1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

81 44 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Về Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Quản Lý Và Bảo Vệ Rừng
Tác giả Vũ Văn Thúc
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hiến Pháp Và Luật Hành Chính
Thể loại Luận Văn Thạc Sỹ Luật Học
Năm xuất bản 2015
Thành phố TP. HỒ CHÍ MINH
Định dạng
Số trang 81
Dung lượng 0,98 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái niệm vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (13)
    • 1.1.1. Khái niệm quản lý và bảo vệ rừng (13)
    • 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (17)
    • 1.1.3. Các hành vi vi phạm hành chính cụ thể trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (21)
    • 1.1.4. Khái niệm, đặc điểm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (24)
  • 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (26)
    • 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (27)
    • 1.2.2. Vai trò của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (29)
  • 1.3. Quá trình phát triển của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (31)
    • 1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (31)
    • 1.3.2. Giai đoạn từ khi có Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đến Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (31)
    • 1.3.3. Giai đoạn từ Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đến nay (33)
  • 2.1. Thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng tại tỉnh Lâm Đồng (37)
    • 2.1.1. Thực trạng hành vi phá rừng trái phép và thực tiễn xử lý (37)
    • 2.1.2. Thực trạng hành vi vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản và thực tiễn xử lý (39)
    • 2.1.3. Thực trạng hành vi vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ động vật (40)
    • 2.1.4. Thực trạng vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy rừng và thực tiễn xử lý (41)
    • 2.1.5. Thực trạng vi phạm về chống người thi hành công vụ và thực tiễn xử lý (43)
    • 2.1.6. Thực trạng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng tại tỉnh Lâm Đồng và thực tiễn giải quyết (44)
  • 2.2. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và giải pháp hoàn thiện (46)
    • 2.2.1. Thực trạng quy định về các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và giải pháp hoàn thiện (46)
    • 2.2.2. Thực trạng quy định về các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và giải pháp hoàn thiện (48)
    • 2.2.3. Thực trạng quy định về các đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và giải pháp hoàn thiện (50)
    • 2.2.4. Thực trạng quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và giải pháp hoàn thiện (51)
    • 2.2.5. Thực trạng quy định về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và giải pháp hoàn thiện (55)
    • 2.2.7. Thực trạng quy định về thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng (64)
    • 2.2.8. Thực trạng quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử lý và xử phạt (68)
  • 2.3. Các giải pháp chung góp phần hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và tại tỉnh Lâm Đồng (71)
    • 2.3.1. Điều chỉnh hoạt động của Kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng (71)
    • 2.3.2. Tăng cường phòng, chống tham nhũng trong lực lượng kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng (72)
  • KẾT LUẬN (35)

Nội dung

Khái niệm vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Khái niệm quản lý và bảo vệ rừng

1.1.1.1 Khái niệm rừng và vai trò của rừng

Rừng là một quần xã cây gỗ với các mối quan hệ tương tác phức tạp giữa các cây, đất và môi trường không khí, cho phép rừng có khả năng tự phục hồi Theo G F Morozov (1912), rừng tạo ra các hiện tượng mới không có ở cây mọc lẻ V I Xukachev (1945, 1960) định nghĩa rừng là một quần lạc sinh địa đồng nhất về thành phần loài và cấu trúc, với các mối quan hệ đặc trưng và kiểu trao đổi vật chất, năng lượng giữa các thành phần và môi trường Quan điểm hệ thống của X.B Belov (1976) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các mối quan hệ này trong việc hiểu rõ về rừng.

Rừng là một hệ thống sinh học tự điều chỉnh, bao gồm cây gỗ, cây bụi, thảm cỏ, động vật, vi sinh vật, đất, chế độ thủy văn và không khí Ở Việt Nam, quan niệm về rừng đã tồn tại từ lâu, đặc biệt trong tâm trí của các đồng bào dân tộc thiểu số Chẳng hạn, người Mông coi rừng là nơi có đất và giữ nước, với đất và nước được xem là gốc rễ của sự sống.

1 http://www2.hcmuaf.edu.vn/data/nvthem/Ch%C6%B0%C6%A1ng%201_%20Sinh%20th

Rừng là cội nguồn của sự sống, vì vậy con cháu cần tôn trọng và bảo vệ rừng Trong quan niệm của người Pu Péo, rừng không chỉ là nơi sinh sống mà còn là nhà của tổ tiên, với thần rừng được xem như tổ tiên của họ Sự kết nối giữa con người và rừng thể hiện tầm quan trọng của thiên nhiên trong văn hóa và đời sống của cộng đồng này.

Luật bảo vệ và phát triển rừng đầu tiên được ban hành vào năm 1991, quy định rằng rừng bao gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng trên đất lâm nghiệp, cùng với thực vật, động vật và các yếu tố tự nhiên liên quan Tuy nhiên, văn bản này chưa đưa ra khái niệm cụ thể về rừng, mà chỉ đề cập đến đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật.

