Để làm nổi rõ hơn nữa sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự mưu trí, sáng tạo trong chỉ đạo tác chiến của ta trên chiến trường để từng bước đưa cu
Đấu tranh giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường giai đoạn 1946-1950 06
Chủ động đối phó với âm mưu của kẻ thù (1946-1947) 06
1.1.1 Phát động cuộc kháng chiến đúng lúc
Sau Cách mạng tháng 8/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời nhưng ngay lập tức phải đối mặt với nhiều kẻ thù dòm ngó, đặc biệt là thực dân Pháp, những người đã quay lại xâm lược Việt Nam lần hai từ ngày 23/9/1945 Trong bối cảnh này, Mỹ và các lực lượng Việt Quốc, Việt Cách cũng tham gia vào âm mưu lật đổ chính phủ cách mạng Mỗi kẻ thù có tham vọng riêng, nhưng chung mục đích là tiêu diệt chính quyền non trẻ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Thực dân Pháp, sau hơn 80 năm thống trị, không muốn mất đi cơ hội chiếm lại Việt Nam, đã lợi dụng khó khăn của quân Tưởng và ký kết đàm phán với đại diện quân đội này.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Tưởng hiệp ước Hoa- Pháp(28/ 02/1946) tại Trùng Khánh để được ra miền Bắc Việt Nam thế chân quân Tưởng
Sau khi ra Bắc thực dân Pháp đã lần lượt xoá bỏ các Hiệp định đã ký với
Hồ Chí Minh trong năm 1946
Hiệp định sơ bộ 06/03/1946 quy định hai bên ngừng bắn, nhưng Pháp đã vi phạm bằng cách tiếp tục hành quân ở miền Nam và đổ bộ quân lên Hải Phòng ở miền Bắc Họ đã trắng trợn xé bỏ Hiệp định, đặc biệt là Đăcgiăngliơ và những kẻ hiếu chiến đã xuyên tạc nội dung của Hiệp định, chỉ thi hành trong khuôn khổ một văn bản địa phương có hiệu lực từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc Điều này cho thấy Pháp coi lãnh thổ Việt Nam chỉ giới hạn ở phía Bắc vĩ tuyến 16 và muốn thu hẹp mối quan hệ Việt – Pháp thành một vấn đề nội bộ của nước Pháp.
Hiệp định quy định hai bên sẽ tiến hành đàm phán chính thức tại Pari, Sài Gòn hoặc Hà Nội, nhưng phía Pháp liên tục trì hoãn và không muốn đàm phán diễn ra tại Pari Với ý đồ xoá bỏ Hiệp định, Đăcgiăngliơ cố gắng thu hẹp vấn đề Việt Nam trong khuôn khổ nội bộ Đông Dương thuộc Pháp Do đó, viên Đô đốc đã chọn Đà Lạt làm địa điểm đàm phán, nơi mà Pháp dự định trở thành thủ đô của liên bang Đông Dương.
Hơn nữa, trong Hội nghị trù bị Đà Lạt, đặc biệt tại Hội nghị
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Pháp đã cố gắng ép Việt Nam chấp nhận các điều kiện của mình trong Hội nghị Phôngtennơblô, nhưng lập trường của Pháp vẫn giữ nguyên như trong Hội nghị trù bị Đà Lạt, phủ nhận độc lập và chủ quyền của Việt Nam, đồng thời cố tình chia cắt đất nước Ngày 01/06/1946, Đăcgiăngliơ đã thực hiện việc thành lập cái gọi là “Nước cộng hoà tự trị Nam Kỳ” với Nguyễn Văn Thinh làm thủ tướng Đến ngày 21/06, theo lệnh của Đăcgiăngliơ và Lơcơlec, quân Pháp đã tiến hành đánh chiếm Tây Nguyên Cuối cùng, Hội nghị Phôngtennơblô không đạt được kết quả do phía Pháp không thực tâm trong việc đàm phán.
