1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quan hệ đối ngoại nga mĩ từ năm 2000 đến nay

60 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quan Hệ Đối Ngoại Nga - Mỹ Từ Năm 2000 Đến Nay
Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 482,28 KB

Cấu trúc

  • A. DẪN LUẬN (2)
    • I. Lý do chọn đề tài (2)
    • II. Lịch sử vấn đề (3)
    • III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài (5)
    • IV. Phương pháp nghiên cứu (5)
    • V. Bố cục của đề tài (5)
  • B. NỘI DUNG (7)
  • Chương 1. Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga- mỹ trong những năm 1992 - 1999 (0)
    • 1.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống B.Enxin (1992- 1999) (5)
    • 1.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm (16)
    • 1.4. Tổng quan về mối quan hệ Nga – Mỹ trong những năm 1992-1999 (20)
  • Chương 2. Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001 (6)
    • 2.1. Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga - Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001 (6)
    • 2.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001 (6)
    • 2.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001 (6)
    • 2.4. Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001 (6)
  • Chương 3. Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay(12/03) (40)
    • 3.1. Sự kiện 11/09/2001 và ảnh hưởng của nó đối với mối quan hệ đối ngoại Nga- Mỹ (40)
    • 3.2. Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau sự kiện11/09/2001 đến nay(12/03) (6)
    • 3.3. Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay(12/03) (6)
    • 3.4. Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga- Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay(12/03) (6)
    • C. KẾT LUẬN (56)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (58)

Nội dung

DẪN LUẬN

Lý do chọn đề tài

Ngày 26 tháng 03 năm 2000, Vlađimia Vlađimirôvich Putin trúng cử Tổng thống Liên bang Nga Ngày 31 tháng 12 năm 2000 GorgeoW Bush chính thức được công nhận là người thắng cuộc trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, trở thành Tổng thống thứ 43 của Hợp chủng quốc Hoa kỳ Nhiều người thấy rằng, trong khi ông Bush (con ) đã ''nổi đình nổi đám'' trên vũ đài chính trị thế giới thì ông V.Putin vẫn ''Im hơi lặng tiếng''

Vào đầu thế kỷ mới, hai quốc gia và hai Tổng thống đã chọn những con đường phát triển trái ngược nhau Trong khi Tổng thống V Putin tìm kiếm một hướng đi hòa bình và phát triển cho nước Nga, Tổng thống G Bush lại kêu gọi chiến tranh và tìm kiếm những mối đe dọa tưởng tượng đối với Mỹ Điều này dẫn đến việc ông Bush gặp khó khăn trong việc đối phó với các cuộc biểu tình phản đối chính sách đối ngoại của mình, trong khi ông Putin nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân Nga và thế giới, những người theo dõi sự phát triển của đất nước này với niềm tin yêu.

Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, từng là đối thủ trong Chiến tranh Lạnh và sau đó trở thành "đồng minh không bình đẳng" trong những năm 90, hiện đang đối mặt với nhiều thách thức trong mối quan hệ của họ Câu hỏi đặt ra là ông V Putin và ông G Bush sẽ làm gì để duy trì mối quan hệ này khi lợi ích của hai quốc gia không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập? Nghiên cứu này nhằm làm rõ rằng "sự yên ấm" trong quan hệ giữa các cường quốc là yếu tố quyết định cho sự phát triển hòa bình giữa các quốc gia Do đó, chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ, với vai trò là những cường quốc toàn cầu, sẽ ảnh hưởng lớn đến tình hình hòa bình thế giới.

Lịch sử vấn đề

Mối quan hệ giữa Nga và Mỹ đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, cả trong và ngoài hai nước, với nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh khác nhau của mối quan hệ này.

Cuốn sách "Quan hệ Nga - Mỹ vừa là đối tác-vừa là đối thủ" do Nguyễn Văn Lập chủ biên, xuất bản năm 2000 bởi Nhà xuất bản Thông tấn Hà Nội, chủ yếu phân tích các chiến lược của Nga và Mỹ trong mối quan hệ hợp tác sau sự kiện 11/09/2001.

Cuốn sách "Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh, phân tích và dự báo" Tập I, được xuất bản bởi Viện Thông tin Khoa học xã hội - Chuyên đề Hà Nội năm 2001, phân tích những biến động trong tình hình thế giới sau Chiến tranh lạnh Tác phẩm tập trung vào việc nghiên cứu vị thế địa - chính trị của các cường quốc và các xu hướng hình thành các trật tự thế giới mới, bao gồm đa cực và đơn cực.