Luật 2004 đã định nghĩa chi tiết về rừng, theo đó, rừng được xem là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật, động vật, vi sinh vật, đất và các yếu tố môi trường khác, với cây gỗ, tre, nứa là thành phần chính và có độ che phủ tán rừng từ 0,1 trở lên Rừng bao gồm cả rừng trồng và rừng tự nhiên, phân bố trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng Khái niệm này phù hợp với quan điểm của các nhà khoa học quốc tế, cho thấy rừng là một hệ thống tổng hợp nhiều yếu tố Tác giả hoàn toàn đồng ý với định nghĩa này.

1.1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của quản lý và bảo vệ rừng

Quản lý là sự tác động có định hướng nhằm trật tự hóa và phát triển một hệ thống theo các quy luật nhất định Trong xã hội, quản lý thể hiện qua sự tổ chức và điều chỉnh của chủ thể quản lý đối với các khách thể quản lý, dựa trên những quy luật khách quan để đạt được mục tiêu đã đề ra Theo Các Mác, quản lý là chức năng đặc biệt xuất phát từ bản chất của quá trình lao động xã hội, luôn gắn liền với hoạt động có mục đích và kế hoạch của tập thể, dù lớn hay nhỏ.

2 http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_xahoi/_mobile_tintucxh/item/20014702.html (truy cập ngày 20.6.2014)

3 http://vov4.vov.vn/TV/chuyen-vung-dan-toc/rung-la-nha-cua-to-tien-c1256-7307.aspx.(truy cập 20.6.2014)

Quản lý nhà nước có thể được hiểu theo hai khía cạnh: nghĩa rộng và nghĩa hẹp, và điều này thể hiện sự tác động của con người thông qua các thể chế xã hội đặc biệt.

Quản lý nhà nước, theo nghĩa rộng, là hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước, mang tính xã hội và chính trị sâu sắc Đặc điểm quyền lực nhà nước cũng phân biệt quản lý nhà nước với các hình thức quản lý xã hội khác như trong tổ chức xã hội, hợp tác xã, hay gia đình.

Quản lý nhà nước, theo nghĩa hẹp, là hoạt động tổ chức và điều chỉnh chủ yếu của hệ thống cơ quan hành chính, được thực hiện dựa trên cơ sở pháp luật nhằm thi hành luật, đưa luật vào đời sống thực tiễn, và bảo đảm trật tự pháp luật Hoạt động này cũng góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển xã hội, thể hiện tính tổ chức chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước.

Quản lý và bảo vệ rừng là hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp Theo nghĩa hẹp, đây là sự tác động của cơ quan hành chính nhà nước nhằm điều chỉnh hành vi con người, tạo lập trật tự trong quản lý, bảo vệ và khai thác rừng hiệu quả, đồng thời sử dụng tài nguyên rừng một cách hợp lý Các cơ quan hành chính nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong việc tổ chức, quản lý và bảo vệ rừng Trong luận văn này, khái niệm quản lý nhà nước sẽ được hiểu chủ yếu theo nghĩa hẹp, nhưng cũng sẽ được xem xét dưới góc độ nghĩa rộng khi phân tích các quy định của cơ quan lập pháp.

Quản lý và bảo vệ rừng là một nhiệm vụ quan trọng, bao gồm các hoạt động giám sát, gìn giữ và ngăn chặn sự hủy hoại rừng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững Theo đó, quản lý và bảo vệ rừng được hiểu là hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền, thực hiện theo quy định pháp luật để bảo vệ và phát triển rừng.

Hà Công Tuấn (2007) đã nghiên cứu về quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam, trong luận án tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các chính sách và quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ rừng, đồng thời nêu rõ những thách thức và giải pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý rừng tại Việt Nam.

Khái niệm trên cho thấy quản lý và bảo vệ rừng có các đặc điểm sau :

Thứ nhất, đối tượng của quản lý và bảo vệ rừng chính là rừng

Khách thể của quản lý và bảo vệ rừng bao gồm các hoạt động khai thác và khôi phục tài nguyên rừng, thực hiện bởi các chủ thể chịu sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này.

Vào ngày thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng theo quy định của Luật năm 2004 và Luật năm 2012, bao gồm Kiểm lâm, Chủ tịch UBND các cấp, Thanh tra chuyên ngành, Công an Nhân dân, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng với Bộ Quốc phòng.

Bộ Văn hóa và Thông tin, các chủ rừng là ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ

Các chủ thể chịu sự quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng tại Việt Nam bao gồm: các cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cùng với tổ chức và cá nhân nước ngoài có liên quan đến việc bảo vệ và phát triển rừng.

Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

1.1.2.1 Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Theo từ điển Tiếng Việt, "vi phạm" có nghĩa là không tuân theo hoặc làm trái lại những quy định, trong khi "hành chính" liên quan đến quản lý nhà nước Do đó, VPHC được hiểu là một loại vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước và phải chịu trách nhiệm hành chính.

Khái niệm “VPHC” trong hệ thống pháp luật nước ta lần đầu tiên được định nghĩa tại Điều 1 Pháp lệnh 1989 Đến các Pháp lệnh 1995 và Pháp lệnh

2002 thì khái niệm này lại không được định nghĩa trực tiếp mà lại định nghĩa

Việc xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) được hiểu qua khái niệm này, và Luật 2012 đã định nghĩa rõ ràng VPHC tại khoản 1 Điều 2.

