1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Vai trò của nhà máy xi măng bỉm sơn đối với quá trình hình thành và phát triển thị xã bỉm sơn

73 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vai Trò Của Nhà Máy Xi Măng Bỉm Sơn Đối Với Sự Hình Thành Và Phát Triển Thị Xã Bỉm Sơn
Thể loại khóa luận
Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 365,17 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (2)
  • 2. Lịch sử vấn đề (3)
  • 3. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài (5)
  • 4. Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu (6)
  • 5. Bố cục của khoá luận (7)
  • B. Néi Dung (8)
    • 1.1. Điều kiện tự nhiên (8)
      • 1.1.1. Vị trí địa lý (8)
      • 1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên (10)
    • 1.2. Truyền thống lịch sử - văn hoá con ng-ời Bỉm Sơn (12)
      • 1.2.1. Truyền thống lịch sử (12)
      • 1.2.2. Ttruyền thống văn hoá (0)
    • 2.1. Chủ tr-ơng xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn của Đảng và Nhà n-ớc (19)
    • 2.2. B-ớc đầu xây dựng nhà máy (1968 - 1977) (20)
      • 2.2.1. Tiến hành công tác khảo sát thăm dò địa chất (1968 - 1974) (20)
      • 2.2.2. Chuẩn bị cơ sở vật chất (1974 - 1977) (21)
      • 2.2.3. Tiến hành xây dựng nhà máy (1974 - 1977) (22)
    • 2.3. Hoàn thành xây dựng nhà máy và đi vào sản xuất, phát triển (1982 - 2004) (25)
      • 2.3.1. Hoàn thành xây dựng nhà máy (25)
      • 2.3.2. B-ớc đầu nhà máy đi vào tổ chức sản xuất (26)
      • 2.3.3. Nhà máy xi măng Bỉm Sơn trong thời kỳ đổi mới(1986 - 2003) (28)
    • 3.1. Bỉm Sơn - B-ớc phát triển từ thị trấn lên thị xã (38)
    • 3.2. Đóng góp của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với quá trình hình thành và phát triển của thị xã (45)
      • 3.2.1. Kinh tế - xã hội (45)
      • 3.2.2. Về chính trị - an ninh - quốc phòng (55)
      • 3.2.3. Văn hoá - giáo dục - y tế (62)
  • C. KÕt luËn (68)
  • Tài Liệu Tham Khảo (72)

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Đề tài "Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành và phát triển thị xã Bỉm Sơn" là một chủ đề mới mẻ, chưa có công trình chuyên khảo nào đề cập đến Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi đã kế thừa những kết quả từ các nghiên cứu trước đó dưới nhiều góc độ khác nhau.

Trong quyển "Lịch sử Đảng bộ thị xã Bỉm Sơn" của NXB Chính trị Quốc gia, mặc dù đã trình bày một cách sơ lược về chủ trương thành lập và quá trình ra đời của nhà máy cũng như lịch sử phát triển của Đảng bộ thị xã, nhưng vẫn chưa đề cập đầy đủ đến mối quan hệ mật thiết giữa nhà máy và thị xã Điều này dẫn đến việc vai trò quan trọng của nhà máy đối với sự phát triển của thị xã chưa được làm nổi bật.

2.2 Quyển "Xi măng Bỉm Sơn 10 năm xây dựng và tr-ởng thành" (1980 -

Vào năm 1990, Ban Giám đốc thường vụ Đảng ủy và thường vụ công đoàn nhà máy xuất bản đã phát hành nội bộ một tài liệu phản ánh quá trình xây dựng và phát triển sản xuất của tập thể cán bộ công nhân viên chức trong suốt 10 năm Tài liệu này ghi nhận những thành tựu đáng chú ý, mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ.

2.3 Quyển "Xi măng Bỉm Sơn 20 năm xây dựng và tr-ởng thành" (1980 -

2000) của NXB Văn hoá Dân tộc, năm 2000, đã giới thiệu những thành tựu mà nhà máy đạt đ-ợc trong 20 năm qua

Trong quyển "Xi măng tuổi trăng rằm" do NXB Thanh Hoá phát hành, tác giả đã chia sẻ những câu chuyện và tâm tư liên quan đến nhà máy xi măng cùng quá trình xây dựng của nó.

Trong giai đoạn 1999 - 2004, các bản báo cáo sơ kết và tổng kết của Đảng uỷ cùng Ban Giám đốc nhà máy đã nêu bật truyền thống và những thành tựu nổi bật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhà máy Bên cạnh đó, các tập tranh ảnh và bìa hoạ báo cũng góp phần giới thiệu rõ nét về những thành công này.

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thị xã, bao gồm các khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh Mặc dù nhiều công trình đã đề cập đến quá trình thành lập và phát triển của nhà máy, nhưng chưa có nghiên cứu nào đầy đủ về vai trò và tác động của nó đối với thị xã Các tài liệu hiện có chỉ phản ánh một phần khía cạnh nào đó mà chưa thể hiện được toàn diện những thành tựu và ảnh hưởng của nhà máy.

Tuy nhiên những tài liệu trên đây sẽ là cơ sở, là nguồn t- liệu quan trọng để chúng tôi tiến hành khoá luận của mình

Chúng tôi chọn đề tài "Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành và phát triển thị xã Bỉm Sơn" nhằm trình bày một cách toàn diện về quá trình hình thành và phát triển của nhà máy này, cùng những thành tựu đạt được trong hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành Bài viết sẽ làm rõ vai trò của nhà máy đối với sự phát triển của thị xã Bỉm Sơn trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội Qua đó, chúng tôi rút ra những nhận xét và bài học kinh nghiệm quý báu, có ý nghĩa thực tiễn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hôm nay.

Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của thị xã Bỉm Sơn, thể hiện qua quá trình phát triển đồng bộ giữa hai bên Bài viết phân tích những tác động tích cực và hạn chế của nhà máy đối với kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa của thị xã Thực tiễn này chứng minh tính đúng đắn trong đường lối đổi mới của Đảng và công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đồng thời, cũng đặt ra nhiều thách thức về phát triển đô thị, môi trường và xây dựng nếp sống công nghiệp văn minh, nhằm đưa đất nước phát triển cùng với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài khoá luận này tập trung vào điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và truyền thống lịch sử của vùng đất Bỉm Sơn Chúng tôi sẽ phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện chủ trương xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn của Đảng và Nhà nước Bài viết cũng làm rõ quá trình hình thành và phát triển của nhà máy và thị xã Bỉm Sơn, nhấn mạnh mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng Đồng thời, vai trò quan trọng của nhà máy xi măng Bỉm Sơn trong việc đổi mới diện mạo thị xã theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ được khẳng định, từ đó chứng minh sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong chủ trương phát triển nhà máy.

Về thời gian: Đề tài giới hạn từ khi nhà máy thành lập 1980 - 2004, t-ơng ứng với quá trình hình thành và phát triển của thị xã

Đề tài nghiên cứu được xác định trong không gian thị xã Bỉm Sơn, nơi có nhà máy xi măng Bỉm Sơn Mặc dù thị xã này thuộc tỉnh Thanh Hoá, nhưng đóng góp của nhà máy không chỉ giới hạn ở khu vực Bỉm Sơn mà còn ảnh hưởng đến toàn quốc Do đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ đề cập đến các mốc thời gian và không gian liên quan đến đề tài.

Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu

Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về nhà máy xi măng Bỉm Sơn bằng cách tham khảo tài liệu nghiên cứu trên toàn quốc và trong tỉnh, đồng thời tập trung vào nguồn tài liệu lịch sử địa phương Chúng tôi đã thu thập các báo cáo, tổng kết hàng năm, số liệu thống kê của nhà máy và thị xã, cùng với các công trình nghiên cứu từ các tác giả khác Ngoài ra, chúng tôi đã thực hiện khảo sát thực tế tại nhà máy, gặp gỡ các giám đốc, công nhân, và lãnh đạo Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn để thu thập thêm thông tin phục vụ cho đề tài.

4.2 Ph-ơng pháp nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu trong khóa luận này bao gồm phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, đồng thời áp dụng các phương pháp chuyên ngành như thống kê và đối chiếu Bên cạnh đó, chúng tôi còn kết hợp với phương pháp điền dã để khảo sát tầm quan trọng của lịch sử địa phương.

Bố cục của khoá luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của khoá luận đ-ợc trình bày trong 3 ch-ơng sau:

Ch-ơng 1: Khái quát điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử- văn hoá, vùng đất con ng-ời Bỉm Sơn

Ch-ơng 2: Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy xi măng Bỉm Sơn

Ch-ơng 3: Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành và phát triển thị xã Bỉm Sơn

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Bình Minh cùng các thầy cô trong khoa Lịch sử, các phòng ban của Công ty xi măng Bỉm Sơn, và Uỷ ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn đã hỗ trợ và tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành đề tài này Đây là lần đầu tiên tôi tham gia vào công tác nghiên cứu khoa học, mặc dù đã nỗ lực nhiều, nhưng khóa luận vẫn không tránh khỏi thiếu sót Rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo và các bạn sinh viên.

Néi Dung

Điều kiện tự nhiên

Bỉm Sơn, nằm trên con đường thiên lý từ Bắc vào Nam, là địa đầu của tỉnh Thanh, với những dãy núi trùng điệp và các điểm mút như Dốc Xây và cầu Tống Giang Thị trấn Bỉm Sơn, thuộc vùng cực bắc huyện Hà Trung, không chỉ có vị trí quan trọng trong lịch sử đánh giặc của dân tộc mà còn đóng vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế và công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Bỉm Sơn nằm cách thành phố Thanh Hoá 34km về phía Bắc, cách thủ đô

Nằm cách Hà Nội 120km về phía Nam, Bỉm Sơn là một vùng đồi núi trung du với nhiều dãy núi đá vôi hùng vĩ, xen kẽ với những đồi núi thấp và thung lũng Thị xã Bỉm Sơn giáp huyện Nga Sơn ở phía đông, huyện Hà Trung ở phía tây, và thị xã Tam Điệp của tỉnh Ninh Bình ở phía Bắc.

Thị xã Bỉm Sơn nằm trong tọa độ 20°02' đến 20°09' vĩ độ Bắc, với tổng diện tích tự nhiên là 6.681 ha, trong đó đất đô thị chiếm 5.099 ha Khu vực này có địa hình phức tạp, thấp dần từ tây sang đông, bao gồm cả vùng bán sơn địa và vùng chiêm trũng Đặc điểm địa chất của Bỉm Sơn thuộc đới cấu tạo Sơn La và Ninh Bình, với đất đá hình thành từ nguyên đại trung sinh kỷ Iơriat khoảng 300 triệu năm trước Mặc dù diện tích không rộng, Bỉm Sơn sở hữu đồng bằng, núi đá, đồi và sông suối, với đồi Bỉm ở phía nam, đồi Trạch Lâm ở phía tây và dãy núi Tam Điệp ở phía bắc, tạo thành một tuyến giao thông chiến lược quan trọng trên quốc lộ 1.

Bỉm Sơn, với vị trí địa lý đặc biệt, là nơi giao thoa văn hóa giữa xứ Thanh và đồng bằng Bắc Bộ, tạo nên sự phong phú và đa dạng trong bản sắc văn hóa giữa miền Bắc và miền Trung.

Với vị thế chiến lược quan trọng, Bỉm Sơn đã nhiều lần được chọn làm căn cứ trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ngay từ những ngày đầu xây dựng quốc gia phong kiến Nơi đây không chỉ diễn ra những trận đánh quan trọng nhằm tiến công địch, mà còn là chỗ bảo toàn lực lượng, tránh thế mạnh ban đầu của quân thù, chuẩn bị cho các cuộc phản công đánh bại kẻ xâm lược.