Cuốn sách ''Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI (Ai là đồng minh của Nga)'' của tác giả Vadim Makarenco, được dịch bởi Ngô Thuỷ Hương, Đinh Phương Thuỳ và Lê Văn Thắng, xuất bản bởi NXB Công An Nhân Dân Hà Nội năm 2000, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của Liên bang Nga trong tương lai Tác phẩm cũng khám phá các mối quan hệ chiến lược của Nga trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế và chính trị toàn cầu.

Cuốn sách "Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh" do Randal B Ripley và James M Lindsay chủ biên, được dịch bởi Trần Văn Tuỵ, Lê Thị Hồng, Lê Tú Anh và xuất bản bởi NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2002, phân tích sự thay đổi trong chiến lược lãnh đạo của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh Tác phẩm nhấn mạnh yêu cầu và sự cần thiết phải đổi mới tư duy đối ngoại để thích ứng với bối cảnh quốc tế mới.

Cuốn sách "Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI" do Nguyễn Thiết Sơn biên soạn, xuất bản bởi NXB Khoa học xã hội Hà Nội năm 2002, tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ Tác phẩm nêu rõ quan điểm nhất quán trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đó là luôn nỗ lực khẳng định và duy trì vị thế lãnh đạo toàn cầu.

Mặc dù có nhiều nghiên cứu đã đề cập đến các khía cạnh của mối quan hệ Nga - Mỹ, từ những quan điểm hòa hợp đến đối kháng, nhưng vẫn chưa có công trình chuyên khảo nào phân tích một cách đầy đủ và sâu sắc về "Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến nay".

Ngoài ra, nhiều công trình nghiên cứu cũng được đăng tải trên các tạp chí như Cộng Sản, Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên cứu châu Âu và Thông tin lý luận, tuy nhiên, những tài liệu này chủ yếu chỉ mang tính chất tham khảo.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu quan hệ đối ngoại giữa Nga và Mỹ từ năm 2000 đến nay nhằm phác thảo những diễn biến chính trong mối quan hệ này trong bối cảnh thế giới đang thay đổi sau Chiến tranh Lạnh Bài viết sẽ phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tương tác giữa hai cường quốc, từ chính trị, kinh tế đến an ninh, đồng thời làm rõ những thách thức và cơ hội trong quan hệ Nga - Mỹ trong giai đoạn hiện tại.

Bài viết này nghiên cứu mối quan hệ Nga - Mỹ trong giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh từ năm 1992 đến 1999, đồng thời phân tích sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ năm 2000 đến nay.

Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, chúng tôi áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên cứu khoa học Chúng tôi kết hợp phương pháp lịch sử và logic cùng với phân tích, tổng hợp và so sánh để làm rõ vấn đề nghiên cứu.

Bố cục của đề tài

Khóa luận bao gồm ba chương:

Chương 1 Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại Nga-

1.1 Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại Nga- Mỹ trong những năm 1992-1999

1.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống B.Enxin (1992- 1999)

1.3 Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ những năm 1992-

1.4 Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ trong những năm 1992- 1999

Chương 2 Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.1 Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga- Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ năm

2.3.Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.4 Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

Chương 3 Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.1 Sự kiện 11/09 và tác động của nó đến quan hệ đối ngoại Nga Mỹ

3.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.3 Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.4.Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ sau sự kiện

Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga- mỹ trong những năm 1992 - 1999

Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống B.Enxin (1992- 1999)

1.3 Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ những năm 1992-

1.4 Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ trong những năm 1992- 1999

Chương 2 Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.1 Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Nga- Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ năm

2.3.Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.4 Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

Chương 3 Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.1 Sự kiện 11/09 và tác động của nó đến quan hệ đối ngoại Nga Mỹ

3.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.3 Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.4.Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ sau sự kiện

CHƯƠNG 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI QUAN HỆ NGA - MỸ TRONG NHỮNG NĂM 1992 - 1999

1.1 Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ trong những năm 1992 - 1999

Quyết định ngày 05/04/1989 của Chính phủ đối lập ở Ba Lan về cải cách thể chế được coi là sự kiện khởi đầu cho quá trình kết thúc Chiến tranh Lạnh Ngày 18/06/1989, Công đoàn Đoàn kết giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử Quốc hội, và ngày 24/08/1989, T Mazoveski trở thành thủ tướng Chính phủ Ba Lan không cộng sản Sự kiện quan trọng tiếp theo là sự sụp đổ của bức tường Berlin vào ngày 09/10/1989, và cuộc biểu tình ở Praha vào ngày 17/10/1989 đã dẫn đến việc lật đổ chế độ hiện hành Ngày 18/10/1989, Hungari không còn tự gọi mình là nước Cộng hoà Nhân dân, và ngày 22/12/1989, Seausecscu ở Rumani bị lật đổ Cuộc chiến tranh phân liệt ở Liên bang Nam Tư nổ ra vào ngày 27/06/1991, và Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể vào ngày 28/06/1991, cùng với việc xóa bỏ Hiệp ước Warszawa vào ngày 01/07/1991 Cuối cùng, sự kiện ngày 19 tháng 08 năm 1991 đánh dấu sự phân rã của Liên Xô sau hơn 70 năm tồn tại.

Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, dẫn đến sự suy yếu tương đối của Mỹ Đồng thời, Tây Âu, Nhật Bản và Trung Quốc trỗi dậy, trong khi các nước thế giới thứ ba trải qua sự phân hóa Những biến động này đã tác động mạnh mẽ đến tầm nhìn chiến lược của các quốc gia, chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác.

"toàn cầu hoá", theo nghĩa là một tiến trình phát triển mới về chất của nhân loại

Toàn cầu hoá là xu hướng phát triển lịch sử không thể tránh khỏi, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực xã hội như kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, cũng như các hoạt động xã hội và môi trường.

Mô hình hai cực trong hệ thống Quan hệ quốc tế đã bị phá vỡ, dẫn đến việc Mỹ mất đi một đối trọng và đối thủ mạnh trên trường quốc tế.

Mỹ đang đứng trước cơ hội để thiết lập một trật tự thế giới đơn cực do mình lãnh đạo, với niềm tin vào sức mạnh tổng hợp của mình trong các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và ngoại giao Tuy nhiên, âm mưu này gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều quốc gia và thậm chí từ một bộ phận dân chúng Mỹ Hơn nữa, Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trên thế giới, do đó, sự phát triển của Mỹ cũng phải chịu ảnh hưởng từ các mối quan hệ quốc tế và sự vận động chung của toàn cầu.

Trái với mục tiêu xây dựng trật tự thế giới đơn cực của Mỹ, một số quốc gia lớn đang nỗ lực thiết lập một hệ thống quan hệ quốc tế đa cực, trong đó có nhiều trung tâm sức mạnh tương tác lẫn nhau.

Sau Chiến tranh lạnh, cục diện thế giới đang chuyển sang tính chất đa cực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế Sự đa cực này thể hiện rõ nét trong quan hệ giữa các cường quốc, với sự gia tăng tầm ảnh hưởng của các trung tâm quyền lực khác ngoài Mỹ Các cường quốc mới nổi từ nhiều khu vực đang ngày càng khẳng định vị thế của mình, như các đồng minh trong NATO và G7, cũng như các "Đối tác chiến lược" như Liên bang Nga và Trung Quốc, họ không còn cam chịu vai trò "Đối tác lép vế" mà đang thể hiện sự độc lập trong quan hệ với Mỹ.

Trong bối cảnh hệ thống quan hệ quốc tế đang biến đổi phức tạp sau Chiến tranh Lạnh, quan hệ giữa Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nổi bật với những đặc thù riêng, khác biệt so với mối quan hệ của Nga và Mỹ với các quốc gia khác trên thế giới Những điểm khác biệt này tạo nên một bức tranh đa dạng và phức tạp trong tương tác giữa hai cường quốc.

Dù tiếp nối quan hệ Xô- Mỹ trước đây song quan hệ Nga- Mỹ khác về chất so với quan hệ Xô- Mỹ

Quan hệ Nga - Mỹ hiện nay không còn bị chi phối bởi ý thức hệ như quan hệ Xô - Mỹ trước đây, mà là mối quan hệ giữa hai cường quốc trong một hệ thống quốc tế đã thay đổi sâu sắc Cả hai quốc gia đều thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hóa và đa phương hóa dựa trên lợi ích chung Mặc dù Mỹ vẫn xác định có lợi ích toàn cầu, lãnh đạo Nga cho rằng lợi ích của nước này hiện tại không mang tính toàn cầu như thời kỳ Liên Xô.

Trên "Bàn cờ chính trị thế giới", mối quan hệ giữa Nga và Mỹ không chỉ thể hiện sự tương tác lẫn nhau mà còn cho thấy sự thay đổi về vai trò và vị trí của từng nước trong hệ thống quan hệ quốc tế Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô và Mỹ có vai trò tương đương trong cán cân lực lượng toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị đối ngoại và quân sự an ninh.