“không có ý muốn làm cho cuộc đàm phán Phôngtennơblô có kết quả, thậm chí người ta lại có một ý chí ngược lại.”[13,15]
Hội nghị Phôngtennơblô không đạt được kết quả, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp ký với Mutê bản tạm ước 14/9 để kéo dài thời gian hòa bình Tuy nhiên, Pháp tiếp tục có hành động gây hấn tại nhiều địa phương như Hải Phòng, Lạng Sơn và thực hiện "kịch bản của cuộc đảo chính" Quân Pháp tăng cường chiếm đóng Đà Nẵng, Đình Lập và thực hiện nhiều vụ khiêu khích ở Hà Nội Ngày 18/12/1946, tướng Mooclie gửi cho ta hai tối hậu thư yêu cầu chiếm đóng Sở tài chính và phá bỏ các công sự, đồng thời yêu cầu quân Pháp giữ gìn trật tự tại Hà Nội Họ còn gửi tối hậu thư thứ ba kèm theo những lời đe dọa Đến thời điểm này, âm mưu xâm lược của Pháp đã rõ ràng, thể hiện quyết tâm tái áp đặt ách thống trị lên nhân dân Việt Nam, đi ngược lại thiện chí hòa bình của Chính phủ cách mạng Việt Nam.
1.1.1.2 Chủ trương của ta trong việc tìm kiếm hoà bình
Trong bối cảnh thực dân Pháp tiếp tục kích thích xung đột và làm suy yếu nội dung của Hiệp định sơ bộ và tạm ước, Chính phủ ta kiên quyết thực hiện các chủ trương nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và duy trì hòa bình.
Trong bối cảnh cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp, Chính phủ Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã áp dụng biện pháp ngoại giao “Dĩ bất biến ứng vạn biến” để đàm phán và ký Hiệp định sơ bộ 6/3, nhằm giành thời gian hoà hoãn Chính phủ cam kết nghiêm chỉnh thực hiện hiệp định và ra thông cáo kêu gọi nhân dân tránh xung đột với Pháp, đồng thời giải thích rõ cho viên chức tại các bộ và công sở về quyết định này.
Trước các hành động gây hấn và sự đổ bộ quân sự ồ ạt của Pháp vào các thành phố, Chính phủ Việt Nam đã quyết định theo đuổi chính sách đấu tranh hòa bình, kiên quyết không kích động bạo lực.
Sau ngày 6/3, Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều hoạt động ngoại giao khôn khéo, gửi công hàm yêu cầu Chính phủ Pháp nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Người đã tiếp xúc với các đại diện ôn hòa của Pháp tại Đông Dương như Xanhtơni, đồng thời cũng có những cuộc hội đàm với các nhân vật hiếu chiến như Đắcgiăngliơ ở Hạ Long, thể hiện sự linh hoạt trong đàm phán Hồ Chí Minh đồng ý tổ chức các cuộc đàm phán trù bị với Pháp ở Đà Lạt trước khi diễn ra hội nghị tại Pari.
Vào ngày 31/05/1946, Hồ Chí Minh, với tư cách là thượng khách của Pháp, đã lên đường sang Paris cùng phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị hai bên theo dự kiến từ Hiệp định sơ bộ ngày 06/03 Trong suốt Hội nghị, chúng ta kiên trì bảo vệ lập trường nhưng cũng biết nhân nhượng có nguyên tắc nhằm thúc đẩy tiến trình đàm phán.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Hội nghị không đạt kết quả, nguy cơ chiến tranh đang gia tăng khi Hồ Chủ tịch vắng mặt ở trong nước Với sự chủ động trong quan hệ đối ngoại, Người đã chọn con đường nhượng bộ thêm với Pháp và thể hiện thái độ hữu nghị với nhân dân Pháp Hồ Chủ tịch đã gặp gỡ Mutê và Biđôn, cuối cùng ký một bản tạm ước với 11 điều khoản nhằm tạo thêm cơ hội hòa bình cho đất nước và có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Việc ký Hiệp định sơ bộ vào ngày 06/03 và tạm ước vào ngày 14/09, cùng với các cuộc tiếp xúc và công hàm mà Hồ Chủ tịch gửi cho chính phủ Pháp, cho thấy Chính phủ ta đã có chủ trương đúng đắn trong việc tìm kiếm cơ hội hòa bình, sẵn sàng hy sinh về mặt không gian.
Thực dân Pháp đã phản bội chủ trương hòa bình của chúng ta, quyết tâm tiêu diệt chính phủ Hồ Chí Minh và cướp nước ta một lần nữa Khi cơ hội hòa bình không còn, nhân dân ta sẽ sẵn sàng đứng lên đấu tranh.