VPHC là hành vi vi phạm pháp luật do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện, không thuộc tội phạm nhưng vẫn vi phạm các quy định về quản lý nhà nước, và theo quy định pháp luật, những hành vi này phải chịu hình thức xử phạt tương ứng.

Các định nghĩa trong pháp lệnh và Luật 2012 đã chỉ ra các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính (VPHC), bao gồm hành vi VPHC, tính trái pháp luật, chủ thể VPHC, lỗi và trách nhiệm hành chính Tuy nhiên, một số tác giả đã chỉ ra ba vấn đề chưa chính xác trong các định nghĩa này, trong đó có việc quy định khách thể của VPHC là "quản lý nhà nước" chưa rõ ràng.

6 http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Vi_ph%E1%BA%A1m (truy cập ngày 25.6.2014)

7 Nguyễn Cửu Việt (2010), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 16

Ngô Tử Liễn (1994) trong bài viết “Cơ sở của trách nhiệm hành chính và vấn đề sửa đổi Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt VPHC” đã nêu rõ những nền tảng của trách nhiệm hành chính liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính Lê Vương Long (2003) đã đề cập đến các vấn đề cần hoàn thiện trong pháp luật xử phạt VPHC, trong khi Phan Trung Hiền (2011) đã trình bày ý kiến tại Hội thảo khoa học về Dự thảo Luật xử lý VPHC tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh, góp phần vào việc cải tiến hệ thống pháp lý này.

Việt (2010) trong Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam chỉ ra rằng khái niệm vi phạm hành chính (VPHC) cần được hiểu rõ hơn, vì nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì sẽ quá chung và không phân biệt được với nhiều loại vi phạm khác Việc sử dụng các cụm từ như “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự” hay “không phải là tội phạm” để định nghĩa VPHC là không hoàn toàn chính xác, bởi vì vi phạm pháp luật không phải lúc nào cũng chỉ là VPHC Hơn nữa, cụm từ “bị xử phạt VPHC” cũng không phản ánh đầy đủ bản chất của trách nhiệm hành chính, vì nó có nội hàm rộng hơn nhiều Tác giả luận văn đồng tình với những quan điểm này.

Trong văn bản pháp luật, cần có định nghĩa ngắn gọn và dễ hiểu, đồng thời phải thể hiện đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của VPHC, đảm bảo tính chính xác và khoa học Dựa trên những lập luận này, tác giả đề xuất khái niệm VPHC như sau:

VPHC là hành vi trái pháp luật, bao gồm cả hành động và không hành động, do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện với lỗi (cố ý hoặc vô ý), và theo quy định pháp luật, phải chịu trách nhiệm hành chính Định nghĩa này nhấn mạnh các yếu tố cơ bản của VPHC, bao gồm hành vi, tính trái pháp luật, lỗi và trách nhiệm hành chính.

Từ các khái niệm liên quan đã nêu ở trên, tác giả xác định khái niệm VPHC trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng như sau:

VPHC trong quản lý và bảo vệ rừng là hành vi vi phạm pháp luật do cá nhân, hộ gia đình, cơ quan hoặc tổ chức thực hiện Những hành vi này không tuân thủ quy định pháp luật và theo quy định hiện hành, các đối tượng vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính.

1.1.2.2 Đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Từ phân tích trên có thể thấy VPHC trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có một số đặc điểm sau đây:

VPHC trong quản lý và bảo vệ rừng là hành vi vi phạm pháp luật do cá nhân, hộ gia đình, cơ quan hoặc tổ chức thực hiện, có thể là cố ý hoặc vô ý Những hành vi này xâm phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng, ảnh hưởng đến sự bền vững của tài nguyên rừng.

Theo Luật 2012, đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính (VPHC) bao gồm hai nhóm chính: cá nhân và tổ chức Cá nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử lý nếu VPHC do lỗi cố ý, trong khi người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ bị xử phạt cho mọi hành vi vi phạm Đối với lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, họ cũng sẽ bị xử lý VPHC tương tự như công dân khác.

Vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng bao gồm các hành vi trái pháp luật được quy định trong pháp luật, như việc dịch chuyển mốc ranh giới rừng nhằm chiếm giữ và sử dụng rừng của chủ rừng khác, cũng như khai thác trái phép cảnh quan, môi trường và dịch vụ lâm nghiệp theo Điều 9 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP Ngoài ra, hành vi khai thác gỗ không tuân thủ trình tự, thủ tục và yêu cầu kỹ thuật theo thiết kế được phê duyệt cũng được quy định tại Điều 11 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP.

VPHC trong quản lý và bảo vệ rừng phải chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật, bao gồm việc áp dụng các hình thức xử phạt hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả.

Trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, các hình thức xử phạt hành chính được quy định theo Luật 2012 Cụ thể, Khoản 1 Điều 21 Luật này nêu rõ các hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề có thời hạn, đình chỉ hoạt động tạm thời, tịch thu tang vật vi phạm hành chính và phương tiện sử dụng để vi phạm, cũng như hình thức trục xuất.

