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An được ưu đãi đầu tư theo quyết định của Chính phủ, góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Huyện Nghi Lộc sở hữu tài nguyên phong phú và đa dạng, bao gồm đất, nước, rừng và biển Theo điều tra thổ nhưỡng, huyện có nhiều loại đất như đất feralit biến đổi trong đồng lúa, đất feralit xói mòn, đất feralit vàng ở vùng đồi, đất cát cũ không được bồi và đất mặn Nguồn nước mặt dồi dào và nước ngầm của huyện có ba tầng chủ yếu cung cấp nước sinh hoạt, bao gồm tầng chứa nước lỗ hổng Plestocen, các tầng chứa nước khe nứt và khe nứt Karst Huyện cũng có 14 km bờ biển với diện tích 12.000 km², mang lại tiềm năng lớn cho du lịch và khai thác lợi thế từ nguồn lợi biển.
Trong những năm gần đây, huyện Nghi Lộc đã có những bước tiến đáng kể trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng tới phát triển kinh tế-xã hội một cách tích cực.
2.1.2 Điều kiện tự nhiên của 5 xã đang nghiên cứu Đề tài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào 5 xã: Nghi Yên, Nghi Lâm, Nghi Văn, Nghi Công Nam và Nghi Thái của huyện Nghi Lộc với tổng diện tích tự nhiên 11.032,6 ha
Xã Nghi Yên tọa lạc ở phía Bắc, trong khi các xã Nghi Lâm, Nghi Văn và Nghi Công Nam nằm ở phía Tây Bắc, và xã Nghi Thái nằm ở phía Đông Nam của huyện.
Khái quát chung về điều kiện tự nhiên của 5 xã a, Địa hình địa thế
Vùng có nhiều kiểu địa hình khác nhau, có thể chia ra các phân vùng như sau:
Vùng bờ biển có địa hình đặc trưng với các dãy núi sát biển, xen lẫn bãi cát Tuy nhiên, diện tích lúa nước tại đây thường bị nhiễm mặn, trong khi nhiều khu vực đất lâm nghiệp ở sườn núi phía Đông đã bị thoái hóa nghiêm trọng, gây khó khăn cho việc phục hồi rừng.
Vùng đồi, núi ven biển có đặc điểm địa hình với các dãy núi và đồi thấp chạy dọc theo bờ biển, có độ cao từ 200-400m và độ dốc từ 25-30 độ Khu vực này chịu ảnh hưởng mạnh của xói mòn, dẫn đến tình trạng trơ sỏi đá, trong khi rừng tự nhiên đã biến mất, được thay thế bằng quần thể rừng trồng thấp, chỉ đạt mức trung bình 10-15 m³/năm.
Địa hình vùng đồng bằng chủ yếu được hình thành từ quá trình bồi tụ, với các dải phù sa sông có thành phần cơ giới nặng Đặc trưng của địa hình này là đất cát biển có kết cấu không ổn định và dễ bị xói lở, đặc biệt trong mùa mưa lũ Thêm vào đó, khí hậu và các yếu tố thủy – hải văn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và biến đổi địa hình vùng đồng bằng.
Khí hậu: Theo số liệu của trạm khí tượng huyện thì toàn vùng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa
- Nhiệt độ không khí bình quân hàng năm 23,8 0 C
Độ ẩm không khí trung bình đạt 86%, tạo ra cảm giác oi bức vào mùa hè và lạnh giá vào mùa đông Sự gia tăng độ ẩm không khí bất thường này ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống và sản xuất của người dân.
- Lượng bốc hơi nước trung bình hàng năm 830 mm, cao nhất 1.143mm, thấp nhất 563mm
- Gió : Vùng chịu ảnh hưởng chung của hai loại gió chính tác động vào tỉnh Nghệ
An là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam
Gió mùa Đông Bắc khô lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mang theo mưa phùn ẩm ướt Thời tiết này gây ra những đợt rét đậm, rét hại vào mùa Đông, ảnh hưởng xấu đến hoa màu và sức khỏe của đàn gia súc.
Gió mùa Tây Nam, hay còn gọi là Gió Lào, thường xuất hiện từ giữa tháng 4 đến tháng 9, mang theo không khí khô nóng Mỗi đợt gió kéo dài từ 2-3 ngày, thậm chí có thể kéo dài vài tuần, gây ra tình trạng khô hạn, làm cạn nước ao hồ và khiến cây cối héo úa.