Giữa năm 970 và 980, Lê Hoàn đã dẹp tan các thế lực cát cứ và lên ngôi vua, tiếp nối sự nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, góp phần xây dựng và phát triển quốc gia Đại Cồ Việt.

Vào thế kỷ XV, nghĩa quân Lam Sơn đã lựa chọn Bỉm Sơn làm địa điểm chiến lược để tập kích lực lượng địch và làm nơi trung chuyển lương thực trong cuộc kháng chiến chống lại sự thống trị của nhà Minh, nhằm giải phóng dân tộc.

Vào giáp Tết 1789, Biện Sơn (Bỉm Sơn) - Tam Điệp trở thành địa điểm hội quân của Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm, chuẩn bị cho cuộc hành quân thần tốc ra Bắc nhằm đánh bại 290.000 quân xâm lược nhà Thanh.

Các địa danh như làng Gạo, Gò Ông Dụ, Đập Chắn và thôn Thao Trường đã ghi dấu ấn trong lịch sử như những minh chứng cho vị trí chiến lược quan trọng của vùng đất Bỉm Sơn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, đặc biệt là trong thời kỳ luyện tập của tướng Phan Văn Lân.

Bỉm Sơn không chỉ có vị trí chiến lược quan trọng mà còn sở hữu tiềm năng lớn với nhiều tài nguyên khoáng sản, đặc biệt trong ngành công nghiệp xây dựng Diện tích mỏ đá tại Bỉm Sơn lên tới 1.186,8 ha, chiếm khoảng 18% tổng diện tích tự nhiên, với trữ lượng đá vôi dự báo đạt vài tỷ m³ Hiện tại, lượng đá vôi đã được thăm dò là 600 triệu m³, có chất lượng cao với hàm lượng oxit canxi (CaO) và oxit magiê (MgO) phù hợp cho sản xuất xi măng và các hóa chất như đất đèn, bột nhẹ, cũng như nguyên liệu cho ngành giấy, thủy tinh và đá ốp lát.

Bỉm Sơn không chỉ nổi tiếng với trữ lượng đá vôi lớn mà còn có nguồn đá phiến sét phong phú, với trữ lượng thăm dò hiện tại đạt hơn 300 triệu tấn và dự báo có thể lên đến hàng tỷ tấn Đá phiến sét được phát hiện lần đầu tại làng Cổ Đam, có chất lượng tốt để thay thế đất sét dẻo trong sản xuất xi măng Đây là nguyên liệu chính đứng sau đá vôi trong quy trình sản xuất xi măng Poóclăng Đặc biệt, đá phiến sét Bỉm Sơn còn có khả năng sản xuất "Keramzit", một loại cốt liệu cho bê tông nhẹ, và được đánh giá cao bởi các nhà địa chất tại các khu vực đã xây dựng nhà máy xi măng như Hoàng Thạch, Bút Sơn, Nghi Sơn và Hà Tiên, với nguồn nguyên liệu tại Bỉm Sơn được cho là dồi dào nhất.

Bỉm Sơn không chỉ nổi bật với hai nguyên liệu chính mà còn có nguồn đất sét dẻo phong phú, được khai thác tại Đông thôn, Đoài thôn và Trạch Lâm Nguồn tài nguyên này đủ để cung cấp cho các nhà máy gạch ngói với công suất lên tới 100 triệu viên mỗi năm.

Bỉm Sơn có tiềm năng khoáng sản phong phú, cho phép phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng từ cơ bản đến cao cấp, cũng như ngành công nghiệp hóa chất.

Bỉm Sơn không chỉ có tiềm năng khoáng sản mà còn phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp với 2.105 ha đất nông nghiệp, trong đó hơn một nửa là đất rừng và đất có thể trồng cây lương thực, thực phẩm Nguồn nước ngầm tại đây, được xác định là nước ngầm cácxtơ, có trữ lượng phong phú, phục vụ cho sản xuất công nghiệp Các dòng sông như sông Hoạt và sông Tống cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất Vị trí địa lý và địa hình của Bỉm Sơn tạo ra sự ảnh hưởng của ba vùng khí hậu: Tây Bắc, Đông Bắc Bắc Bộ và cận Bắc Trung.

Bộ có nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,6°C, với lượng mưa trung bình đạt 1.514 mm/năm; năm cao nhất ghi nhận 2.106 mm, trong khi năm thấp nhất chỉ đạt 776 mm Độ ẩm không khí trung bình là 80%, và chế độ gió biển thay đổi theo mùa, với gió Đông Nam thổi vào mùa hè và gió Đông Bắc vào mùa đông Điều này tạo ra khí hậu nắng nhiều, mưa nhiều và rét sớm, rất thuận lợi cho sự phát triển đa dạng các loại cây trong nông nghiệp Ngoài ra, gió phơn Tây Nam khô nóng trong các tháng 5, 6 cũng hỗ trợ cho việc phơi sấy và bảo quản sản phẩm.

Truyền thống lịch sử - văn hoá con ng-ời Bỉm Sơn

Bỉm Sơn là một vùng đất có lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Trong thời kỳ Bắc thuộc, Bỉm Sơn thuộc huyện D- Phát, quận Cửu Chân Đến thời L-ơng Vũ Đế, Bỉm Sơn thuộc huyện Nhật Nam, quận Cửu Chân Qua các triều đại Lý và Trần, Bỉm Sơn nằm trong lộ Thanh Hoá Năm 1397, phủ Thanh Hoá được đổi thành trấn Thanh Đô, và Bỉm Sơn thuộc huyện Tống Giang, Châu Ái Thời Lê sơ, Bỉm Sơn vẫn thuộc huyện Tống Giang, phủ Hà Trung Trong thời Lê Trung Hưng, Bỉm Sơn thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, Thanh Hoa nội trấn Cuối cùng, thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), trấn Thanh Hoa được đổi thành tỉnh Thanh Hoa.