Nghị định 157/2013/NĐ-CP không quy định hình thức xử phạt hành chính riêng cho quản lý và bảo vệ rừng, nhưng có các biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể Theo Khoản 1 Điều 28 Luật 2012, các biện pháp này bao gồm buộc khôi phục tình trạng ban đầu, tháo dỡ công trình xây dựng không có giấy phép hoặc không đúng với giấy phép.

9 Điểm a Khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

Các hành vi vi phạm hành chính cụ thể trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Các hành vi vi phạm hành chính trong quản lý và bảo vệ rừng được quy định bởi pháp luật, là cơ sở để thực hiện các biện pháp xử lý phù hợp Theo quy định hiện hành, những hành vi này bao gồm nhiều hình thức khác nhau.

Thứ nhất, các hành vi vi phạm quy định về quản lý rừng, theo Nghị Định

157/2013/NĐ-CP, các hành vi VPHC cụ thể của nhóm này bao gồm 11 :

Hành vi lấn chiếm rừng là việc di chuyển mốc ranh giới rừng nhằm chiếm giữ và sử dụng trái phép tài nguyên rừng của chủ rừng khác hoặc của Nhà nước.

Các hành vi vi phạm quy định về sử dụng rừng được quy định từ Điều 8 đến Điều 12 của Nghị định 157/2013/NĐ-CP, liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính về quản lý, phát triển, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.

Hành vi khai thác trái phép cảnh quan và môi trường rừng đang diễn ra với nhiều hình thức khác nhau, bao gồm tổ chức tham quan phong cảnh không phép, xây dựng nghĩa địa và làm mộ trái phép trong rừng, cũng như việc sản xuất, cung cấp dịch vụ và kinh doanh trái phép trong khu vực rừng Những hành động này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên.

Hành vi vi phạm quy định về thiết kế khai thác gỗ bao gồm việc thiết kế khối lượng khai thác không đúng với thực tế, cụ thể là khối lượng khai thác thực tế vượt quá 15% đến 20% so với khối lượng trong hồ sơ thiết kế Ngoài ra, việc đóng búa bài cây không đúng đối tượng và ngoài phạm vi thiết kế khai thác cũng được coi là hành vi vi phạm.

Hành vi vi phạm quy định khai thác gỗ bao gồm việc không tuân thủ trình tự, thủ tục và yêu cầu kỹ thuật theo thiết kế được phê duyệt Các hành vi này gồm: không thực hiện thủ tục giao, nhận hồ sơ khai thác, không vệ sinh rừng sau khi khai thác, và không áp dụng các biện pháp kỹ thuật đảm bảo tái sinh rừng Ngoài ra, việc không chặt những cây cong queo, sâu bệnh hoặc không thu hoạch hết gỗ cành ngọn, cây đổ gãy trong quá trình khai thác cũng là vi phạm Việc mở đường vận xuất và bãi tập trung gỗ sai vị trí thiết kế, cũng như khai thác gỗ không đúng lô thiết kế hay chặt cây không có dấu bài chặt đều gây thiệt hại cho rừng.

Hành vi khai thác rừng trái phép là việc khai thác lâm sản trong rừng mà không được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc khai thác mặc dù có phép nhưng không tuân thủ đúng quy định đã được phê duyệt.

Thứ hai, các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ rừng, theo Nghị Định

157/2013/NĐ-CP, bao gồm các hành vi VPHC cụ thể sau đây 12 :

Vi phạm quy định về trồng rừng mới để thay thế diện tích rừng chuyển đổi mục đích sử dụng bao gồm các hành vi như chậm trễ trong việc trồng rừng mới.

12 hành vi vi phạm quy định về phát triển rừng được quy định từ Điều 13 đến Điều 20 của Nghị định 157/2013/NĐ-CP Những hành vi này liên quan đến quản lý, phát triển và bảo vệ rừng, cũng như quản lý lâm sản Đặc biệt, việc không hoàn thổ đúng thời hạn để trồng lại rừng trên diện tích đã khai thác khoáng sản cũng là một trong những hành vi vi phạm này.

Hành vi vi phạm quy định của Nhà nước về trồng rừng bao gồm việc trồng rừng mà không có thiết kế rõ ràng, thực hiện không đúng thiết kế đã được phê duyệt, và không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ quy trình kỹ thuật trong việc trồng và chăm sóc rừng.

Hành vi vi phạm quy định về bảo vệ rừng bao gồm việc sử dụng dụng cụ thủ công và cơ giới để săn bắt động vật, khai thác lâm sản và khoáng sản trái phép Ngoài ra, việc nuôi trồng và thả động thực vật không có nguồn gốc bản địa, tổ chức nghiên cứu và du lịch trái phép trong rừng đặc dụng cũng là hành vi vi phạm Các hành vi khác như thu thập mẫu vật trái phép, đưa phương tiện vào rừng để quảng cáo, săn bắt trong mùa sinh sản, và sử dụng lửa không đúng quy định trong khu bảo vệ nghiêm ngặt đều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường Việc không thực hiện đúng phương án phòng cháy chữa cháy và không tổ chức tuần tra, canh gác rừng cũng làm tăng nguy cơ cháy rừng.