1.1.1.3 Phát động cuộc chiến tranh đúng lúc
Việc ký hiệp định sơ bộ ngày 06/03 và tạm ước ngày 14/09 thể hiện sự nhượng bộ tối đa của Nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, cho thấy chúng ta rất cần thời gian hòa hoãn và thể hiện thiện chí Tuy nhiên, thực dân Pháp đã phản bội lại những cam kết này Vào ngày 20/11/1946, Pháp đã gây ra xung đột ở Hải Phòng, tiếp theo là xung đột ở Lạng Sơn vào ngày 21/11 Không dừng lại ở đó, quân đội Pháp còn nổ súng và ném lựu đạn vào nhiều khu vực ở Hà Nội vào các ngày 15 và 16/12/1946 Ngày 17/12, họ phá hủy công sự của ta tại phố Lò Đúc, dẫn đến vụ tàn sát đẫm máu tại phố Hàng Bún và phố Yên Ninh Hồ Chủ tịch đã gửi nhiều công hàm và thư tới chính phủ Pháp nhằm tìm kiếm hòa bình.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học cho thấy rằng, mặc dù có sự hòa hoãn, phe hiếu chiến Pháp đã cố tình làm chậm việc giải mã các bức điện Đến ngày 20/12, khi chiến sự bùng nổ, các bức điện mới được giải mã.
Tiến tới giành thế chủ động chiến lược(1948-1950) 18
hoãn trận đánh quyết định là điều cần thiết, sử dụng những đơn vị vừa và nhỏ nhằm những nơi hiểm yếu mà tiêu diệt địch
Thắng lợi ở Việt Bắc thu đông 1947 là minh chứng cho sự chủ động của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp, thể hiện sự chỉ đạo đúng đắn và sáng suốt, chuyển thế chủ động từ tay địch sang tay ta Sự kiện này không chỉ là một chiến thắng vang dội trong hơn 30 năm kháng chiến, mà còn để lại cho địch một bài học đắt giá, khiến chúng không dám tiến công vào Việt Bắc, nơi được coi là não bộ của cuộc kháng chiến.
Trong hơn 2 năm (1946-1947), mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn và kẻ thù luôn rình rập, Đảng ta đã thể hiện sự độc lập và sáng tạo trong đường lối chỉ đạo Chính quyền non trẻ đã chủ động vượt qua thử thách, bảo vệ thành quả cách mạng và hoàn toàn đánh bại âm mưu của thực dân Pháp Thắng lợi trong giai đoạn đầu này không chỉ là kết quả của việc nắm bắt thời cơ mà còn thể hiện khả năng đối phó linh hoạt với mâu thuẫn của kẻ thù.
1.2 Tiến tới giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường(1948-1950) 1.2.1 Thực hiện chiến tranh du kích trên toàn quốc
Thất bại tại Việt Bắc là một trong những thất bại nghiêm trọng đầu tiên của quân đội Pháp, không chỉ gây tổn thất về người và tài nguyên mà còn cho thấy sự kém cỏi trong chiến lược và chiến thuật của họ Mục tiêu ban đầu của Pháp không những không đạt được mà còn dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực Kế hoạch bao vây và tiêu diệt đầu não kháng chiến của ta đã hoàn toàn thất bại.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học về người Việt cho thấy chiến tranh đã trở thành một vòng luẩn quẩn, khi mà những khó khăn tại chính quốc ngày càng gia tăng áp lực lên Chính phủ Pháp Nguy cơ thất bại ở Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam, ngày càng hiện rõ, trong khi quân dân ta ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Trước những khó khăn, Pháp không chỉ duy trì chiến tranh vì lòng tham mà còn muốn giảm thiểu tổn thất Họ đã điên cuồng thay đổi chiến thuật và kế hoạch, tăng cường hoạt động chống phá bằng cuộc chiến tranh tổng lực nhằm phá hoại mọi mặt, đồng thời ráo riết bắt lính để lập ngụy quân và xúc tiến thành lập Chính phủ bù nhìn Trung ương.
Vào tháng 9 năm 1949, chính phủ bù nhìn Bảo Đại được thành lập, đánh dấu sự khởi đầu của chính sách "chia để trị" Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1948, một loạt các xứ tự trị cho các dân tộc thiểu số ở miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên được thiết lập với chiêu bài "chống cộng" nhằm lôi kéo các tôn giáo và sử dụng lực lượng vũ trang giáo phái để chống lại kháng chiến Địch tăng cường hoạt động càn quét ở các vùng đã bình định, lập nên hệ thống tháp canh Đơlatua dày đặc ở Nam Bộ, áp dụng chiến thuật “cứ điếm nhỏ, đội quân ứng chiến nhỏ” không chỉ ở Nam Bộ mà còn ở Trung Bộ và Bắc Bộ Với khẩu hiệu “đốt sạch, phá sạch và giết sạch”, chúng không chỉ nhằm bình định và đối phó với chiến tranh du kích mà còn tấn công mạnh vào lực lượng hậu bị của kháng chiến.