Huyện Nghi Lộc hàng năm phải đối mặt với từ 3 đến 5 cơn bão nhiệt đới, thường xảy ra từ tháng 8 đến tháng 11, gây ra thiệt hại nghiêm trọng về con người, tài sản và mùa màng Khu vực ven bờ chịu ảnh hưởng của sóng lớn và triều cường, dẫn đến hiện tượng xâm thực biển, làm bồi lấp cửa sông cảng biển và xâm lấn cát vào nội đồng.
- Mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm toàn vùng : 1.827mm Lượng mưa cao nhất 3.814mm, lượng mưa thấp nhất 319mm
Tháng 10 là tháng có số ngày mưa cao nhất, trong khi tháng 7 có số ngày mưa thấp nhất Sự không đồng đều trong lượng mưa, kết hợp với sóng, gió, triều cường và nước dâng, gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng như lũ lụt, xói mòn bờ biển, và bồi lấp sông, cửa sông.
Địa bàn 5 xã có hai con sông lớn chảy qua, bao gồm Sông Cấm và Sông Lam Sông Cấm chảy qua các xã Nghi Văn, Nghi Lâm, Nghi Công Nam và Nghi Yên.
Phần hạ lưu Sông Lam chảy qua các xã Nghi Thái
Hiện trạng tài nguyên rừng của khu vực đang nghiên cứu
2.2.1 Hiện trạng tài nguyên rừng của huyện Nghi Lộc
Theo thống kê của huyện Nghi Lộc năm 2015
Tổng diện tích đất LN của toàn huyện : 9.071,2 ha
+ Đất có rừng : 8.452,3 ha, chiếm hơn 90 % tổng diện tích đất LN của của toàn huyện
+ Đất chưa có rừng (đất trống) : 536,2 ha
- Đất chưa có rừng trên đồi núi :468,3 ha
- Đất chưa có rừng ngập mặn : 67,9 ha
Biểu đồ 2.1: Diện tích RPH và RSX 2015 của huyện Nghi Lộc
Biểu đồ 2.1 cho thấy sự phân bố không đồng đều của rừng tại các xã, với diện tích RPH tập trung nhiều nhất ở xã Nghi Yên và RSX chủ yếu ở xã Nghi Công Nam Hai xã Nghi Hợp và Nghi Mỹ chỉ có RPH mà không có RSX, trong khi các xã Nghi Thái, Nghi Xá, Nghi Xuân và Phúc Thọ chỉ phát triển RSX mà không có đất Lâm nghiệp cho RPH.
2.2.2 Hiện trạng tài nguyên rừng của 5 xã đang nghiên cứu
Bảng 2.1: Diện tích đất rừng của 5 xã năm 2015
Có rừng Đất trống Đất khác
Có rừng Đất trống Đất khác
(Nguồn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2015)
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của 5 xã trong nghiên cứu là 4.599,7 ha, chiếm 41,5% diện tích đất tự nhiên của các xã này và hơn 50% diện tích đất lâm nghiệp toàn huyện Nghi Lộc.
Diện tích rừng phòng hộ (RPH) và rừng sản xuất (RSX) chủ yếu là rừng mới trồng lại với chất lượng thấp, khả năng phòng hộ chống xói lở và lũ lụt kém Trong khi đó, rừng tự nhiên chỉ chiếm 22,8 ha vào năm 2015, tăng 2,8 ha so với năm 2010, chủ yếu là rừng ngập mặn ven biển có tác dụng chống gió, cát bay và xói lở bờ Diện tích rừng tự nhiên này tập trung chủ yếu ở xã Nghi Thái, nơi có bờ biển dài trong huyện Rừng sản xuất chủ yếu trồng thông nhựa để lấy nguyên liệu cho ngành giấy và ván ép, cùng với một số loại cây như Bạch đàn và Keo tượng, nhưng giá trị kinh tế không cao.