Nhìn chung, trong tương quan lực lượng trên trường quốc tế, tỷ trọng của

Mỹ đã gia tăng rõ rệt sức mạnh và ảnh hưởng trên trường quốc tế, trong khi tỷ trọng của Nga đã suy giảm đáng kể so với thời kỳ Liên Xô Mỹ sở hữu nhiều khả năng và phương tiện để mở rộng ảnh hưởng đến chính trị và kinh tế toàn cầu, trong khi Nga gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì vị thế cường quốc.

Cặp quan hệ Nga-Mỹ, mặc dù rất quan trọng, không còn chi phối các quan hệ quốc tế hiện nay Trong bối cảnh hệ thống thế giới đa cực đang hình thành, không có cặp quan hệ nào có khả năng đóng vai trò chi phối.

Như vậy, việc Chiến tranh lạnh kết thúc, một trật tự thế giới hậu Chiến tranh lạnh có ảnh hưởng như thế nào đối với quan hệ Nga- Mỹ?

Trong giai đoạn 1992-1999, mối quan hệ Nga-Mỹ chủ yếu xoay quanh việc xác định quy chế quốc tế của cả hai nước Mặc dù Mỹ công nhận Nga là nhà nước kế thừa Liên Xô, nhưng một số chính trị gia Mỹ vẫn coi Nga là cường quốc thất bại, trong khi Mỹ được xem là siêu cường chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh Điều này dẫn đến việc Mỹ cho rằng mình có quyền áp đặt các điều kiện liên quan đến hòa bình, an ninh và quan hệ giữa hai nước.

Mỹ đối với Nga đã biểu hiện ít nhiều lối tư duy nêu trên

Trong những năm đầu sau khi Liên bang Nga xuất hiện trên trường quốc tế với tư cách là "Quốc gia kế tục Liên Xô", cả giới quan chức Nga và các nhà phân tích đã phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc định hình lại vị thế của đất nước Những chuyển biến này không chỉ ảnh hưởng đến chính trị nội bộ mà còn tác động sâu sắc đến mối quan hệ của Nga với các quốc gia khác.

Mỹ tin tưởng vào khả năng thiết lập một mối quan hệ mới với Nga, nhấn mạnh rằng "nước Nga mới" và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không có lợi ích đối kháng mà thay vào đó có những lợi ích chung trong quan hệ quốc tế và song phương.

Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm

Theo Z Brezinski, đại lục Âu-Á được coi là "Bàn cờ lớn" cho chiến lược toàn cầu của Mỹ, nơi tiềm ẩn sự giàu có khổng lồ và các mối đe dọa từ những quốc gia có tham vọng ảnh hưởng đến chính trị thế giới, không phải lúc nào cũng đồng tình với Mỹ Ông xác định Nga là "Đấu thủ chính" trên "Bàn cờ lớn", mặc dù nước này đang đối mặt với suy yếu kinh tế và bất ổn chính trị Brezinski cũng nhấn mạnh rằng nếu Liên bang Nga khôi phục sức mạnh, điều này sẽ có tác động lớn đến các quốc gia láng giềng ở phía Tây, Đông và Nam.

Mặc dù bị phê phán, nhiều tư tưởng của nhà chiến lược này vẫn được các quan chức Mỹ chú ý và áp dụng vào chiến lược đối ngoại với Liên bang Nga.

Giới cầm quyền Mỹ cho rằng không nên có một cường quốc duy nhất lãnh đạo lục địa Âu - Á, mà cần có những quốc gia trung bình, vững chắc, mạnh vừa phải để tạo ra sự đối trọng Tuy nhiên, các nước này phải luôn yếu hơn Mỹ về khả năng Trong số các quốc gia đó, Liên bang Nga nổi bật với nhiều lợi thế so sánh, vì vậy yếu tố Nga không thể bị xem nhẹ.

Liên bang Nga luôn đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của các chiến lược gia Mỹ, không chỉ trong quá khứ mà còn hiện tại và tương lai.

Liên bang Nga là một thực thể Chính trị - Kinh tế - Xã hội phức tạp, và Mỹ không muốn Nga trở nên mạnh mẽ như trước, nhưng cũng không mong muốn sự sụp đổ của quốc gia này Chính vì vậy, các chính quyền Mỹ từ G.W Bush (cha) đến Bill Clinton đều nhận định rằng dù Nga phát triển theo hướng nào, điều đó cũng sẽ gây bất lợi cho Mỹ và trở thành mối đe dọa đối với an ninh và lợi ích sống còn của quốc gia này.

Vậy Mĩ mong muốn nước Nga phát triển theo chiều hướng nào? và nước

Trong thời gian B Clinton cầm quyền, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Liên bang Nga chủ yếu tập trung vào sự thay đổi xã hội và kinh tế trong nước Clinton đặc biệt quan tâm đến các vấn đề ngoại thương và kinh tế toàn cầu, xem đây là trung tâm trong chương trình nghị sự chính sách đối ngoại của mình Điều này đã trở thành đặc điểm nhất quán trong chính sách của ông.

Chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay luôn tập trung vào việc khẳng định và duy trì vị thế lãnh đạo toàn cầu Sự khác biệt giữa các Tổng thống chỉ nằm ở con đường mà họ chọn để đạt được mục tiêu thống trị này.

Ngay khi nhậm chức, B Clinton đã xác định hướng lãnh đạo nội bộ cho đất nước và liên tục củng cố chính sách này trong suốt hai nhiệm kỳ Về chính sách đối ngoại, ông chủ trương xây dựng một đường lối ngoại giao mềm dẻo với các quốc gia, bao gồm cả Liên bang Nga, thể hiện sự linh hoạt trong quan hệ quốc tế.

Là đại diện của Đảng Dân chủ, đảng này chú trọng đến các vấn đề trong nước và có xu hướng tập trung vào các chính sách đối nội.

B.Clinton tập trung sự chú ý của mình với chính sách đối nội Trước hết là đưa nền kinh tế Mĩ phát triển và thực tế cho thấy những đối sách hợp lý của B.Clinton đã đưa nền kinh tế Mĩ tăng trưởng nhanh chóng, đời sống nhân dân

Mĩ được cải thiện đáng kể

Dựa trên nội lực kinh tế, chính sách đối ngoại của B Clinton tập trung vào lợi ích kinh tế, do đó ông đã thực hiện các điều chỉnh phù hợp trong quan hệ với Liên bang Nga.

Sau Chiến tranh Lạnh, Liên bang Nga vẫn giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chuyển từ một đối thủ "Một mất một còn" trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh sang mối quan hệ "Đối tác chiến lược" sau khi xung đột này kết thúc.

Mặc dù trong quan niệm của chính giới Mỹ, Liên bang Nga là nước

Mặc dù "chiến bại" trong Chiến tranh lạnh, Nga vẫn giữ lợi thế vượt trội nhờ vào diện tích rộng lớn, vị trí địa - chính trị chiến lược, vai trò là Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, và sự hiện diện trong câu lạc bộ các cường quốc hạt nhân Ngoài ra, nguồn ngoại giao và ảnh hưởng chính trị đáng kể từ thời Liên Xô đã giúp Liên bang Nga duy trì một vị thế mà Mỹ không thể xem nhẹ hay bỏ qua.

B.Clinton đã thực hiện những bước đi "khôn ngoan" như tuyên bố thành lập đối tác chiến lược với Liên bang Nga, thông qua các đề án kinh tế và giải quyết tranh chấp lãnh thổ, cũng như các vấn đề liên quan đến việc mở rộng NATO về phía Đông và các vấn đề thế giới thứ ba trên bàn thương lượng.

Trong lĩnh vực kinh tế, Tổng thống B Clinton đã vận động các nước Tây Âu cho phép Nga hoãn các khoản nợ đến hạn mà nước này không thể thanh toán, đồng thời cho phép Nga vay thêm để thúc đẩy phát triển kinh tế Tuy nhiên, cần nhận thức rằng ông Clinton đã tự đặt mình vào vai trò lãnh đạo các cuộc cải cách chính trị và kinh tế tại Nga, áp đặt điều kiện cho việc Nga gia nhập thị trường toàn cầu và phớt lờ lợi ích của Nga trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế.

Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ năm

Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ năm

2.3.Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

2.4 Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ năm 2000 đến trước sự kiện 11/09/2001

Chương 3 Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.1 Sự kiện 11/09 và tác động của nó đến quan hệ đối ngoại Nga Mỹ

3.2 Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.3 Liên bang Nga trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay (12/03)

3.4.Tổng quan về mối quan hệ đối ngoại Nga – Mỹ từ sau sự kiện

CHƯƠNG 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI QUAN HỆ NGA - MỸ TRONG NHỮNG NĂM 1992 - 1999

