TỔNG QUAN
Tổng quan về loài Achyranthes aspera var indica
1.1 Vị trí phân loại và đặc điểm thực vật của chi Achyranthes
1.1.1 Vị trí phân loại của chi
Vị trí của chi Achyranthes trong hệ thống phân loại học [29] thực vật:
Phân lớp Cẩm Chướng: Caryophyllidae
1.1.2 Đặc điểm thực vật và phân bố của chi Achyranthes
Cỏ xước, nam ngưu tất – Achyranthes aspera L., thuộc họ Rau dền –
Cây thảo sống hằng năm hoặc hai năm, cao khoảng 1m, có rễ nhỏ, cong queo, dài từ 10 đến 15 cm và đường kính 2 đến 5 mm Lá cây mọc đối, với mép lượn sóng Hoa nở nhiều, tập trung thành bông dài từ 20 đến 30 cm ở ngọn cây Quả nang có lá bắc tồn tại dưới dạng gai nhọn, và hạt có hình trứng dài.
Chi Achyranthes có 3 loài A aspera, A bidentata, A longifolia [22][28] [29]
Loài Achyranthes aspera Linnaeus gồm 4 thứ [22]
Achyranthes aspera var argentea C B Clarke
Achyranthes aspera var indica Linnaeus
Achyranthes aspera var rubrofusca (Wight) J D Hooker
Achyranthes bidentata var japonica Miquel
Loài A bidentata và A aspera là những cây thuốc quý và quan trọng
4 Ở nước ta, chi Achyranthes có 2 loài: A aspera và A Bidentata [22] Hai thứ
Achyranthes bidentata BJ var bidentata và Achyranthes bidentata var longifolia Mak
Hình 1.1: Cỏ xước lá bạc (Achyranthes aspera var indica L)
Achyranthes aspera L (Cỏ xước, ngưu tất nam) là một loại cây thảo sống một năm, đôi khi có thể sống đến hai năm, với chiều cao gần 1m và có lông mềm ở thân Thân cây cứng và phình lên ở các mấu Lá cây mọc đối, có hình trứng hoặc mũi mác, nhẵn hoặc hơi có lông, với gốc thuôn và đầu tù hoặc nhọn, dài từ 3-12 cm, mép lá lượn sóng và cuống lá dài từ 0,5-1,5 cm.
Cụm hoa của cây mọc thành bông đơn ở ngọn thân, dài từ 20-30cm và có nhiều lông Lá con bắc có hình dáng giống gai, trong khi hoa mọc rủ sát vào cuống cụm hoa Đài hoa bao gồm 5 phiến hình mũi mác nhọn, với những phiến bên trong rất nhỏ Cây có 5 nhị, trong đó có nhị lép với tua viền ở đầu dài khoảng 2mm.
[24] bầu hình trụ, nhẵn khoảng 2mm [9]
Quả nang có lá bắc còn lại, nhọn thành gai dễ mắc quần áo khi đụng phải [8], vỏ rất mỏng, dính vào hạt, hạt hình trứng dài, dày 1mm [9]
Cây cỏ xước lá bạc có thể liên quan đến loài A aspera, với khả năng chứa các thành phần hóa học tương tự như ngưu tất và cỏ xước Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu tập trung vào loài A aspera, và thành phần hóa học của nó được tổng hợp trong bảng dưới đây.
Bảng 1.1: Thành phần hóa học của A aspera
Khung chung của Saponin từ 1-10 theo bảng 1.1
3 glu(4→1)glc(4→1)rha CH3 COOH H
5 glu(3→1)rha CH3 COO-glc H
6 glu(4→1)glu CH3 COO-glc H
7 glu(2→1)glc(4→1)rha CH3 COO-glc H
8 glu(4→1)rha CH3 COO-glc(3→1)glu H
9 glu(3→1)rha CH3 COO-glc OH
10 glu(2→1)glc CH3 COO-glc OH
Hình 1.2: CTCT của các chất có trong A aspera
1.3 Tác dụng dược lý của các loài thuộc A aspera
Cỏ xước là một loại thảo dược có tác dụng chữa trị nhiều bệnh lý như cảm mạo, sốt, phong thấp, tê mỏi, đau lưng, nhức xương, viêm khớp, cứng gối, và rối loạn kinh nguyệt Ngoài ra, nó còn giúp điều trị ứ huyết trong tử cung, hàn thấp, tình trạng chân tay co quắp, và các vấn đề về tiểu tiện như tiểu không lợi, đái dắt, đái buốt, cũng như sốt rét Cỏ xước còn được sử dụng để trục thai chết.