Diễn biến diện tích rừng khu vực nghiên cứu
2.3.1 Diễn biến diện tích rừng của huyện Nghi Lộc
Bảng 2.2 : Diện tích đất rừng huyện Nghi Lộc (2010-2015) Loại rừng
Có rừng 5.037,2 5.216,5 179,3 3.107,7 3.235,8 128,1 Đất chƣa có rừng 364,8 253,6 -1112 510,9 282,6 -2283 Đất khác LN 323,1 19,5 -303,6 0 63,2 63,2
(Nguồn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2015)
Nhìn chung, diện tích đất LN so với năm 2010 đến nay giảm 9.343,7 ha xuống 9.071,2 ha năm 2015 giảm 272,5 ha Nguyên nhân chính của suy giảm diện tích đất
Trong những năm gần đây, huyện LN đã chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến việc tăng diện tích đất trống được phủ xanh lên 307,4 ha Đồng thời, diện tích đất chưa có rừng đã giảm 339,5 ha so với năm 2010, chủ yếu nhờ vào việc trồng mới rừng, tuy nhiên chất lượng rừng vẫn còn thấp.
Qua số liệu trên cho thấy diện tích đất có rừng RPH và RSX từ năm 2010 đến
Từ năm 2015, diện tích rừng tăng lên nhưng chất lượng không cao và khả năng phòng hộ thấp, chủ yếu là rừng mới trồng nhờ vào các dự án hỗ trợ như dự án trồng 5 triệu hecta rừng Diện tích rừng sản xuất gia tăng do nhu cầu nguyên liệu cho các ngành công nghiệp như khai thác nhựa thông, giấy, ván ép và đồ gỗ gia đình Sự tăng trưởng chủ yếu đến từ rừng thông nhựa, trong khi diện tích rừng bạch đàn và các loại cây khác giảm Năm 2012, rừng ngập mặn (RNM) cũng được đầu tư trồng thêm do tình trạng suy thoái và tàn phá nghiêm trọng khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang nuôi trồng thủy sản và chăn thả gia súc, trong khi RNM tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ ven biển Bên cạnh đó, diện tích đất trống đồi trọc đã giảm đáng kể.
2.3.2 Diễn biến diện tích rừng của 5 xã đang nghiên cứu
Từ năm 2010 đến nay, diện tích đất lâm nghiệp của 5 xã đã giảm từ 4.686,5 ha xuống còn 4.599,7 ha, giảm 86,8 ha Tuy nhiên, diện tích đất rừng được phủ xanh đã tăng lên 181,3 ha, chủ yếu là rừng sản xuất (RSX) được trồng lại theo chủ trương của nhà nước và địa phương Cây thông nhựa là loại cây chủ đạo, do nhu cầu thị trường tăng cao trong những năm gần đây Diện tích rừng phòng hộ (RPH) cũng tăng 131,6 ha trong giai đoạn 2010-2015, đóng vai trò quan trọng trong việc chống xói lở, ngăn mặn và giữ nước cho sản xuất nông nghiệp Trong khi đó, diện tích rừng tự nhiên chỉ tăng nhẹ 2,8 ha, chủ yếu nhờ vào sự gia tăng diện tích rừng trồng với 138,5 ha.
Bảng 2.3 : Diện tích RPH và RSX của 5 xã (2010-2015) Loại rừng
Có rừng 2.427,7 2.559,3 131,6 1.759,6 1.809,3 49,7 Đất chƣa có rừng 171,7 48,1 -123,6 296,5 107,8 -188,7 Đất khác lâm nghiệp 31,0 15,0 - 16,0 0 60,2 60,2
(Nguồn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2015)
Bảng 2.4 : Diện tích các loại đất có rừng của 5 xã (2010 -2015)
Xã Nghi Công Nam có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn nhất trong 5 xã, với độ che phủ rừng đạt 55,16% Mặc dù diện tích rừng được che phủ tăng lên nhờ trồng mới, chất lượng rừng vẫn thấp và không có rừng tự nhiên Từ năm 2010 đến nay, diện tích đất lâm nghiệp giảm nhẹ từ 1.379,7 ha xuống 1.372,1 ha Trong khi đó, diện tích rừng trồng tăng từ 1.109 ha lên 1.251,7 ha, chủ yếu nhờ thay thế rừng bạch đàn sinh trưởng kém bằng rừng thông nhựa (693,7 ha), mang lại giá trị kinh tế cao hơn.