Bỉm Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hoá từ năm 1843, đã trải qua nhiều biến đổi hành chính qua các thời kỳ Trong thời kỳ Nguyễn, địa phận Bỉm Sơn bao gồm các xã và thôn như Trạch Lâm, Cổ Đam, và Cẩm La Trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các làng xã ở đây không có sự thay đổi lớn Sau Cách mạng Tháng Tám, Bỉm Sơn thuộc về hai xã Hoạt Giang và Tống Giang, huyện Hà Trung, và đến năm 1954, lại thuộc về hai xã Hà D-ơng và Hà Lan Ngày 8/3/1967, thị trấn nông trường Hà Trung được thành lập, và tháng 6/1977, thị trấn Bỉm Sơn ra đời trực thuộc tỉnh Thanh Hoá Ngày 18/12/1981, thị xã Bỉm Sơn chính thức được thành lập, bao gồm thị trấn Bỉm Sơn, thị trấn Nông trường Hà Trung và các xã Hà Lan, Quang Trung Đến tháng 9/1983, ba phường Ba Đình, Lam Sơn, Ngọc Trạo được thành lập, và tháng 2/1991, thị trấn Nông trường Hà Trung đổi tên thành phường Bắc Sơn Hiện nay, thị xã Bỉm Sơn bao gồm bốn phường: Ba Đình, Lam Sơn, Ngọc Trạo, Bắc Sơn và hai xã Hà Lan, Quang Trung.

Tên gọi Bỉm Sơn có nguồn gốc từ nửa sau thế kỷ XIX, trước đó được biết đến với tên Biển Sơn trong sách Tổng trấn xã danh bị lãm Trong tài liệu Đại Nam nhất thống chí, có nhắc đến "xã Bỉm Sơn huyện Tống Sơn" Người dân làng Bỉm (xã Quang Trung) cũng xác nhận rằng làng Bỉm trước đây được gọi là trang Biển Sơn, cho thấy Bỉm Sơn chính là tên gọi đã thay đổi từ trang Biển Sơn.

Trong suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân Bỉm Sơn đã kiên cường đứng lên chống lại sự đô hộ của ngoại bang, cùng với nhân dân cả nước.

Năm 40, Bỉm Sơn đã hoà vào phong trào ủng hộ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Tr-ng nổi lên ở vùng Lữu Châu (Thanh Hoá)

Năm 248, nhân dân các làng Bỉm Sơn đã tích cực tham gia cuộc khởi nghĩa do nữ anh hùng Triệu Thị Trinh lãnh đạo nhằm đánh đuổi giặc Ngô.

Các thế hệ nối tiếp nhau tại Bỉm Sơn đã không ngừng nỗ lực để giành lại quyền độc lập, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc Truyền thống đấu tranh kiên cường của nhân dân nơi đây được duy trì và phát triển trong quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1284 - 1285), nhân dân Bỉm Sơn đã cùng với nhân dân lộ Thanh Hoá bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não kháng chiến.

Vào thế kỷ XV, nhân dân Bỉm Sơn đã góp phần quan trọng vào khởi nghĩa Lê Lợi, tiêu diệt quân Minh và mở đường Bắc tiến, giải phóng toàn quốc Sự kiện này đã dẫn đến việc thành lập vương triều Lê, được xem là triều đại phong kiến rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc.

Đình làng Gạo, đèo Ba Dội và Đồi Ông là những địa danh lịch sử quan trọng, ghi dấu ấn về cuộc kháng chiến của nhân dân Bỉm Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung trong thế kỷ XVIII Những địa điểm này không chỉ là chứng tích anh hùng mà còn là minh chứng cho tinh thần yêu nước và đấu tranh giữ gìn độc lập của dân tộc.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, khiến triều đình Nguyễn hèn nhát nhượng bộ và thừa nhận sự thống trị của đế quốc Trong bối cảnh ngọn cờ dân tộc bị bỏ rơi, lòng yêu nước và ý chí quật cường của nhân dân từ Bắc chí Nam, đặc biệt là nhân dân Bỉm Sơn, đã mạnh mẽ đứng lên chống lại xâm lược Trong phong trào Cần Vương, nhân dân Bỉm Sơn đã đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp kháng Pháp, nổi bật với việc xây dựng chiến luỹ Ba Đình (Nga Sơn), trở thành một trong những trung tâm kháng chiến nổi tiếng của cả nước, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.

Phong trào Cần V-ơng thất bại, thực dân Pháp gia tăng áp bức lên đất nước ta, khiến nhân dân Bỉm Sơn lâm vào cảnh đói nghèo và mất quyền sống Sự bóc lột tàn bạo đã khiến các làng xã trở nên tiêu điều, như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từng nói: "Có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết." Với lòng yêu quê hương và ý chí quật cường, nhân dân Bỉm Sơn đã đứng lên đấu tranh giành chính quyền vào mùa thu Tháng Tám 1945 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, họ tiếp tục cuộc chiến tranh cách mạng trong ba mươi năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước Trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Bỉm Sơn không chỉ hoàn thành nhiệm vụ hậu phương mà còn tham gia đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, nổi bật với chiến công bắn rơi chiếc máy bay F4 và bắt sống giặc lái vào ngày 18/9/1967.

Truyền thống đấu tranh kiên cường của nhân dân Bỉm Sơn không chỉ được thể hiện trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà còn trong quá trình lao động sản xuất Trước khi đất nước thống nhất, Bỉm Sơn là một làng quê nghèo với kinh tế chủ yếu dựa vào trồng lúa nước Sau ngày thống nhất, kinh tế Bỉm Sơn đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển của ngành công nghiệp Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng đã tạo ra nền kinh tế đa dạng và năng động tại Bỉm Sơn Đặc biệt, sự ra đời của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã biến nơi đây thành trung tâm công nghiệp, tạo công ăn việc làm cho nhiều công nhân và làm thay đổi diện mạo kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp.