Khoá then cửa được sử dụng để bao vây và chia cắt các chiến trường Hệ thống đồn bốt kết hợp với các hoạt động càn quét, lùng sục và tuần tra đã cắt đứt liên lạc giữa khu VII và khu VIII ở Nam Bộ, đồng thời chia cắt miền cực Nam Trung Bộ với vùng tự do khu V.
Năm 1949, Pháp đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc chiến tranh Đông Dương, với mâu thuẫn nội bộ giữa các phe cánh và sự phụ thuộc ngày càng tăng vào Mỹ Để đối phó, chính phủ Pháp đã chuyển sang chiến lược phòng ngự, kết hợp với kế hoạch Rơve nhằm bảo vệ Bắc Bộ - khu vực chiến lược quan trọng Kế hoạch này tập trung vào việc tăng quân số, mở rộng chiếm đóng ở trung du và đồng bằng, củng cố khu tứ giác Lạng Sơn - Tiên Yên - Hải Phòng - Hà Nội, và tăng cường phòng thủ biên giới Đồng thời, Pháp thực hiện chính sách "dùng người Việt trị người Việt" để đánh bại phong trào cách mạng.
Sau thất bại tại Việt Bắc, thực dân Pháp đã vội vàng thay đổi chiến thuật, nhưng những kế hoạch mà họ thiết lập ở Đông Dương chỉ chứng tỏ sự suy yếu của họ.
1.2.1.2 Chủ trương của ta của ta trong 1948-1949
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Chiến dịch Việt Bắc 1947 đánh dấu thắng lợi đầu tiên sau toàn quốc kháng chiến, giúp Đảng và Chính phủ trưởng thành hơn Thành công này đã buộc Pháp phải điều chỉnh chiến lược Để đối phó với âm mưu mới của Pháp, ta đã triển khai chiến tranh du kích trên toàn quốc, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta Quân và dân ta đã thực hiện cuộc đấu tranh rộng lớn ở vùng sau lưng địch, đồng thời chiến đấu trên mọi lĩnh vực với chiến lược toàn dân kháng chiến Năm 1948, ta tiến hành phản công chiến lược quy mô lớn, tấn công toàn bộ quân viễn chinh và bộ máy tay sai của Pháp trên khắp Việt Nam.
Vào đầu năm 1948, các đại đội độc lập đã nhanh chóng triển khai lực lượng trở lại các vùng tạm chiến của địch nhằm khôi phục phong trào đấu tranh chống kẻ thù xâm lược Đường số 5 từ Hà Nội đến Hải Phòng được xác định là một chiến trường quan trọng, là mạch máu không thể bị chia cắt, do đó, ta đã mở mặt trận đường 5 Đây trở thành “con đường khủng khiếp” đối với kẻ thù, với mặt trận đường 5 được coi là “mặt trận điển hình thứ nhất đánh vào địch hậu, vùng biển và miền đồng bằng.”
Trên chiến trường Bình- Trị –Thiên: Chúng ta đã đánh sâu vào sau lưng địch phát động chiến tranh du kích
Trên chiến trường khu 5 và cực Nam Trung Bộ, phương thức "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" cùng với các tổ vũ trang công tác đã được triển khai hiệu quả.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học cho thấy rõ ràng sự phát triển của chiến tranh du kích trên toàn quốc, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác vận động binh lính địch trong bối cảnh này.
Trên khắp cả nước, làng chiến đấu và ấp chiến đấu đã hình thành, với mỗi làng như một pháo đài và mỗi người dân trở thành chiến sĩ Quân dân ở các làng, ấp đã được huấn luyện theo nhiều phương án chiến đấu, thể hiện tinh thần bất khuất chống lại ngoại xâm và thách thức kẻ thù xâm lược Làng chiến đấu trở thành những pháo đài kiên cố của chiến tranh nhân dân tại địa phương.