Bảng 2.5 : Diện tích RPH và RSX của xã Nghi Công Nam (2010-2015)
Loại rừng RPH Tăng, giảm
Có rừng 283,3 358,8 - 75,5 826,5 892,9 66,4 Đất chƣa có rừng 0 81,0 81,0 188,9 65,4 -123,5 Đất khác lâm nghiệp 0 0 0 0 55,0 55,0
(Nguồn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2015)
Theo bảng 2.5, diện tích RPH của xã đã giảm đáng kể từ 283,3 ha vào năm 2010 xuống còn 358,8 ha vào năm 2015, tương ứng với mức giảm 75,5 ha Đồng thời, diện tích RSX phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế cũng giảm xuống chỉ còn 66,4 ha.
Biểu đồ 2.2: Diện tích RPH xã Nghi Công Nam 2010-2015
Diện tích RPH của xã Nghi Công Nam có nhiều thay đổi khá rõ rệt từ năm
Từ năm 2010 đến 2015, diện tích rừng trồng cây gỗ có tỷ lệ giảm mạnh từ 96,6 ha xuống còn 0 ha Trong khi đó, diện tích rừng trồng cây gỗ chưa có tỷ lệ cũng có xu hướng giảm Ngược lại, diện tích rừng trồng đặc sản lấy nhựa tăng nhanh, từ 52,2 ha năm 2010 lên 304,5 ha năm 2015, tương ứng với mức tăng 252,3 ha.
Biểu đồ 2.3 : Diện tích RSX xã Nghi Công Nam 2010 – 2015
Diện tích rừng trồng cây gỗ tại xã Nghi Công Nam đã giảm mạnh từ 433,0 ha năm 2010 xuống còn 22,0 ha, tương ứng với mức giảm 411 ha Ngược lại, diện tích rừng trồng đặc sản lấy nhựa lại tăng đáng kể từ 251,3 ha năm 2010 lên 692,7 ha năm 2015, với mức tăng 441,4 ha.
Bảng 2.6 : Diện tích rừng của xã Nghi Thái (2010 – 2015)
Có rừng 20,0 27,6 7,6 Đất chƣa có rừng 3,2 3,2 Đất khác lâm nghiệp 31,0 0,0 -31,0
(Nguồn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2015)
Nghi Thái là xã ven sông Cả với diện tích rừng rất hạn chế, chỉ đạt 0,5% độ che phủ Mặc dù diện tích đất có rừng đã tăng từ 20,0 ha năm 2010 lên 27,6 ha năm 2015, nhưng mức tăng chỉ là 7,6 ha, vẫn thấp so với các xã khác trong nghiên cứu Gần đây, diện tích đất lâm nghiệp tại Nghi Thái đang có xu hướng giảm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
25 sử dụng đất rừng thành các loại đất khác (Năm 2010 có 51 ha đến năm 2015 chỉ còn 30,6 ha rừng; giảm 20,2 ha)
Bảng 2.7 : Diễn biến diện tích rừng của xã Nghi Thái (2010-2015)
Loại rừng RPH Tăng, giảm
Có rừng 20 27,6 7,6 0 0 0 Đất chƣa có rừng 0 3,2 3,2 0 0 0 Đất khác lâm nghiệp 31 0 31 0 0 0
(Nguồn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2015)
Rừng ở đây chủ yếu là rừng phòng hộ, không có rừng sản xuất, và xã này là duy nhất còn bảo vệ rừng bần tự nhiên, đóng vai trò quan trọng trong việc chắn sóng, chắn gió, bảo vệ đê 42 và cống ngăn mặn Nghi Thái Diện tích rừng tự nhiên ngập mặn đã tăng từ 20,2 ha lên 22,8 ha, tăng 2,8 ha, trong khi đất rừng trồng ngập mặn cũng tăng từ 0,0 ha lên 4,8 ha, tăng 4,8 ha Mặc dù diện tích đất lâm nghiệp không lớn, nhưng lại có sự biến động giảm nhanh do trước đây một phần diện tích rừng ngập mặn đã chuyển sang đầm nuôi tôm mà chưa thực hiện thủ tục chuyển đổi đất.