Bỉm Sơn là vùng đất giàu tiềm năng, với lịch sử phát triển phong phú và những giá trị văn hóa cao đẹp được bảo tồn Đảng bộ và nhân dân Bỉm Sơn có đủ tinh thần và khả năng để thực hiện thành công đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng, nhằm phát triển Bỉm Sơn thành một thị xã vững mạnh, trở thành đầu tàu trong vùng kinh tế động lực phía Bắc tỉnh Thanh Hóa.

Bỉm Sơn, từ những khó khăn ban đầu, đã phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện tinh thần yêu nước và cách mạng của nhân dân Dân số Bỉm Sơn đã tăng từ 22.800 người vào năm 1977 lên 55.940 người hiện nay, với tỷ lệ nam giới chiếm 50,5% và nữ giới 49,5% Hơn 14% dân số có trình độ cao đẳng và 22,5% có trình độ trung học chuyên nghiệp Đặc biệt, Bỉm Sơn là nơi sinh sống của 12 dân tộc, chủ yếu là người Kinh.

Bỉm Sơn, với tiềm năng và truyền thống quý báu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nổi bật với phẩm chất chịu khó và năng động của con người Họ nhanh chóng tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các ngành công nghiệp như cơ khí chế tạo, dệt may, và phát triển khu đô thị, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

1.2.2 Bỉm Sơn - với truyền thống văn hoá

Bỉm Sơn, vùng đất có nền văn hoá lâu đời và phong phú, nằm ở địa đầu xứ Thanh, đã hình thành một nền văn hoá đa dạng, vừa dung nạp vừa lan toả Nơi đây nổi tiếng với nhiều truyền thuyết dân gian, như câu chuyện về công chúa Liễu Hạnh và chàng Từ Thức, thể hiện đời sống nội tâm phong phú của người dân Những tên làng, núi, sông tại Bỉm Sơn không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn là cốt lõi của các câu chuyện lý thú, phản ánh lòng yêu quê hương, khát vọng vượt qua khó khăn và tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng nơi đây.

Chủ tr-ơng xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn của Đảng và Nhà n-ớc

Cuối thập kỷ 60, trong bối cảnh cuộc chiến tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra chiến lược xây dựng đất nước để chuẩn bị cho công cuộc kiến thiết sau khi thống nhất Nhà nước đã lên kế hoạch cho các công trình lớn như nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhà máy nhiệt điện Phả Lại, và cầu Thăng Long Để đáp ứng nhu cầu xi măng cho các dự án xây dựng, Đảng và Nhà nước đã quyết định xây dựng một nhà máy xi măng có công suất lớn tại khu vực Bỉm Sơn.

Mục đích của chủ tr-ơng này là:

Sau khi hoàn thành xây dựng, nhà máy sẽ mang lại hiệu quả kinh tế và quốc phòng to lớn cho đất nước, đồng thời hình thành khu công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng lớn nhất Bắc miền Trung Nhà máy sẽ cung cấp xi măng cho toàn quốc, phục vụ các công trình trọng điểm như nhà máy thủy điện Hòa Bình, cầu Thăng Long, và nhiệt điện Phả Lại Trước mắt, nó sẽ hỗ trợ xây dựng lại hệ thống giao thông bị tàn phá bởi chiến tranh, giải quyết tình trạng khan hiếm xi măng, khi nguồn cung cấp hiện tại chỉ dựa vào xi măng Hải Phòng và một phần từ xi măng Hà Tiên.

Vào thứ hai, chúng ta sẽ tập trung vào việc tạo ra hàng vạn việc làm, nhằm xây dựng đội ngũ công nhân hiện đại với trình độ kỹ thuật cao Điều này bao gồm việc nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật sản xuất xi măng và làm chủ các công đoạn trong một nhà máy hiện đại, đồng thời tiếp nhận công nghệ và kỹ thuật từ sự hỗ trợ của Liên Xô.

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đóng vai trò là khu công nghiệp lớn, hình thành trung tâm kinh tế phía Bắc tỉnh Thanh Hoá Đồng thời, nhà máy này thu hút nguồn nhân lực dồi dào từ tỉnh và các tỉnh phía Bắc miền Trung, góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hoá nhanh chóng tại vùng đồi núi Bỉm Sơn.

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn không chỉ là một công trình quan trọng trong ngành xây dựng mà còn mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc, thể hiện tình đoàn kết và hữu nghị giữa nhân dân Liên Xô và Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh.

Đảng và Nhà nước ta đã nhanh chóng chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn, nhằm phát huy những ý nghĩa to lớn của dự án này.

B-ớc đầu xây dựng nhà máy (1968 - 1977)

2.2.1 Tiến hành công tác khảo sát thăm dò địa chất (1968 - 1974)

Vào ngày 15/10/1968, trong bối cảnh khu IV bị đế quốc Mỹ tấn công ác liệt, Tổng cục địa chất đã được sự đồng ý của Nhà nước giao nhiệm vụ cho Đoàn 306 (trước đây là Đoàn 46) tiến hành khảo sát địa tầng tại khu vực Bỉm Sơn - Tam Điệp Mục tiêu của cuộc khảo sát là xác định tài nguyên khoáng sản nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng một nhà máy xi măng.

Vào ngày 10/2/1969, cuộc khảo sát thăm dò đã được tiến hành tại mỏ đá vôi Yên Duyên, mỏ đá phiến sét Cổ Đam, mỏ puzơla Long Khê và nhiều khu vực địa tầng thuộc Bỉm Sơn, với diện tích khảo sát lên tới 10 km².