Hành vi chăn thả gia súc trong các khu rừng bị cấm bao gồm việc thả gia súc trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng, cũng như trong các khu rừng trồng dặm cây con, rừng trồng mới từ bốn đến năm tuổi và rừng khoanh nuôi tái sinh Những quy định này nhằm bảo vệ môi trường và hệ sinh thái rừng.

Hành vi vi phạm quy định về phòng trừ sinh vật hại rừng bao gồm việc chủ rừng cố ý không thực hiện các biện pháp phòng trừ theo quy định pháp luật và việc sử dụng thuốc trừ sinh vật hại rừng bị cấm.

Khái niệm, đặc điểm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Hành vi phá rừng trái pháp luật bao gồm nhiều hoạt động gây hại cho rừng, như chặt phá cây, đào bới, san ủi, nổ mìn, và xả chất độc Những hành vi này xảy ra mà không có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc không tuân thủ đúng quy định khi chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.

1.1.4 Khái niệm, đặc điểm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) là hoạt động do nhà nước trao quyền áp dụng các biện pháp trách nhiệm hành chính, bao gồm toàn bộ các biện pháp và hành động liên quan Khái niệm này rộng hơn khái niệm “xử phạt VPHC”, vì nó không chỉ bao gồm xử phạt hành chính mà còn các biện pháp khắc phục hậu quả và bảo đảm thực hiện các biện pháp này Tuy nhiên, nó không bao gồm “các biện pháp xử lý hành chính khác” theo quy định của các Pháp lệnh 1995, 2002, hay “các biện pháp xử lý hành chính” theo Luật 2012, vì đối tượng áp dụng không chỉ là VPHC Trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, xử lý VPHC là quá trình giải quyết vụ việc từ khi phát hiện hành vi vi phạm đến khi thi hành xong quyết định xử lý.

Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cá nhân được ủy quyền, thực hiện theo quy định của pháp luật Mục tiêu của hoạt động này là áp dụng các biện pháp nhằm đảm bảo việc xử lý VPHC, bao gồm các biện pháp xử phạt hành chính và khắc phục hậu quả do VPHC gây ra, đồng thời bảo đảm thi hành quyết định xử lý VPHC đối với các chủ thể liên quan trong lĩnh vực này.

Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có những đặc điểm nổi bật, được xác định dựa trên khái niệm và các quy định pháp luật hiện hành.

Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong quản lý và bảo vệ rừng là quá trình áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và khắc phục hậu quả đối với các đối tượng vi phạm trong lĩnh vực này.

Hoạt động xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng được quy định rõ ràng qua các văn bản pháp luật như Luật 2004 và Luật 2012 Các quy định cụ thể về xử lý VPHC bao gồm Nghị định số 157/2013/NĐ-CP, quy định xử phạt liên quan đến quản lý, phát triển và bảo vệ rừng, cùng với Nghị quyết số 24/2012/QH13 thi hành Luật 2012 Thêm vào đó, Thông tư 28/2005/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sửa đổi Thông tư 63/2004/TT-BNN cũng hướng dẫn về xử phạt VPHC trong lĩnh vực này.

Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền xử lý VPHC khá nhiều, được chia thành hai nhóm sau:

13 Xem: Nguyễn Cửu Việt (2009) “Vấn đề hoàn thiện pháp luật về VPHC”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 01); Nguyễn Cửu Việt, tlđd 7, tr 494

Nhóm 1, những người có thẩm quyền xử phạt VPHC quy định tại Nghị định 157/2013/NĐ-CP Cụ thể là những chủ thể sau:

Kiểm lâm viên, Trạm trưởng Trạm kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng, Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm, Đội trưởng Đội kiểm lâm đặc nhiệm Cục kiểm lâm, và Cục trưởng Cục kiểm lâm đều là những chức danh quan trọng được quy định tại Điều 26 Nghị định 157/2013/NĐ-CP.

+ Chủ tịch UBND các cấp (Điều 27 Nghị định 157/2013/NĐ-CP);

Thanh tra viên trong lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, bao gồm Chánh thanh tra Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chánh thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, cùng Trưởng đoàn thanh tra Tổng cục Lâm nghiệp, được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng thanh tra theo quy định tại Điều 28 Nghị định 157/2013/NĐ-CP.

Người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng và trưởng tàu, cùng với những người được giao nhiệm vụ lập biên bản, có quyền lập biên bản về các vi phạm liên quan đến công vụ và nhiệm vụ được giao, đồng thời chịu trách nhiệm về việc lập biên bản đó.

Các cơ quan như Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng và Quản lý thị trường có thẩm quyền phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, theo quy định tại Điều 52 của Nghị định 157/2013/NĐ-CP.

Nhóm hai, công chức, viên chức đang thi hành công vụ về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản

Việc xác định thẩm quyền như đã nêu trên không chỉ phản ánh thực tiễn mà còn phù hợp với chức năng và quyền hạn của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được nhà nước giao phó.