Bảng 2.8 : Diện tích rừng RPH và RSX của xã Nghi Văn (2010-2015)
Loại rừng RPH Tăng, giảm
Có rừng 556,4 581,6 25,2 547,6 541,3 -6,3 Đất chƣa có rừng 27,4 29,3 1,9 6,8 2,3 -4,5 Đất khác lâm nghiệp
(Nguồn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2015)
Diện tích đất LN từ năm 2010 đến nay tăng từ 1.138,2 ha lên 1.154,5 ha năm
Năm 2015, diện tích rừng trồng tại xã Nghi Công Nam và Nghi Văn đã tăng thêm 16,3 ha, đưa độ che phủ rừng lên 34,57% tổng diện tích đất nông nghiệp Rừng trồng chủ yếu là thông nhựa, chiếm 70,4%, trong khi phần còn lại là keo và bạch đàn Cây thông nhựa phát triển tốt và đã bắt đầu được khai thác, mặc dù diện tích rừng trồng tăng không đáng kể Một phần diện tích rừng bạch đàn đã được chuyển đổi sang trồng thông nhựa, với tổng diện tích rừng trồng tăng từ 1104,2 ha lên 1122,9 ha, tương ứng với sự gia tăng 18,9 ha.
Biểu đồ 2.4 : Diện tích RPH xã Nghi Văn 2010-2015
Diện tích rừng phòng hộ (RPH) của xã Nghi Văn trong giai đoạn 2010-2015, như thể hiện trong biểu đồ 2.4, không có sự thay đổi đáng kể so với năm 2010.
Diện tích rừng trồng cây gỗ có trữ lượng và rừng trồng cây gỗ chưa có trữ lượng đang có xu hướng giảm, trong khi đó diện tích rừng trồng đặc sản đã tăng lên 97,6 ha so với năm 2010.
Biểu đồ 2.5 : Diện tích RSX xã Nghi Văn 2010-2015
Biểu đồ 2.5 thể hiện diễn biến diện tích RSX của xã Nghi Văn trong giai đoạn
Từ năm 2010 đến 2015, diện tích rừng trải qua sự thay đổi lớn và nhanh chóng, với diện tích rừng trồng cây gỗ chưa có TL giảm mạnh từ 395,4 ha xuống còn 165,8 ha, tương ứng với mức giảm 229,6 ha Ngược lại, diện tích rừng đặc sản tăng nhanh chóng từ 0,0 ha lên 228,8 ha Mặc dù diện tích rừng trồng có trữ lượng giảm nhưng mức giảm này không đáng kể.
Rừng tại xã Nghi Văn đóng vai trò quan trọng trong việc sinh thủy cho các hồ đập như hồ Lách và hồ Bưởi, cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân Diện tích đất chưa có rừng đã giảm, hiện chỉ còn một phần nhỏ ở khu vực cao xa đầu nguồn, nơi đang được khoanh giữ thực bì.
Bảng 2.9: Diện tích rừng RPH và RSX của xã Nghi Yên (2010-2015)
Loại rừng RPH Tăng, giảm
Có rừng 512,9 4,4 -508,5 24,5 5,1 -19,4 Đất chƣa có rừng 71,9 34,6 -37,3 0,0 0,0 0,0 Đất khác lâm nghiệp 477,9 1.014,7 536,8 52,6 74,9 22,3
Từ năm 2010 đến nay, diện tích đất lâm nghiệp xã Nghi Yên đã giảm từ 1.187,4 ha xuống còn 1.149,1 ha, tương ứng với việc mất 38,3 ha rừng Nguyên nhân chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng sang đất cho phát triển khu công nghiệp khai thác vật liệu xây dựng và quặng sắt thuộc Khu kinh tế Đông Nam Trong số đó, diện tích rừng trồng cũng giảm từ 1.139,8 ha xuống 1.133,7 ha, giảm 6,1 ha.
Biểu đồ 2.6 : Diện tích RPH xã Nghi Yên 2010-2015
Đánh giá chất lƣợng rừng hiện nay của huyện Nghi Lộc
Hai hệ sinh thái quan trọng trong khu vực nghiên cứu là rừng và ven biển, cả hai đang trải qua những biến đổi rõ rệt Mặc dù nghiên cứu này chưa thể lượng hóa chính xác, nhưng những biến động này đã ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất và đời sống của người dân địa phương.