Việc đưa chiến tranh vào vùng sau lưng địch đã giúp ta tiến công trên tất cả các vị trí từ Bắc vào Nam, buộc địch phải luôn đối phó Đây là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo trong lãnh đạo tác chiến của ta Chỉ sau một năm từ khi toàn quốc kháng chiến, lực lượng vũ trang đã cùng toàn dân mở cuộc phản công chiến lược “mềm” nhằm vào sào huyệt của địch Chúng ta đã “biến hậu phương địch thành tiền phương ta”, khiến địch phải chuyển cuộc tiến công vào chủ lực ta thành những cuộc càn quét không hiệu quả Mặt trận này cho phép ta đánh vào chính sách của thực dân Pháp, tạo ra thành công lớn nhất trong giai đoạn 1948-1949, đưa cuộc kháng chiến vững vàng bước sang giai đoạn mới.
Sự chủ động chiến lược trên chiến trường của ta trong
Phát huy thế chủ động trong Đông Xuân 1953-1954 45
2.2.1 Tình hình và âm mưu của địch
Chiến thắng của ta trong chiến dịch Tây Bắc và Thượng Lào vào đông xuân 1952-1953 đã khiến Pháp lâm vào tình thế khó khăn, buộc họ phải tìm kiếm một thắng lợi quân sự để bảo vệ danh dự Pháp đã mất kiểm soát ở nhiều vùng đất từng là hậu phương vững chắc, chỉ còn chiếm giữ một phần nhỏ các thành phố và tuyến giao thông quan trọng Sau 8 năm xâm lược, Pháp đã tiêu tốn 2130 tỷ phơrăng và gây thiệt hại lớn về nhân lực Tình hình này đã làm gia tăng làn sóng phản đối chiến tranh Đông Dương tại Pháp, với nhiều người trong Chính phủ yêu cầu chấm dứt xung đột Tuy nhiên, những kẻ hiếu chiến vẫn chiếm ưu thế và dồn toàn bộ sức lực vào cuộc chiến.
Trong bối cảnh khó khăn của cuộc chiến tranh Đông Dương, Chính phủ Lanien đã buộc phải giảm ngân sách chiến phí từ 369 tỷ phơrăng xuống còn 320 tỷ phơrăng trong năm 1953 Để duy trì cuộc chiến, Pháp phải dựa vào sự hỗ trợ tài chính từ Mỹ, với 270 tỷ phơrăng chiếm 46% tổng chi phí theo dự toán mới Trước tình hình này, Pháp đã quyết định thay đổi chỉ huy quân đội, bổ nhiệm Hăngri Nava làm Tổng chỉ huy thay thế Xalăng.
Vào ngày 19/5/1953, tướng Nava đã đến Sài Gòn để khảo sát tình hình và trở lại Paris vào ngày 3/7/1953 Chỉ sau hơn một tháng nghiên cứu, ông đã đề ra kế hoạch chiến lược trình bày trước Hội đồng tham mưu trưởng và Hội đồng tối cao Pháp Đây là lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương, một tổng chỉ huy có kế hoạch quân sự rõ ràng nhằm giành chiến thắng trong vòng hai năm.
Kế hoạch của Nava dự kiến chia làm hai bước:
Phòng ngự chiến lược tại Bắc vĩ tuyến 18 nhằm tránh tổng giao chiến với đối phương, đồng thời ngăn chặn sự tiến công vào đồng bằng Bắc Bộ Mục tiêu là cản trở các hoạt động càn quét và bình định của đối phương, giữ vững vùng đồng bằng quan trọng và ngăn chặn sự tấn công vào Thượng Lào Bên cạnh đó, cần thực hiện các chiến dịch tiến công chiến lược tại miền Nam và xây dựng khối dự bị chiến lược mạnh mẽ, chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo.
Bước 2: Từ mùa khô 1954 trở đi:
Tiến công chiến lược ở phía bắc Đèo ngang, tạo nên một hình thái quân sự cho phép đi đến một giải pháp chính trị có danh dự
Biện pháp thực hiện kế hoạch tăng cường phát triển quân ngụy quy mô
Khóa luận tốt nghiệp Đại học về hoạt động biệt kích nhằm quấy rối và phá hoại hậu phương của đối phương, đồng thời mở rộng quyền lực cho quân đội ba nước Đông Dương Mục tiêu là dễ dàng kêu gọi sự hỗ trợ từ Mỹ và khuyến khích người dân bản địa tham gia tích cực vào cuộc chiến tranh.