Trong quá trình khảo sát, khu vực Bỉm Sơn chứng kiến sự ra đời của nhiều nhà máy mới Kể từ ngày 24/7/1971, xí nghiệp gạch Bỉm Sơn được thành lập, sau đó là các cơ sở gạch Ba Lan, gạch Bungari, gạch plôc và gạch lát Hung Năm 1972, đồng chí Đỗ Mời, Chủ nhiệm Uỷ ban Xây dựng Nhà nước, đã có chuyến thị sát và kiểm tra thực địa tại Bỉm Sơn.

Năm 1973, nghiên cứu của đoàn địa chất 46 cho thấy vùng Bỉm Sơn có nguồn đá vôi và đá phiến sét chất lượng tốt, đủ điều kiện xây dựng nhà máy xi măng với công suất 2 triệu tấn/năm Ngoài đá vôi và đất sét, khu vực này còn có thể sản xuất các sản phẩm khác như Sôđa, đất đèn, phụ gia, giấy và thủ tinh.

Vào ngày 16/3/1974, dựa trên các dữ liệu khoa học về tài nguyên và vị trí của Bỉm Sơn, Đảng và Nhà nước đã quyết định xây dựng một nhà máy xi măng hiện đại với công suất lớn nhất Việt Nam tại khu vực này.

2.2.2 Chuẩn bị cơ sở vật chất (1974 - 1977)

B-ớc đầu chuẩn bị cơ sở vật chất:

Sau khi tiến hành khảo sát địa chất tại Bỉm Sơn, kế hoạch xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã được xác định Vị trí xây dựng và nguồn nguyên liệu cung cấp cho nhà máy cũng đã được chính thức công nhận.

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn tọa lạc cách ga xe lửa Bỉm Sơn khoảng 3km về phía đông bắc, chiếm diện tích 50ha trong thung lũng có trữ lượng lớn đá vôi và đất sét, hai nguyên liệu chính Vị trí của nhà máy được thiết kế để phục vụ thị trường tiêu thụ tại các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Thái Bình, Ninh Bình và Nam Hà.

Về mặt vị trí địa lý nhà máy xi măng Bỉm Sơn có những đặc điểm nh-:

-Nhà máy nằm sát vùng nguyên liệu chính:

Đá vôi tại dãy núi Tam Điệp và các khu vực lân cận có trữ lượng lên đến 270 triệu tấn, với hàm lượng MgO và SiO2 cao, rất thuận lợi cho việc sản xuất vôi và xi măng.

Đất sét dùng để sản xuất xi măng nằm dọc theo trục đường B, từ ngã tư đến khu chuyên gia, với trữ lượng lên đến 64 triệu tấn Nguyên liệu này được khai thác từ mỏ Cổ Đam, cách nhà máy khoảng 2 km.

Ngoài hai nguyên liệu chính, xỉ pirit được sử dụng như một nguyên liệu điều chỉnh trong phối liệu Đây là chất thải từ nhà máy Supe - Phốt phát Lâm.

Thao tỉnh Phú Thọ Xỉ pirit đ-ợc vận chuyển về nhà máy bằng đ-ờng sắt Thạch cao mua ở Lào và vận chuyển từ Quảng Trị ra Bỉm Sơn

Nhà máy sử dụng than cám số 3 Hòn Gai làm nhiên liệu, được vận chuyển bằng đường thủy từ Quảng Ninh về cảng Ninh Phúc, tỉnh Ninh Bình Than được chuyển tiếp bằng đường sắt trực tiếp đến nhà máy Ngoài ra, than Na Dương loại 1 cũng được khai thác và sử dụng.

Lạng Sơn đ-ợc vận chuyển bằng đ-ờng sắt về Bỉm Sơn

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được xây dựng với sự hợp tác to lớn từ nhân dân Liên Xô, theo thỏa thuận giữa chính phủ Việt Nam và Liên Xô Liên Xô đã cung cấp toàn bộ công nghệ, trang thiết bị hiện đại và thiết kế kỹ thuật cho nhà máy, với hai dây chuyền sản xuất có công suất 1,2 triệu tấn xi măng mỗi năm.

Liên Xô đã hỗ trợ Việt Nam một cách toàn diện từ thiết kế đến cung cấp thiết bị máy móc tiên tiến Họ cũng cử một đội ngũ chuyên gia có trình độ cao sang Việt Nam để giúp lắp đặt, xây dựng, vận hành và hiệu chỉnh các nhà máy.

Việc xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã tận dụng được vị thế thuận lợi từ bốn yếu tố cơ bản: thị trường tiêu thụ rộng lớn, nguồn nguyên vật liệu phong phú, giao thông thuận lợi và nguồn nhân lực sản xuất dồi dào, cùng với sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên gia Liên Xô Những điều kiện này tạo nên nền tảng chiến lược vững chắc cho sự phát triển của Nhà máy xi măng Bỉm Sơn.

2.2.3 Tiến hành xây dựng nhà máy (1974 - 1977)

Sau khi hoàn thành xây dựng cơ sở vật chất ban đầu, công trường Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã chuyển sang giai đoạn mới, tập trung vào tổ chức thi công lắp đặt và xây dựng nhà máy.

Hoàn thành xây dựng nhà máy và đi vào sản xuất, phát triển (1982 - 2004)

2.3.1 Hoàn thành xây dựng nhà máy:

Sau 5 năm, kể từ ngày khởi công xây dựng (năm 1976), với công sức của hàng ngàn công nhân Việt Nam sát cánh cùng hàng trăm chuyên gia Liên Xô, ngày 22/12/1981, lò nung số 1 đi vào sản xuất, vào 10 giờ sáng cùng ngày, mẻ Clanhke đầu tiên đã ra lò tr-ớc sự cảm động và vui mừng của hàng nghìn cán bộ, công nhân viên Việt Nam và Liên Xô

Vào ngày 28/12/1981, Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã chính thức ra mắt sản phẩm xi măng P400 mang nhãn hiệu "Con voi", đánh dấu sự hoàn thành trong quá trình xây dựng nhà máy Sản phẩm xi măng Bỉm Sơn đã được phân phối rộng rãi trên toàn quốc, góp phần quan trọng vào việc xây dựng các công trình mới cho Tổ Quốc và phục vụ nhu cầu của nhân dân.