1.1 Những nhân tố tác động đến mối quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ trong những năm 1992 - 1999

Quyết định ngày 05/04/1989 của Chính phủ đối lập ở Ba Lan khởi đầu quá trình kết thúc Chiến tranh Lạnh, với chiến thắng của Công đoàn Đoàn kết trong cuộc bầu cử Quốc hội vào ngày 18/06/1989 Ngày 24/08/1989, T Mazoveski trở thành thủ tướng chính phủ không cộng sản đầu tiên của Ba Lan Sự kiện quan trọng tiếp theo là sự sụp đổ của bức tường Berlin vào ngày 09/10/1989 và cuộc biểu tình ở Praha vào ngày 17/10/1989, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ hiện hành Ngày 18/10/1989, Hungary không còn tự gọi mình là nước Cộng hòa Nhân dân, và vào ngày 22/12/1989, Nicolae Ceaușescu ở Rumani bị lật đổ Cuộc chiến tranh phân liệt ở Liên bang Nam Tư bùng nổ vào ngày 27/06/1991, tiếp theo là sự giải thể của Hội đồng tương trợ kinh tế vào ngày 28/06/1991 và việc xoá bỏ Hiệp ước Warsaw vào ngày 01/07/1991 Cuối cùng, sự kiện ngày 19 tháng 08 năm 1991 đánh dấu sự phân rã của Liên Xô sau hơn 70 năm tồn tại.

Chiến tranh lạnh đã kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, dẫn đến sự suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy của Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc Sự phân hoá trong các nước thế giới thứ ba cũng diễn ra mạnh mẽ Những thay đổi này đã ảnh hưởng lớn đến tầm nhìn chiến lược của các quốc gia, khiến họ chuyển từ lập trường đối đầu sang đối thoại và hợp tác.

"toàn cầu hoá", theo nghĩa là một tiến trình phát triển mới về chất của nhân loại

Toàn cầu hoá là một xu hướng phát triển lịch sử khách quan, ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực xã hội như kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự, cũng như các hoạt động xã hội và môi trường.

Mô hình hai cực trong hệ thống Quan hệ quốc tế đã bị phá vỡ khi Mỹ mất đi một đối trọng quan trọng, đồng thời cũng là một đối thủ mạnh trên sân chơi quốc tế.

Mỹ đang đứng trước cơ hội quan trọng để thiết lập một trật tự thế giới đơn cực do mình lãnh đạo, với sức mạnh tổng hợp từ quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và ngoại giao Tuy nhiên, việc áp đặt mô hình và giá trị Mỹ ra toàn cầu không hề dễ dàng, khi phải đối mặt với sự phản đối từ nhiều quốc gia và thậm chí từ một bộ phận dân cư Mỹ Hơn nữa, Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trên thế giới, do đó, sự phát triển của Mỹ cũng phải chịu ảnh hưởng từ sự phát triển chung của thế giới và các mối quan hệ quốc tế.

Trái ngược với nỗ lực của Mỹ trong việc thiết lập trật tự thế giới đơn cực, nhiều quốc gia lớn khác đang thúc đẩy một hệ thống quan hệ quốc tế đa cực Hệ thống này bao gồm nhiều trung tâm sức mạnh tương tác lẫn nhau, tạo ra một môi trường đa dạng và cân bằng hơn trong quan hệ quốc tế.

Sau Chiến tranh Lạnh, cục diện thế giới đang chuyển hướng sang tính đa cực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế Sự đa dạng này thể hiện rõ nét trong mối quan hệ giữa các cường quốc, khi ngoài Mỹ, các trung tâm quyền lực khác ngày càng gia tăng ảnh hưởng về kinh tế và chính trị Bên cạnh những cường quốc truyền thống, nhiều cường quốc mới nổi lên từ các khu vực khác nhau, trong đó các quốc gia đồng minh của Mỹ trong NATO và G7, cũng như các "Đối tác chiến lược" như Nga và Trung Quốc, đang thể hiện sự độc lập hơn trong quan hệ với Mỹ, không còn cam chịu vị thế "Đối tác lép vế".

Trong bối cảnh hệ thống quan hệ quốc tế đang có nhiều biến chuyển phức tạp sau Chiến tranh Lạnh, mối quan hệ giữa Liên bang Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nổi bật với những đặc thù riêng, khác biệt so với quan hệ của Nga và Mỹ với các quốc gia khác trên toàn cầu Những điểm khác biệt này tạo nên một khung cảnh độc đáo trong quan hệ quốc tế hiện nay.

Dù tiếp nối quan hệ Xô- Mỹ trước đây song quan hệ Nga- Mỹ khác về chất so với quan hệ Xô- Mỹ

Quan hệ giữa Nga và Mỹ hiện nay không còn bị chi phối bởi ý thức hệ như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mà thay vào đó là một mối quan hệ giữa hai cường quốc trong một hệ thống quốc tế đã có nhiều thay đổi Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều hướng tới chính sách đối ngoại đa dạng hóa và dựa trên lợi ích chung Cả Nga và Mỹ đều nhận thức rằng họ không còn có lợi ích chiến lược đối kháng như Liên Xô và Mỹ trước đây Tuy nhiên, trong khi Mỹ vẫn coi lợi ích của mình mang tính toàn cầu, Nga lại cho rằng lợi ích hiện tại của mình không còn mang tính toàn cầu như thời kỳ Liên Xô.