Trong thời gian qua, rừng đã trải qua nhiều biến động, dẫn đến sự thay đổi về cả chất lượng và diện tích Diện tích rừng đã từng suy giảm nghiêm trọng do nạn chặt phá và cháy rừng, nhưng hiện tại đang có dấu hiệu phục hồi nhờ vào các phong trào bảo vệ và phát triển rừng Tuy nhiên, chất lượng rừng vẫn chưa cao và cần thời gian dài để tái phục hồi, vì phần lớn hiện nay là các diện tích rừng mới, trong khi hệ sinh thái trước đây đã bị hủy hoại nghiêm trọng bởi con người và thiên tai.
Diện tích đất rừng tại huyện Nghi Lộc đã tăng đều trong giai đoạn 2000-2015, đặc biệt là ở 5 xã.
Bảng 2.11 : Diện tích đất lâm nghiệp của 5 xã đang nghiên cứu
Nghi Văn Đất lâm nghiệp 4,903.3 1,379.7 930.2 1,187.4 51.0 1,138.2
1.1 Có rừng 2,487.9 283.3 505.3 1,062.7 20.0 556.4 a- Rừng tự nhiên 20.0 0.0 0.0 0.0 20.0 0.0 b- Rừng trồng 2,413.9 283.3 505.3 1,062.7 0.0 556.4 1.2 Chưa có rừng 359.3 81.0 35.2 28.1 31.0 27.4
2.1 Có rừng 1,759.6 826.5 308.4 77.1 0.0 547.6 a- Rừng tự nhiên 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 b- Rừng trồng 1,759.6 826.5 308.4 77.1 0.0 547.6 2.2 Chưa có rừng 296.5 188.9 81.3 19.5 0.0 6.8
( Nguồn số liệu thống kê, Sở NN&PTNT Nghệ An, 2015)
Chất lượng rừng trong khu vực này đang gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng, với gần 100% diện tích RPH và RSX là rừng trồng, chủ yếu là rừng mới được trồng trong vài năm gần đây Mặc dù độ che phủ của diện tích rừng mới trồng được đánh giá tương đối tốt, nhưng các vấn đề về hệ sinh thái rừng liên quan đến sự hình thành và phát triển lâu dài vẫn chưa được cải thiện Hiện tại, chưa có nghiên cứu cụ thể nào đánh giá nguyên nhân và mức độ tác động của từng yếu tố đối với sự suy giảm chất lượng rừng, nhưng có thể khẳng định rằng hai nguyên nhân chính là hoạt động của con người và sự gia tăng hiện tượng biến đổi khí hậu.
Hệ sinh thái (HST) ven bờ đang bị suy thoái nghiêm trọng do tác động của hoạt động khai thác của con người, ô nhiễm môi trường và thiên tai kéo dài Mặc dù HST ven bờ bao gồm nhiều thành phần như rừng ngập mặn, rạn san hô và đầm phá, nhưng trong khu vực 5 xã dự án, chỉ có rừng ngập mặn (RNM) tại xã Nghi Thái với khoảng 20 ha được ghi nhận, trong khi thông tin về các HST khác còn thiếu Sự suy thoái của HST ven bờ đã góp phần quan trọng vào sự giảm sút trong hoạt động nuôi trồng thủy sản mặn lợ, khiến ngành này đối mặt với nhiều rủi ro từ thiên tai và dịch bệnh ngày càng gia tăng.
Sự suy giảm diện tích và mật độ rừng ngập mặn (RNM) đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của nhiều loài thủy sản Điều này dẫn đến giảm sản phẩm quang hợp và nguồn dinh dưỡng cho các loài thủy sinh vật, làm giảm chất lượng môi trường sống của chúng Mặc dù thiếu thông tin cụ thể về trạng thái hệ sinh thái ven bờ trong khu vực, các khảo sát định tính cho thấy tình hình đang xấu đi, đặc biệt là sự suy thoái nghiêm trọng của nghề khai thác thủy sản, với hoạt động này gần như không còn tồn tại tại các xã ven biển trong khu vực nghiên cứu.