+ Dùng ngoài cỏ xước trị lở ngứa,viêm miệng [9]
+ Theo y học Trung Quốc cỏ xước được dùng điều trị nhức đầu, cảm nắng, sốt rét, sỏi niệu, viêm thận mạn tính [9]
+ Y học cổ truyền Ấn Độ lại dùng nước sắc cỏ xước làm thuốc lợi tiểu và trị xơ gan [9]
1.3.2 Theo các nghiên cứu trên thế giới, A aspera có những tác dụng dược lý như sau
1.3.2.1 Hoạt tính chống co giật
Dịch chiết methanol từ rễ cây A aspera có khả năng chống co giật bằng cách tăng cường dẫn truyền thần kinh hệ GABAergic trong não, được chứng minh qua mô hình chống co giật cấp tính ở chuột Ở liều 5 và 10 mg/kg thể trọng, dịch chiết A aspera làm tăng nồng độ GABA đáng kể ở đồi hải mã và vỏ não so với nhóm đối chứng Hơn nữa, dịch chiết này không cho thấy dấu hiệu độc tính cấp tính hay độc tính trên hệ thần kinh.
1.3.2.2 Tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm
Dịch chiết từ lá A aspera thu thập từ Ciaat, Eritrea và Ukulinga, Nam Phi đã được kiểm tra khả năng kháng khuẩn, kháng nấm và kháng giun Các thử nghiệm sử dụng hai chủng vi khuẩn Gram âm (Escherichia coli và Klebsiella pneumoniae), hai chủng Gram dương (Bacillus subtilis và Staphylococcus aureus), cùng một chủng nấm men (Candida albicans) Kết quả cho thấy dịch chiết nước và acetone có hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm và chống giun tốt (MIC < 1 mg/mL), trong khi dịch chiết nước có tác dụng kháng khuẩn trung bình đối với E coli Ngoài ra, dịch chiết từ rễ và thân của A aspera cũng cho thấy tác dụng trên Streptococcus mutans ở các nồng độ khác nhau.
Nghiên cứu về tác dụng lợi tiểu và độc tính cấp tính của dịch chiết nước A aspera được thực hiện trên mô hình chuột bạch tạng Trong thí nghiệm, chuột được chia thành năm nhóm với sáu con mỗi nhóm: nhóm kiểm soát nhận nước muối (10 mL/kg), nhóm chứng dương nhận furosemide (10 mg/kg), và ba nhóm thử nghiệm được cho uống dịch chiết A aspera với liều lượng 10, 30 và 50 mg/kg Sau 6 giờ, nước tiểu của chuột được thu thập và phân tích, cho thấy dịch chiết A aspera làm tăng lượng nước tiểu và nồng độ các chất điện giải, với tác dụng tỷ lệ thuận với liều lượng sử dụng.
1.3.2.4 Chống oxy hóa và bệnh tiểu đường
Dịch chiết ethanol từ A aspera đã được nghiên cứu và cho thấy tác dụng hạ đường huyết và chống oxy hóa ở liều 200 mg/kg và 400 mg/kg trên mô hình chuột Ngoài ra, dịch chiết này còn có khả năng ngăn chặn lipid peroxid hóa, được xác định qua phản ứng axit thiobarbituric (TBARS) và hydroperoxide Hơn nữa, A aspera làm tăng hoạt tính của catalase và giảm nồng độ NO trong bệnh tiểu đường do alloxan gây ra ở chuột.
Khả năng chữa lành vết thương của dịch chiết methanol từ A aspera đã được nghiên cứu trên mô hình chuột bạch tạng, bao gồm cả hai giới, qua thí nghiệm vết thương rạch và vết cắt mổ với sự gây mê bằng diethyl ether Kết quả cho thấy tỷ lệ co vết thương, hàm lượng DNA và quá trình biểu mô hóa ở nhóm chuột sử dụng dịch chiết tốt hơn rõ rệt so với nhóm chuột điều trị bằng thuốc mỡ đơn giản.
Dịch chiết methanol từ A aspera đã được nghiên cứu trên mô hạt của vết thương bỏng và tác dụng chống oxy hóa trên chuột Dịch chiết này được sử dụng để pha chế thuốc mỡ 5% (kl/kl), bôi tại chỗ hai lần mỗi ngày cho vết thương bỏng Kết quả cho thấy thuốc mỡ A aspera 5% có hiệu quả chữa lành vết thương đáng kể (p