Trên "Bàn cờ chính trị thế giới", mối quan hệ giữa Nga và Mỹ không chỉ thể hiện sự tương tác lẫn nhau mà còn cho thấy sự thay đổi về vai trò và vị trí của mỗi nước trong hệ thống quan hệ quốc tế Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô và Mỹ có vai trò gần như tương đương trong cán cân lực lượng toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị-đối ngoại và quân sự-an ninh.

Nhìn chung, trong tương quan lực lượng trên trường quốc tế, tỷ trọng của

Mỹ đã gia tăng sức mạnh rõ rệt, trong khi tỷ trọng của Nga đã giảm mạnh so với thời kỳ Liên Xô Mỹ có nhiều khả năng và phương tiện để mở rộng ảnh hưởng đến chính trị và kinh tế toàn cầu, trong khi Nga gặp khó khăn trong việc duy trì vị thế cường quốc.

Mối quan hệ Nga - Mỹ, dù rất quan trọng, không còn là yếu tố chi phối các quan hệ quốc tế hiện nay Trong bối cảnh hệ thống thế giới đa cực đang hình thành, không có cặp quan hệ nào có khả năng thống trị tình hình toàn cầu.

Như vậy, việc Chiến tranh lạnh kết thúc, một trật tự thế giới hậu Chiến tranh lạnh có ảnh hưởng như thế nào đối với quan hệ Nga- Mỹ?

Trong giai đoạn 1992-1999, mối quan hệ Nga-Mỹ chủ yếu xoay quanh việc xác định quy chế quốc tế của cả hai nước Mặc dù Nga được công nhận là nhà nước kế thừa của Liên Xô, một số chính trị gia Mỹ vẫn xem Nga là cường quốc thất bại, trong khi Mỹ được coi là siêu cường chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh Điều này dẫn đến quan điểm rằng Mỹ có quyền áp đặt các điều kiện về hòa bình, an ninh và quan hệ lẫn nhau.

Mỹ đối với Nga đã biểu hiện ít nhiều lối tư duy nêu trên

Trong những năm đầu sau khi Liên bang Nga trở thành "Quốc gia kế tục Liên Xô" trên trường quốc tế, cả giới quan chức Nga và các nhà phân tích đã có những nhận định sâu sắc về vai trò và vị thế của nước Nga trong bối cảnh chính trị toàn cầu.

Mỹ tin rằng có thể nhanh chóng thiết lập một mối quan hệ mới với Nga, khẳng định rằng "nước Nga mới" và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không có lợi ích đối lập mà thay vào đó chia sẻ những lợi ích chung trên trường quốc tế và trong quan hệ song phương.

Quan hệ đối ngoại Nga - Mỹ từ sau sự kiện 11/09/2001 đến nay(12/03)