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Pháp luật là công cụ quản lý nhà nước và xã hội, với nhiều quan điểm định nghĩa khác nhau Một số quan điểm cho rằng pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội để tạo ra trật tự và ổn định Quan điểm khác nhấn mạnh rằng pháp luật bao gồm các quy định và nguyên tắc do nhà nước đặt ra, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị cũng như toàn xã hội, và là công cụ thiết lập và duy trì trật tự xã hội.

Pháp luật được hiểu là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm duy trì ổn định và trật tự xã hội Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật liên kết với nhau, được phân thành các chế định và ngành luật, thể hiện qua các văn bản do nhà nước ban hành Tại Việt Nam, pháp luật về vi phạm hành chính trong quản lý và bảo vệ rừng thuộc lĩnh vực của ngành luật hành chính.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong quản lý và bảo vệ rừng bao gồm các quy định pháp lý do nhà nước ban hành hoặc công nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực này.

15 Nguyễn Cửu Việt (2003), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.214

16 Nguyễn Thị Hồi (2010), Những nội dung căn bản của môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.46-47

17 Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.401

Từ các khái niệm trên cho thấy pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có một số đặc điểm sau:

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động này Cụ thể, đối tượng điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực này là các quan hệ liên quan đến việc xử lý VPHC trong quản lý và bảo vệ rừng Trong khi đó, ở các lĩnh vực khác như giao thông đường bộ, đối tượng điều chỉnh sẽ là các quan hệ xã hội khác liên quan đến xử lý VPHC trong lĩnh vực đó Tóm lại, pháp luật về xử lý VPHC có sự khác biệt về đối tượng điều chỉnh tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có tính quyền lực nhà nước cao, được ban hành và thực hiện bởi cơ quan nhà nước Tuy nhiên, tính quyền lực này có sự khác biệt so với các lĩnh vực khác Chẳng hạn, các văn bản quy phạm pháp luật như luật do Quốc hội ban hành và nghị định do Chính phủ ban hành, trong khi các thông tư hướng dẫn lại do các bộ như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông Vận tải, và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ban hành Thẩm quyền thực hiện pháp luật xử lý VPHC cũng được phân chia giữa các chủ thể khác nhau, như Cảnh sát giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ và Kiểm lâm viên trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng được quy định trong các văn bản pháp lý liên quan đến quản lý và bảo vệ rừng.

Trong năm 2004, các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) đã được thiết lập, bao gồm cả Luật năm 2012, áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, có những quy định riêng biệt về xử lý VPHC, được trình bày chi tiết ở mục 1.3.2.

Vai trò của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý xã hội, đặc biệt trong việc xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng Những quy định pháp lý không chỉ giúp duy trì trật tự xã hội mà còn bảo vệ tài nguyên rừng, góp phần vào sự phát triển bền vững.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong quản lý và bảo vệ rừng cung cấp cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền hạn của mình Quyền hạn này không tự phát sinh mà được Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật, và các cá nhân, cơ quan chỉ được phép thực hiện quyền hạn theo các quy định đó Đặc biệt, Nghị định 157/2013/NĐ-CP đã chỉ rõ quyền xử lý VPHC trong lĩnh vực này cho các cá nhân có thẩm quyền.

Chỉ những cá nhân được quy định trong văn bản này mới có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong quản lý và bảo vệ rừng cung cấp cơ sở pháp lý để xác định các hành vi vi phạm Việc xử lý VPHC chỉ được thực hiện khi có hành vi vi phạm cụ thể trong lĩnh vực này.

VPHC trong quản lý và bảo vệ rừng cần được xác định và chứng minh dựa trên các quy định pháp luật hiện hành Các chủ thể có thẩm quyền phải căn cứ vào những quy định này để xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong quản lý và bảo vệ rừng là cơ sở quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt và khắc phục hậu quả đối với các hành vi VPHC Đồng thời, cần thực hiện các biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo thi hành quyết định xử lý khi các chủ thể không tự nguyện chấp hành Để đảm bảo tính công bằng và khách quan, các hành vi VPHC tương tự phải được xử lý nhất quán, bất kể cá nhân hay tổ chức thực hiện, cũng như địa phương khác nhau Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần căn cứ vào quy định pháp luật để xác định biện pháp xử lý phù hợp với từng hành vi VPHC.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn, răn đe các hành vi vi phạm, đồng thời giáo dục ý thức pháp luật cho cộng đồng Các quy định cụ thể về hành vi VPHC, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả giúp ngăn chặn hành vi vi phạm và bảo vệ môi trường rừng Để đạt hiệu quả cao, cần phổ biến và tuyên truyền rộng rãi về pháp luật này, đồng thời đảm bảo tính chặt chẽ của các quy định liên quan.

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Ngoài các hình thức xử phạt, pháp luật còn quy định các biện pháp khắc phục hậu quả và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi VPHC gây ra Việc áp dụng những biện pháp này không chỉ giúp xử lý vi phạm mà còn đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.