Kế hoạch và biện pháp thực hiện được đề ra cho thấy đây là một kế hoạch hoàn hảo, tiếp tục chính sách "dùng người Việt, trị người Việt" và "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" Ngoại trưởng Mỹ Đalet khẳng định rằng kế hoạch Nava trong hai năm tới sẽ đạt được ít nhất một số kết quả quân sự Tổng thống Lanien cũng nhấn mạnh rằng kế hoạch Nava nhận được sự ủng hộ từ chính phủ Pháp và bạn bè Mỹ, mang lại hy vọng cho nhiều điều.
2.2.2 Chủ trương và các đòn tiến công chiến lược của ta trong đông xuân
Vào tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp để thảo luận về nhiệm vụ quân sự trong Đông Xuân 1953-1954 Dựa trên tình hình địch trên chiến trường và âm mưu của họ, Tổng quân ủy đã quyết định không tấn công vào đồng bằng ngay, mà thay vào đó, cần phá vỡ kế hoạch tập trung binh lực của địch để tạo điều kiện cho các cuộc tác chiến lớn hơn Chiến lược là chủ động thực hiện các cuộc tiến công vào những điểm yếu của địch, buộc họ phải phân tán lực lượng và tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích Bộ Chính trị đã đề ra phương châm tác chiến chung là “Tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt”, từ đó xây dựng kế hoạch tác chiến cụ thể cho cả hai chiến trường Miền Bắc và Miền Nam.
Trên chiến trường Miền Bắc :
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Sử dụng lực lượng chủ yếu để tiến công về hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch đang chiếm đóng tại Lai Châu, nhằm giải phóng hoàn toàn khu vực Tây Bắc.
Phối hợp với quân giải phóng Pa-Thét Lào mở những hướng tiến công vào hướng Trung Lào, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng
Chúng ta bố trí lực lượng chủ lực tại vị trí cơ động, sẵn sàng ứng phó với tình hình Nếu địch tăng cường lực lượng lên Tây Bắc, ta sẽ điều động thêm chủ lực để tiêu diệt Khi địch tấn công vào căn cứ địa Việt Bắc, ta sẽ dụ địch vào thế trận đã chuẩn bị sẵn và sử dụng lực lượng chủ lực để tiêu diệt Tại đồng bằng, ta sẽ đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố và phát triển các căn cứ du kích, đồng thời phối hợp với các cuộc tiến công.
Trên chiến trường Miền Nam :
Liên khu 5 đã tập trung lực lượng chủ chốt để tiến công vào chiến trường miền núi Tây Nguyên, nhằm tiêu diệt một phần sinh lực địch, giải phóng đất đai và chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm phạm vùng tự do Tại Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, chiến tranh du kích được đẩy mạnh, tận dụng sự phân tán lực lượng của địch để thực hiện các hoạt động đánh nhỏ, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch Nhân dân và bộ đội ở vùng tự do quân khu IV cũng tích cực chuẩn bị để ứng phó với khả năng tiến công của địch.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Hướng chính được xác định là Tây Bắc, nhưng trong quá trình hoạt động có thể thay đổi, phép dùng binh phải “thiên biến vạn hoá”
Dựa trên chủ trương và kế hoạch tác chiến, Bộ tổng tham mưu đã xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc sử dụng lực lượng chủ lực và phối hợp tác chiến trên các chiến trường Đại đoàn 318 sẽ tiến công địch tại Lai Châu và thực hiện chiến dịch giải phóng Phong Xa Lỳ.
Trung đoàn 101 đã được tăng cường bởi tiểu đoàn 274 thuộc trung đoàn 18 của đại đoàn 325 và trung đoàn 66 của đại đoàn 301 để tiến công vào Trung Lào, đồng thời một bộ phận cũng tiến xuống hạ Lào Việc đề ra kế hoạch tác chiến này từ Trung ương Đảng khẳng định rằng chúng ta không bị động trong chiến lược quân sự.
Sau thắng lợi mùa hè, thu năm 1953, ta bước vào Đông Xuân với nhiều thuận lợi Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tổng quân uỷ, ta đã tiến hành các cuộc tấn công vào các mục tiêu đã chọn, nhằm phân tán lực lượng địch và phá vỡ kế hoạch tập trung quân của chúng.