Đánh giá thực trạng quản lí và bảo vệ rừng tại huyện Nghi Lộc
2.5.1 Hệ thống quản lí rừng ở huyện Nghi Lộc
Hệ thống quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại huyện Nghi Lộc được thiết lập với sự phối hợp từ cấp huyện đến cấp xã Hạt kiểm lâm Nghi Lộc có 14 cán bộ phụ trách chỉ đạo, kiểm tra và giám sát công tác quản lý rừng và đất lâm nghiệp Tại các xã, đã có kiểm lâm viên địa bàn làm việc Ban Quản lý Rừng Phòng hộ (BQLRPH) Nghi Lộc, với 66 cán bộ, trực tiếp quản lý và phát triển rừng, đã được chuyển đổi từ Lâm trường Nghi Lộc, hiện quản lý 6.000 ha, trong đó có 5.725,1 ha rừng phòng hộ và 513,7 ha rừng sản xuất Dưới BQLRPH, có 6 đội trạm phụ trách quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo từng cụm xã, với đất được giao cho các đội và hộ gia đình để trồng, chăm sóc và khai thác nhựa thông BQLRPH cũng thực hiện các dự án như 661, KFW4 và công tác khuyến lâm, chuyển giao kỹ thuật, cung cấp cây giống cho các xã trong huyện.
Tại cấp xã, cán bộ lâm nghiệp (hoặc kiểm lâm viên) chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ và phát triển rừng Tuy nhiên, chỉ những xã có diện tích đất lâm nghiệp lớn như Nghi Văn, Nghi Công Nam, Nghi Yên mới có cán bộ chuyên trách Ngược lại, các xã có diện tích đất lâm nghiệp hạn chế như Nghi Thái, Nghi Xuân, Phúc Thọ chỉ có cán bộ kiêm nhiệm Điều này dẫn đến hiệu quả công tác quản lý và bảo vệ rừng trên địa bàn chưa đạt yêu cầu.
Trong thời gian qua, hệ thống rừng và đất lâm nghiệp đã được giao cho Hạt kiểm lâm, BQLRPH, UBND xã, các tổ chức và hộ gia đình để quản lý, bảo vệ và xây dựng Diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao cho các tổ chức và hộ gia đình đã được sử dụng hiệu quả Các cấp quản lý từ huyện đến xã đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo Thông qua các dự án như 661 và dự án Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản, đã có sự đầu tư hỗ trợ kinh phí cho các đơn vị và cá nhân tham gia quản lý, bảo vệ và xây dựng rừng, góp phần nâng cao diện tích và chất lượng rừng.
Để nâng cao hiệu quả trong công tác bảo vệ và phát triển rừng, cần tăng cường sự phối hợp giữa Hạt kiểm lâm, BQLRPH, UBND xã và hộ gia đình trong việc chỉ đạo, kiểm tra và giám sát Cần bổ sung kinh phí cho các hoạt động trồng, bảo vệ và phòng chống cháy rừng cũng như sâu bệnh hại Ngoài ra, cần tăng phụ cấp và chế độ cho cán bộ làm công tác lâm nghiệp từ huyện đến xã Việc lập các quy ước và hương ước bảo vệ rừng cùng quỹ bảo vệ và phát triển rừng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động này.
2.5.2 Các hình thức quản lý rừng ở huyện Nghi Lộc
Phương thức quản lý nhà nước hiện nay có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định liên quan đến quản lý rừng, đặc biệt tại Nghi Lộc, nơi rừng và đất rừng chủ yếu thuộc quyền quản lý của Hạt kiểm lâm và BQLRPH Theo thống kê năm 2010, BQLRPH huyện Nghi Lộc quản lý 5.725,1 ha RPH và 513,7 ha RSX Mặc dù phương thức này có ưu điểm về nguồn nhân lực có trình độ, giúp giải quyết các vấn đề chuyên môn như chống cháy rừng và phòng trừ sâu bệnh, nhưng vẫn gặp khó khăn do hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính, dẫn đến hiệu quả quản lý rừng chưa cao.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực trồng rừng hiện đang gặp khó khăn do số lượng cán bộ ít nhưng diện tích rừng lớn, dẫn đến việc thiếu sự phối hợp hiệu quả với địa phương và người dân Điều này đã được đánh giá bởi các cán bộ lãnh đạo địa phương, cho thấy cần cải thiện sự hợp tác để nâng cao hiệu quả trong công tác trồng rừng.