Quá trình phát triển của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Giai đoạn trước khi ban hành Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004

Hoạt động quản lý và bảo vệ rừng hiện nay dựa trên Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991, cùng với các Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, 1995, và 2002, cũng như các nghị định hướng dẫn liên quan.

Nhà nước Việt Nam và Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách bảo vệ rừng và khuyến khích trồng rừng, nhưng diện tích rừng bị tàn phá vẫn không giảm Nguyên nhân chủ yếu là do áp lực dân số gia tăng nhanh chóng ở các vùng có rừng, dẫn đến nhu cầu cao về đất ở và đất canh tác, khiến nạn phá rừng để sinh kế và lấy đất canh tác ngày càng gia tăng.

Cơ chế thị trường và sự gia tăng giá cả nông, lâm sản đã dẫn đến nhu cầu cao về đất canh tác, kích thích người dân phá rừng để trồng cây có giá trị hoặc buôn bán đất trái phép Điều này cho thấy các quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 không còn đủ hiệu quả để giải quyết vấn đề, cần có văn bản pháp luật tiến bộ hơn để khắc phục tình trạng này.

Trong giai đoạn hiện nay, các pháp lệnh về xử phạt và xử lý vi phạm hành chính trong quản lý và bảo vệ rừng đã góp phần giảm thiểu hành vi vi phạm Tuy nhiên, sự thay đổi của nền kinh tế và nhu cầu khai thác rừng đòi hỏi cần phải cập nhật và đổi mới các văn bản này.

Giai đoạn từ khi có Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đến Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012

lý vi phạm hành chính năm 2012

Việc xử lý nghiêm các vi phạm trong quản lý và bảo vệ rừng là rất cần thiết để ngăn chặn hành vi vi phạm và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân Từ khi có Luật 2004 đến Luật 2012, nhiều văn bản pháp lý đã được ban hành nhằm cải thiện công tác quản lý, phát triển và bảo vệ rừng cũng như quản lý lâm sản.

Sau hơn 13 năm thực hiện, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991 đã bộc lộ nhiều hạn chế và một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn Do đó, vào kỳ họp thứ 6 ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật 2004 để thay thế Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991.

Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 159/2007/NĐ-CP nhằm cụ thể hóa Luật 2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng Trong giai đoạn này, Thông tư liên tịch 19/2007/TTLT-BNN-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC đã được phối hợp ban hành bởi Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự cho các tội phạm liên quan đến quản lý và bảo vệ rừng cũng như lâm sản.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2009/NĐ-CP vào ngày 02/11/2009, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng như quản lý lâm sản Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, thay thế cho Nghị định trước đó.

Nghị định 159/2007/NĐ-CP quy định biện pháp bảo vệ tài nguyên rừng và xử lý vi phạm trong lĩnh vực này Để nâng cao hiệu quả quản lý rừng đặc dụng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 117/2010/NĐ-CP vào ngày 24 tháng 12 năm 2010 Các văn bản này đã khắc phục những quy định không còn phù hợp và bổ sung quy định mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới trong quản lý và bảo vệ rừng Ví dụ, mức phạt được tăng lên, hệ thống mẫu biểu xử phạt vi phạm hành chính được sửa đổi, và quy định về cho thuê, cho mượn công cụ, phương tiện cũng được bổ sung, yêu cầu hợp đồng và xuất trình trong 24 giờ khi phát hiện vi phạm, phù hợp với tình hình kinh tế và vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.

Giai đoạn từ Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đến nay

Kể từ khi Quốc hội thông qua Luật năm 2012, nhiều văn bản liên quan đến quản lý và bảo vệ rừng đã được ban hành Các văn bản này được phát hành theo thứ tự thời gian, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng.

- Nghị định số 81/2013/ NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 hướng dẫn một số điều và biện pháp thi hành Luật 2012;

Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 2 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về hình thức xử phạt trục xuất và biện pháp tạm giữ, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính Nghị định này cũng quy định việc quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất.

Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ban hành ngày 3 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ và tịch thu theo thủ tục hành chính Nghị định này nhằm đảm bảo việc xử lý tang vật và phương tiện một cách hợp pháp, minh bạch và hiệu quả, đồng thời bảo vệ quyền lợi của tổ chức và cá nhân liên quan.

Nghị định 157/2013/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 25 tháng 12 năm 2013, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, phát triển và bảo vệ rừng, cũng như quản lý lâm sản, thay thế cho Nghị định 99/2009/NĐ-CP.

Nghị định số 160/2013/NĐ-CP, ban hành ngày 12 tháng 11 năm 2013, quy định các tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý đối với các loài thuộc danh mục nguy cấp, quý hiếm cần được ưu tiên bảo vệ.

- Nghị định 166/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC

Nghị định số 157/2013/NĐ-CP có nhiều điểm tiến bộ so với các văn bản trước đó Cụ thể:

Chế tài liên quan đến việc trồng bù rừng cần được nâng cao, với mức phạt tiền lên đến 500 triệu đồng cho cá nhân vi phạm và gấp đôi cho tổ chức Trong bối cảnh phát triển, Nhà nước đã cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng rừng cho các công trình như thủy điện, giao thông và khai thác khoáng sản, dẫn đến diện tích rừng chuyển đổi lớn Theo quy định hiện hành, việc trồng bù rừng là bắt buộc để thay thế diện tích rừng đã chuyển đổi Tuy nhiên, đến năm 2013, tỷ lệ trồng bù rừng chỉ đạt khoảng 3,7% và hiện tại vẫn chưa có chế tài xử phạt cho những vi phạm này.