Dựa trên những thành tựu đạt được từ dây chuyền sản xuất số 1, vào tháng 2 năm 1982, toàn bộ cán bộ và công nhân trong công trường đã tập trung vào việc thi công xây lắp dây chuyền sản xuất số mới.

2 Đến đầu tháng 11/1983, dây chuyền sản xuất số 2 đã hoàn thành và chính thức đi vào sản xuất

Song song với việc hai dây chuyền đi vào sản xuất, từ năm 1983 đến năm

Năm 1985, các đơn vị trên công trường tiếp tục hoàn thiện các phần còn lại của nhà máy Đến cuối tháng 1 năm 1985, nhà máy đã được xây dựng hoàn chỉnh và chính thức đi vào hoạt động.

Vào ngày 3/2/1985, lễ khánh thành nhà máy đã được tổ chức trọng thể với sự tham gia của đồng chí Đỗ M-ời, Uỷ viên Bộ Chính trị, và đồng chí V.N Sapơrin, đại sứ Liên Xô tại Việt Nam Sự kiện diễn ra trước hàng vạn cán bộ, công nhân, bộ đội và những người lao động Việt Nam, cùng với các cán bộ, chuyên gia Liên Xô, cũng như phóng viên báo chí trong và ngoài nước.

2.3.2 B-ớc đầu nhà máy đi vào tổ chức sản xuất:

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được xây dựng với sự hợp tác và hỗ trợ từ Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô, mang đến dây chuyền công nghệ sản xuất xi măng hiện đại nhất Việt Nam thời bấy giờ Quy trình sản xuất hoàn toàn cơ giới hóa và một phần tự động hóa, kết hợp với trang thiết bị máy móc tiên tiến Ngay sau khi quyết định thành lập nhà máy được ban hành, bộ máy quản lý đã nhanh chóng được thiết lập, với Ban Giám đốc đầu tiên gồm giám đốc, phó giám đốc và 4 phòng ban hỗ trợ.

Trước khi nhà máy bắt đầu sản xuất, việc đào tạo đội ngũ công nhân là ưu tiên hàng đầu Song song với quá trình xây dựng, một lớp công nhân đã được đào tạo gấp rút Nhờ đó, ngay khi sản xuất những bao xi măng đầu tiên, nhà máy đã có đội ngũ cán bộ công nhân viên đáp ứng yêu cầu sản xuất, với số lượng và trình độ chuyên môn không ngừng tăng lên: Năm 1980, nhà máy có 907 cán bộ, trong đó có 1 Phó tiến sĩ, 58 người có trình độ đại học, 68 người có trình độ trung học và 757 công nhân kỹ thuật Đến năm 1982, số công nhân đã tăng lên 1.583 và năm 1985 là 2.771, trong đó có 547 nữ công nhân Hiện nay, tổng số công nhân đã lên đến 3.000 người Đội ngũ công nhân chủ yếu là thanh niên ham học hỏi, dễ tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật, phần lớn là con em từ Bỉm Sơn và các địa phương của tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình.

Sau khi thành lập, nhà máy xi măng đã gặp nhiều khó khăn do cơ chế quản lý hành chính tập trung và thiếu hụt nguồn lực như điện, than, và công nhân Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhà máy đã vượt qua thử thách và hoàn thành kế hoạch sản xuất Các thiết bị chính của nhà máy đã hoạt động vượt công suất thiết kế, với lò nung đạt 76 tấn/giờ và máy nghiền xi măng đạt 80 tấn/giờ So với năm 1982, công suất bình quân của một số thiết bị chính đã tăng từ 5% đến 20%, trong đó máy nghiền nguyên liệu từ 100 tấn/giờ năm 1982 đã tăng lên 120 tấn/giờ năm 1983 Đặc biệt, tháng 11 năm 1983, công suất đạt 143 tấn/giờ Tổng sản xuất và tiêu thụ xi măng đã tăng từ 131.438 tấn năm 1982 lên 292.485 tấn năm 1983, tương ứng với mức tăng 93%.

Đến năm 1984, sau hai năm sản xuất, bộ máy quản lý đã ổn định, đội ngũ công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng Công suất máy móc và năng suất lao động được cải thiện, giúp nhà máy hoàn thành vượt mức kế hoạch với 459.022 tấn xi măng sản xuất và tiêu thụ, đạt 101,1% kế hoạch, tăng 55% so với năm 1983.

Năm 1985, nhà máy đã sản xuất và tiêu thụ 426.828 tấn xi măng bao và rời, đạt 103,7% kế hoạch Đặc biệt, trong năm này, nhà máy cũng đã khánh thành toàn bộ dây chuyền sản xuất và đạt mốc 1 triệu tấn xi măng.

Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã ghi nhận thành quả 4 năm hoạt động, sản xuất 1.329.773 tấn xi măng đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, vượt qua nhiều thử thách trong cơ chế hành chính quan liêu Đây là kết quả lao động của hàng vạn công nhân, cán bộ và chuyên gia Liên Xô, đánh dấu sự trưởng thành trong giai đoạn đầu của nhà máy Thành quả này không chỉ thể hiện sự lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mà còn phản ánh tình cảm đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Liên Xô và Việt Nam.

2.3.3 Nhà máy xi măng Bỉm Sơn trong thời kỳ đổi mới(1986 - 2003)

Trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa từ năm 1986 đến 1990, Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang hạch toán kinh tế xã hội chủ nghĩa, theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI Nhờ sự hỗ trợ của chuyên gia Liên Xô, cán bộ công nhân viên chức đã làm chủ thiết bị và nâng cao hiệu quả khai thác Kết quả là sản lượng xi măng năm 1990 đạt hơn 1 triệu tấn, tăng trưởng liên tục qua từng năm.