Vào Đông Xuân 1953-1954, trên chiến trường Đông Dương, Pháp triển khai 84 tiểu đoàn cơ động, trong đó có 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ, nhằm bảo vệ khu vực này và chuẩn bị cho cuộc tấn công quyết định Để đối phó với kế hoạch của địch, vào ngày 15/11/1953, đại đoàn 316 đã di chuyển lên miền Tây Bắc, gây bất ngờ cho quân Pháp, vì họ dự đoán rằng cuộc tấn công của ta sẽ diễn ra ở đồng bằng Bắc Bộ Đây được coi là một thắng lợi bước đầu quan trọng của ta trong cuộc kháng chiến.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Vùng Tây Bắc có vị trí chiến lược quan trọng, việc mất Tây Bắc sẽ gây nguy hiểm lớn cho Bắc Đông Dương, đặc biệt trong việc bảo vệ Thượng Lào với kinh đô Luông Pha Băng Do đó, Tây Bắc không thể rơi vào tay Việt Minh, và Nava đã quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm tập trung lực lượng, đưa 6 tiểu đoàn lên đây để thực hiện cuộc hành binh Ca-xto vào ngày 20/11/1953 Cuộc hành binh này diễn ra tương đối suôn sẻ, gây bất ngờ cho trung đoàn 147 của ta đang có mặt tại đây, khiến Nava và Cônhi tin rằng quân Pháp đã nắm được thế chủ động Tuy nhiên, thực tế là khi Pháp đưa quân lên Điện Biên Phủ, chúng ta cũng đang lên kế hoạch tấn công địch.
Chủ động đánh tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 55
2.3.1: Tình hình địch sau Đông Xuân 1953- 1954
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 bắt đầu bằng chiến dịch Tây Bắc, buộc địch phải phân tán lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ để điều quân lên Điện Biên Phủ Đây không nằm trong kế hoạch Nava ban đầu, nhưng đã trở thành trung tâm của kế hoạch, nơi diễn ra trận chiến quyết định giữa ta và Pháp.
Sau Đông Xuân, tình hình chiến trường ở cả mặt trận chính và vùng phụ cận đã gây ra nhiều bất lợi cho Pháp Kế hoạch tập trung quân của họ hoàn toàn thất bại, chỉ còn hơn 20/44 tiểu đoàn cơ động tại đồng bằng Bắc Bộ, trong khi lực lượng này bị giam chân để đối phó với ta ở bốn địa điểm khác Sự phân tán và mỏng manh của lực lượng địch làm tăng nguy cơ cho ta tấn công bất cứ lúc nào Pháp rơi vào thế bí, không thể tiến lùi, trong bối cảnh phong trào phản chiến ngày càng gia tăng, đặc biệt sau các cuộc điều binh đối phó với ta.
Nhiều lãnh đạo Pháp đã mất niềm tin vào sự thành công của kế hoạch Nava trong bối cảnh khoá luận tốt nghiệp Đại học.
Trong bối cảnh khó khăn, Pháp đã tìm đến sự hỗ trợ từ Mỹ Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều trong giới lãnh đạo Mỹ về việc có nên giúp đỡ Pháp hay không, nhưng cuối cùng, sự tham vọng và lo ngại về việc Đông Dương rơi vào tay cộng sản Nga đã thúc đẩy Mỹ quyết định dốc sức chi viện cho Pháp.
Trong thời kỳ cao điểm, Mỹ đã chịu trách nhiệm tới 73% tổng chi phí tại Đông Dương, thông qua việc vận chuyển vũ khí, đạn dược và máy bay Điều này đã tạo điều kiện cho tướng Nava đầu tư xây dựng Điện Biên Phủ, trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Nam Á.
Sau khi đổ bộ Ca-xto xuống Điện Biên Phủ và lần đổ bộ thứ hai, tướng Nava đã xây dựng một cứ điểm kiên cố để bảo vệ Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam, coi đây là "cái cối xay thịt sẵn sàng nghiền nát bộ đội Việt Minh" Đường giao thông và sân bay được sửa chữa, cùng với việc tăng cường xây dựng công sự và đưa các tiểu đoàn dù, súng, đạn, xe tăng, pháo lên đây Tập đoàn cứ điểm được hình thành với ba phân khu: phân khu bắc, phân khu trung tâm và phân khu phía nam, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đờcát Tơri, người được Nava và Cônhi tin tưởng.
Ngay từ đầu, Bộ Chỉ huy Pháp đã không xem căn cứ bộ binh, không quân Điện Biên Phủ chỉ là một điểm ngăn chặn đơn thuần Thay vào đó, quân Pháp đã chủ động triển khai các hoạt động phòng ngự, không chờ đợi sự tấn công từ phía ta Chỉ sau 10 ngày nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Pháp đã bắt đầu cho quân đồn trú tại đây.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học đã nêu rõ những chiến dịch thâm nhập sâu vào lãnh thổ đối phương, thiết lập liên lạc với các đơn vị biệt kích tại Tây Bắc và tổ chức các hoạt động quấy rối hiệu quả.