Bài viết nêu rõ những điểm mới trong công tác đấu tranh, ngăn chặn và xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến quản lý và bảo vệ rừng, nhằm đảm bảo sự phù hợp với Luật 2004, Bộ luật hình sự và Luật 2012.

Ngoài hình thức phạt tiền, cá nhân và tổ chức vi phạm còn phải chịu các biện pháp khắc phục hậu quả như bồi thường thiệt hại và nộp lại thu lợi bất chính từ hành vi vi phạm.

Bài viết bổ sung một số hành vi vi phạm hành chính mới, bao gồm xâm hại động vật rừng và các loài thủy sinh tại các khe suối, ao, hồ trong rừng Ngoài ra, việc khai thác trái phép gỗ rừng trồng có đường kính từ 6 cm trở lên và chiều dài từ 1 mét trở lên cũng được đưa vào danh sách vi phạm Thêm vào đó, khai thác và phá rừng trái phép đối với rừng quy hoạch mà chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng cũng là hành vi bị nghiêm cấm.

+ Đối với vận chuyển lâm sản trái phép thì phạt cả chủ phương tiện và người vận chuyển

Sửa đổi và bổ sung thẩm quyền xử phạt tiền cho các chức danh thuộc cơ quan Kiểm lâm, bao gồm Thanh tra, Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Công an, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường theo lĩnh vực quản lý, cùng với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp.

Nghị định số 157/2013/NĐ-CP quy định chi tiết về các dấu hiệu của từng hành vi vi phạm hành chính (VPHC), cách thức xử lý và các biện pháp cải chính, đảm bảo tính bao quát và toàn diện trong việc xử lý các hành vi vi phạm.

19 Tổng Cục Lâm nghiệp (2013), Bản tin Lâm nghiệp, ngày 25.12.2013

Trường hợp phát hiện vận chuyển than hầm, than hoa có nguồn gốc từ rừng tự nhiên sẽ bị xử phạt để hạn chế tình trạng chặt phá rừng và đốt than Ngoài ra, quy định xử phạt các sản phẩm chế biến từ gỗ có nguồn gốc không hợp pháp nhằm đảm bảo tính minh bạch về nguồn gốc gỗ trong kinh doanh lâm sản, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế về quản trị rừng và lâm sản.

Các quy định liên quan đến nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các Bộ ngành trong quá trình xử lý đều mang tính cần thiết và cấp bách.

Kể từ khi Nghị định này có hiệu lực, các quy định đã phản ánh chính xác tình hình vi phạm hành chính (VPHC) và xử lý VPHC, tạo sự yên tâm cho nhân dân trong việc phối hợp với các nhà chức trách bảo vệ rừng Các cơ quan quản lý đã có cơ sở vững chắc để thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội hiện tại và tương lai.

Các văn bản pháp luật hiện hành về quản lý và bảo vệ rừng đã cải thiện nhiều so với các quy định trước đây, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế và bất cập trong quá trình áp dụng Những vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết trong Chương II.

Thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng tại tỉnh Lâm Đồng

Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và giải pháp hoàn thiện

Các giải pháp chung góp phần hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và tại tỉnh Lâm Đồng

Ngày đăng: 31/07/2021, 15:28

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
8. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007, 2008) Khác
9. Nghị định số 14/CP năm 1992 của Chính phủ ban hành quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng Khác
10. Nghị định số 77/CP năm 1996 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
11. Nghị định số 17/2002/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 77/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
12. Nghị định số 134/2003/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 Khác
13. Nghị định số 139/2004/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
14. Nghị định số 23/2006/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 Khác
15. Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc quản lý thực vật, động vật rừng, nguy cấp, quý hiếm Khác
16. Nghị định số 159/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
17. Nghị định số 128/2008/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008 Khác
18. Nghị định số 99/2009/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
19. Nghị định số 117/2010/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức quản lý rừng đặc dụng Khác
20. Nghị định số 81/2013/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính Khác
21. Nghị định số 115/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính Khác
22. Nghị định số 157/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý, phát triển, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
23. Thông tư số 09/1997-TT-NN-KL hướng dẫn thực hiện Nghị định 77/CP của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
24. Thông tư số 63/2004/TT-BNN hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chỉnh phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
25. Thông tư 72/2004/TT-BTC hướng dẫn quản lý và xử lý tang vật, phương tiện tịch thu sung quỹ Nhà nước do vi phạm hành chính do Bộ Tài chính ban hành Khác
26. Thông tư số 28/2005/TT-BNN hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Khác
27. Thông tư số 04/2006/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 72/2004/TT- BTC ngày 15/7/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý và xử lý tang vật, phương tiện tịch thu sung công quỹ nhà nước do VPHC Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w