Phương thức quản lý rừng nhà nước hiện nay tập trung vào quyền lực của các cơ quan nhà nước, dẫn đến việc thiếu sự tham gia và quyền lợi của người dân địa phương, từ đó không đạt được mục tiêu bảo tồn bền vững tài nguyên rừng Tại Nghi Lộc, chính quyền xã cũng tham gia quản lý rừng, với 21 ha rừng được UBND xã quản lý và sử dụng như quỹ đất dự phòng cho các hộ gia đình thiếu đất Phương thức này được đánh giá cao nhờ sự am hiểu nhu cầu của người dân, tuy nhiên, đội ngũ cán bộ xã thiếu kỹ năng chuyên môn về quản lý đất đai và chăm sóc rừng, cùng với hiểu biết pháp luật hạn chế, đã dẫn đến những khó khăn trong việc quản lý hiệu quả Diện tích rừng quản lý còn manh mún và không có ngân sách hỗ trợ, làm giảm tính khả thi trong công tác quản lý rừng.
2.5.2.2 Quản lý hộ gia đình
Phương thức quản lý rừng hộ gia đình mang lại hiệu quả cao nhờ vào sự giám sát chặt chẽ và trách nhiệm của các hộ dân đối với tài sản của mình Tuy nhiên, hình thức này cũng đối mặt với nhiều thách thức như thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, và khó khăn trong bảo vệ và phát triển rừng do mối liên kết yếu giữa các hộ Hiện tại, diện tích quản lý theo hộ gia đình là 3.083,9 ha, chủ yếu trồng các loại cây như thông, keo, phi lao, và bạch đàn Đặc điểm đất ở đây chủ yếu là vùng đồi núi cằn cỗi với độ pH thấp, thích hợp cho việc phát triển cây Thông nhựa (Pinus merkusii), trong khi một số diện tích đất ven đồi có độ dốc thấp hơn lại phù hợp cho trồng cây nguyên liệu mọc nhanh như keo lá tràm.
(Acacia auriculiformisss), keo tai tượng (Acacia mangium)…
Bảng 2.12: Quy hoạch đất lâm phần phân theo chủ rừng của huyện Nghi Lộc
GĐ UBND BQL Hộ GĐ UBND Đất LN 9,343.70 5,725.10 513.7 3,083.90 21
2 Rừng trồng 8,070.90 4,963.20 456.3 2,645.40 6 2.1 Rừng trồng có cây gỗ TL 3,498.80 1,916.60 341.8 1,234.40 6
2.2 Rừng trồng chưa có cây gỗ TL 1,810.50 812.7 12.6 985.2
( Nguồn UBND huyện Nghi Lộc, 2010)
2.5.3 Sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý và bảo vệ rừng
Kinh tế chủ yếu của người dân tập trung vào nông nghiệp và sản xuất lâm nghiệp, với nhiều hộ gia đình có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực này Tuy nhiên, việc chỉ phụ thuộc vào nông nghiệp đã dẫn đến nhiều khó khăn trong đời sống Chính sách giao đất và giao rừng đã hỗ trợ phát triển kinh tế rừng cho các hộ gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm cho người dân.
Nhiều hộ gia đình đã nhận khoán khoanh nuôi và bảo vệ hàng chục hecta rừng, nâng cao trách nhiệm của người dân trong việc quản lý tài nguyên rừng Họ tự giác thực hiện các biện pháp phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ rừng, ký cam kết không vi phạm quy định về rừng, dẫn đến tình trạng chặt phá rừng bừa bãi giảm rõ rệt Việc giao đất và rừng cho người dân đã mang lại lợi ích tích cực, khuyến khích họ trồng rừng trên diện tích được giao theo quy hoạch Các khu rừng trồng chủ yếu là thông nhựa, giúp người dân thu hoạch nhanh chóng.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa Kiểm lâm xã, Kiểm lâm huyện, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện, UBND xã và các ban ngành liên quan là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Sự hợp tác của người dân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và quản lý rừng, đặc biệt trong công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) Trong năm qua, huyện Nghi Lộc đã tổ chức diễn tập PCCCR, nhằm kiểm tra khả năng ứng phó và sự phối hợp của cộng đồng Qua đó, người dân đã rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu để đối phó với các sự cố Bên cạnh đó, người dân cũng thường xuyên thăm rừng hơn và chủ động dọn dẹp các yếu tố bất lợi như thực bì và cành củi khô, nhằm giảm thiểu nguy cơ cháy rừng.