Cuối tháng hai, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã sẵn sàng cho trận đánh quyết định, trở thành một công sự khổng lồ Cảnh quan nơi đây đã chuyển từ màu xanh của cây cối và đồng lúa sang sắc đỏ sậm của đất và dây thép gai, với nhiều hầm hào và ụ súng chuẩn bị chiến đấu Điện Biên Phủ, được ví như "con nhím khổng lồ" giữa núi rừng Tây Bắc, đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tất cả những ai đến thăm, khiến họ không khỏi kinh ngạc trước sức mạnh của nó.
“pháo đài không thể công phá” sẽ là “điểm hẹn mà lịch sử giành cho những cuộc chiến tranh xâm lược trong thời đại ngày nay” [10,5]
2.3.2 Chủ trương, cuộc quyết chiến chiến lược của ta tại Điện Biên Phủ
Vào ngày 20/11/1953, cuộc nhảy dù và sự tăng viện cho Điện Biên Phủ của tướng Nava, cùng với tuyên bố chấp nhận chiến đấu tại đây của Y vào ngày 3/12/1953, đã biến Điện Biên Phủ thành điểm quyết định cho số phận của Pháp trong cuộc chiến.
Cùng với sự chấp nhận của Nava, về phía ta vào hạ tuần tháng 12/1953
Bộ Chính trị đã quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954, tiến công địch theo các hướng đã định trong kế hoạch Đồng thời, các quân đoàn chủ lực được điều động lên đây để chuẩn bị cho cuộc giao chiến quan trọng.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Theo kế hoạch ban đầu, phương châm tác chiến là “đánh nhanh giải quyết nhanh” với mục tiêu tấn công vào trung tâm tập đoàn cứ điểm từ ngày 25/1/1954 Tuy nhiên, khi thời gian trôi qua, chúng ta nhận thấy địch đã củng cố công sự phòng ngự tại Điện Biên Phủ, khiến trận địa không còn là dã chiến Bộ đội sẽ phải tiến hành một trận công kiên vào một tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc, điều này cho thấy “đánh nhanh thắng nhanh” không còn chắc chắn đạt được thắng lợi Do đó, Bộ tổng chỉ huy đã quyết định dừng tấn công Điện Biên Phủ và chuyển sang phương châm “đánh chắc tiến chắc”, nhưng vẫn sẵn sàng thực hiện “đánh nhanh giải quyết nhanh” khi có thời cơ, đảm bảo chắc thắng trong mọi tình huống.
Vào ngày 7/2/1954, tại Mường Phăng, bộ chỉ huy chiến dịch đã tổ chức Hội nghị để bàn về kế hoạch tác chiến mới, sau khi phân tích những điểm mạnh và yếu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ Mặc dù được trang bị hiện đại và kiên cố, hệ thống phòng ngự của địch lại thể hiện sự cứng nhắc và thụ động, tạo ra tính cô lập Với phương châm “đánh chắc tiến chắc”, Bộ chỉ huy quyết định xây dựng trận địa bao vây, chia cắt quân địch và đưa pháo vào vị trí an toàn để khống chế sân bay Kế hoạch bao gồm việc tiêu diệt từng trung tâm đề kháng, bắt đầu từ phân khu bắc, nhằm cắt đứt sân bay và siết chặt sức mạnh của “con nhím Điện Biên Phủ”, từ đó biến ưu thế về vũ khí kỹ thuật của địch thành bất lợi trên chiến trường.
Trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp, chúng ta cần phân tích kỹ lưỡng từng trận đánh để đạt được thắng lợi Bằng cách này, chúng ta có thể khai thác sâu vào những điểm yếu và hạn chế của đối phương, đồng thời giảm thiểu các nhược điểm của chính mình.
Chiến dịch Điện Biên Phủ dự kiến có thể phát triển qua ba bước
Bước đầu tiên là hoàn tất mọi công tác chuẩn bị, bao gồm việc xây dựng đường dẫn vào trận địa pháo vững chắc, thiết lập trận địa bao vây và tiến công, cùng với việc chuẩn bị hậu cần cho chiến dịch Điều quan trọng là phải đảm bảo xây dựng trận địa pháo đúng tiêu chuẩn và kịp thời.