Ngày đăng: 27/07/2021, 16:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[01]. Vũ Công Giao ( 2002), Dân chủ, nhân quyền Mỹ: Quá khứ và hiện tại, Tạp chí Cộng sản số 16 - 2002, trang 56 - 60 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dân chủ, nhân quyền Mỹ: Quá khứ và hiện tại
[02]. Nguyễn Hoàng Giáp ( 2002), Nhìn lại thế giới năm 2001, Tạp chí Cộng sản số 07 - 2002, trang 57 - 61 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhìn lại thế giới năm 2001
[03]. Phạm Văn Hùng ( 2002), Toàn cầu hoá và xu hướng vận động của dòng chảy vốn quốc tế, Tạp chí Cộng sản số 16 - 2002, trang 61 - 64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn cầu hoá và xu hướng vận động của dòng chảy vốn quốc tế
[04]. Hà Thị Mỹ Hương (2000), Sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ sau Chiến tranh lạnh và tác động của quan hệ đó đến Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện chính trị TP Hồ Chí Minh, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ sau Chiến tranh lạnh và tác động của quan hệ đó đến Việt Nam
Tác giả: Hà Thị Mỹ Hương
Năm: 2000
[05]. Hà Thị Mỹ Hương (2001), Nước Nga trong cuộc tìm kiếm đối tác tin cậy sau Chiến tranh lạnh, nghiên cứu Châu Âu số 1 (42) 2002, trang 53 - 59 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Nước Nga trong cuộc tìm kiếm đối tác tin cậy sau Chiến tranh lạnh
Tác giả: Hà Thị Mỹ Hương
Năm: 2001
[06]. Hà Mỹ Hương (2002), Về chính sách đối ngoại của Tổng thống Liên bang Nga V.Putin, Tạp chí Cộng sản số 17 - 2002, trang 75 -79 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về chính sách đối ngoại của Tổng thống Liên bang Nga V.Putin
Tác giả: Hà Mỹ Hương
Năm: 2002
[07]. Lê Linh Lan (1999), Vai trò của Tổng Thống trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ, Nghiên cứu Quốc tế, số 37 - 1999, trang 37 - 46 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò của Tổng Thống trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ
Tác giả: Lê Linh Lan
Năm: 1999
[08]. Nguyễn Văn Lập chủ biên (2002), Quan hệ Nga - Mỹ,vừa là đối tác vừa là đối thủ, NXB Thông Tấn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Nga - Mỹ,vừa là đối tác vừa là đối thủ
Tác giả: Nguyễn Văn Lập chủ biên
Nhà XB: NXB Thông Tấn
Năm: 2002
[09]. Nguyễn Văn Lập chủ biên (2002), Trật tự thế giới sau 11/09, NXB Thông Tấn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trật tự thế giới sau 11/09
Tác giả: Nguyễn Văn Lập chủ biên
Nhà XB: NXB Thông Tấn
Năm: 2002
[10]. Lý Cảnh Long(2001), Putin từ trung tá KGB đến Tổng thống Liên bang Nga, Tạ Ngọc Ái, Thanh An (biên dịch), NXB Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Putin từ trung tá KGB đến Tổng thống Liên bang Nga
Tác giả: Lý Cảnh Long
Nhà XB: NXB Lao động
Năm: 2001
[11]. Diệu Ly (1998), Chính trường Nga lại đảo lộn, Tạp chí Cộng sản số 19 - 1998, trang 58 - 60 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính trường Nga lại đảo lộn
Tác giả: Diệu Ly
Năm: 1998
[12]. Ban biên dịch Frist News (2001), Nhân vật số một, NXB TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhân vật số một
Tác giả: Ban biên dịch Frist News
Nhà XB: NXB TP Hồ Chí Minh
Năm: 2001
[13]. Bình Nga (2000), Hy vọng của nước Nga, Tạp chí cộng sản số 08- 2000, trang 58 - 59 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hy vọng của nước Nga
Tác giả: Bình Nga
Năm: 2000
[14]. Hồng Thanh Quang (2001), Vladimir Putin sự lựa chọn của nước Nga, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vladimir Putin sự lựa chọn của nước Nga
Tác giả: Hồng Thanh Quang
Nhà XB: NXB Quân đội nhân dân
Năm: 2001
[15]. Nguyễn Thiết Sơn chủ biên (2002), Nước Mỹ năm đầu thế kỉ XXI, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nước Mỹ năm đầu thế kỉ X
Tác giả: Nguyễn Thiết Sơn chủ biên
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2002
[16]. Noman Chomsky (1995), Chú Sam thực sự muốn gì, Hồ Ngọc Minh, Đinh Thị Hà dịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chú Sam thực sự muốn gì
Tác giả: Noman Chomsky
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 1995
[17]. V. Baranets (2000), Yelsin và các tướng lĩnh, Lê Văn Thắng và Đinh Thị Hồng dịch, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Yelsin và các tướng lĩnh
Tác giả: V. Baranets
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2000
[18]. Vadim Makarenco (2001), Nước Nga trước thềm thế kỉ XXI, Ngô Thuỷ Hương, Đinh Thị Phương Thuỳ, Lê Văn Thắng dịch, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nước Nga trước thềm thế kỉ XXI
Tác giả: Vadim Makarenco
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2001
[19]. Phạm Cao Phong (1999), Quan hệ Mỹ- Trung- Nhật-Nga và tác động đối với tình hình Đông Á, Nghiên cứu Quốc tế số 35 - 1996, trang 22 - 29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Mỹ- Trung- Nhật-Nga và tác động đối với tình hình Đông Á
Tác giả: Phạm Cao Phong
Năm: 1999
[20]. Randall B. Riplay và James M.Lindsay- chủ biên(2002), Chính sách đối ngoại của Hoa kỳ sau Chiến tranh lạnh, Trần Văn Tuỵ, Lê Thị Hồng, Lê Tú Anh, Trần Duệ Thanh, Nguyễn Viết Thấng, Kim Thoa dịch, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách đối ngoại của Hoa kỳ sau Chiến tranh lạnh
Tác giả: Randall B. Riplay và James M.Lindsay- chủ biên
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2002

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w