Từ năm 1988 đến 1992, Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã sản xuất 4,7 triệu tấn xi măng, gấp đôi so với 5 năm trước Lợi nhuận hàng năm tăng cao, giúp nâng cao thu nhập hàng tháng của cán bộ công nhân viên chức, cải thiện đời sống và tạo sự ổn định.

Ngày 1/9/1993, Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được chuyển đổi thành Công ty xi măng Bỉm Sơn, kết hợp giữa Nhà máy và Công ty kinh doanh xi măng Bỉm Sơn, với tổng số công nhân viên lên tới 3.000 người Trong đó, có 237 công nhân có trình độ đại học, 262 công nhân có trình độ trung cấp và cao đẳng, cùng gần 2.000 công nhân kỹ thuật, trong đó số nữ chiếm 762 người.

Từ năm 1993, Công ty đã áp dụng mô hình kết hợp giữa sản xuất và tiêu thụ, trong bối cảnh các chuyên gia Liên Xô rút lui do biến động chính trị, dẫn đến việc thiếu hỗ trợ kỹ thuật và nguồn cung vật tư Trong giai đoạn khó khăn này, tinh thần tự lực, sáng tạo của công nhân Việt Nam đã được phát huy, giúp nhà máy sản xuất 1.216 triệu tấn xi măng, vượt công suất thiết kế Tuy nhiên, từ năm 1994, nhà máy đối mặt với thách thức cạnh tranh gay gắt do thiết bị cũ kỹ, giá thành sản phẩm cao Để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của sản phẩm xi măng Bỉm Sơn mà không làm mất việc cho người lao động, lãnh đạo Công ty đã có những định hướng quan trọng.

Bỉm Sơn - B-ớc phát triển từ thị trấn lên thị xã

Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Bỉm Sơn là một vùng quê nghèo đói, chủ yếu dựa vào nông nghiệp tự cấp tự túc Sau Cách mạng, nhân dân Bỉm Sơn tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ để giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước Tuy nhiên, do chiến tranh, nền kinh tế Bỉm Sơn vẫn chủ yếu là nông nghiệp đơn giản, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn Từ sau ngày thống nhất, kinh tế Bỉm Sơn đã có sự chuyển biến mạnh mẽ với sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, trong đó công nghiệp đóng vai trò nổi bật Công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đa dạng, hiện nay bao gồm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và nông lâm nghiệp, với công nghiệp là lĩnh vực quan trọng hàng đầu.

Bỉm Sơn là vùng đất giàu tiềm năng với nhiều tài nguyên phong phú, đặc biệt là nguyên liệu cho ngành xây dựng Khu vực này đã thu hút nhiều nhà máy và doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu xi măng cho công cuộc xây dựng đất nước Với nguồn nguyên liệu dồi dào như đá vôi và đá phiến sét có chất lượng tốt, Đảng và Nhà nước đã quyết định xây dựng một nhà máy xi măng tại Bỉm Sơn, nhằm phát huy tiềm năng sẵn có và giúp địa phương thoát khỏi tình trạng đói nghèo.

Việc xây dựng Nhà máy sản xuất xi măng tại Bỉm Sơn mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước, đồng thời giúp tiếp thu công nghệ tiên tiến và tạo ra hàng vạn việc làm Dự án này còn góp phần hình thành một trung tâm kinh tế và văn hóa quan trọng tại phía Bắc tỉnh Thanh Hoá.

Sự hồi sinh của cả nước đã thúc đẩy tốc độ đô thị hóa khu vực Bỉm Sơn, tạo nền tảng cho sự phát triển Ngày 16/8/1975, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất thành lập thị trấn Bỉm Sơn thuộc tỉnh.

Ngày 22/12/1975, Thủ t-ởng Chính phủ ra quyết định số 338 TTG cấp cho

Bộ Xây dựng đã quyết định cấp đất để xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn tại xã Hà Lan, huyện Hà Trung, tạo ra một luồng sinh khí mới cho vùng đất Bỉm Sơn, nơi giàu tài nguyên nhưng còn tiềm năng Quyết định này không chỉ thay đổi căn bản bộ mặt khu vực mà còn đánh dấu thời kỳ cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập và thống nhất Việc xây dựng nhà máy xi măng cũng đặt ra yêu cầu về tổ chức và quản lý xã hội cho khu công nghiệp Bỉm Sơn, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển Ngày 29/6/1977, theo quyết định 140 BT, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng đã phê chuẩn việc thành lập thị trấn Bỉm Sơn trực thuộc tỉnh Thanh Hoá.

Thị trấn Bỉm Sơn, mới được thành lập, đang trong giai đoạn phát triển với nhiều thách thức về tổ chức và đời sống sinh hoạt của người dân Công trường nhà máy xi măng đang trong quá trình xây dựng, yêu cầu đảm bảo an toàn cho chuyên gia và công nhân Sau nhiều năm nỗ lực, vào ngày 4/3/1980, nhà máy xi măng Bỉm Sơn chính thức đi vào sản xuất Sự phát triển của nhà máy đặt ra yêu cầu cao hơn về quản lý hành chính để đáp ứng nhu cầu xã hội, bao gồm lương thực, an ninh và nhân lực Mặc dù thị trấn đã cố gắng, nhưng bộ máy hành chính vẫn chưa hoàn thiện Để thúc đẩy phát triển, vào ngày 18/12/1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định 157/HĐBT thành lập thị xã Bỉm Sơn, đánh dấu bước phát triển mới trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Thị xã Bỉm Sơn bao gồm thị trấn Bỉm Sơn và thị trấn nông trường.

Hà Trung là một thị xã có diện tích tự nhiên 6.681 ha, bao gồm hai xã Hà Lan và Quang Trung Vào ngày 29/9/1983, theo Quyết định số 111/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, ba phường Ba Đình, Lam Sơn và Ngọc Trạo đã được thành lập Đến tháng 2/1991, thị trấn nông trường Hà Trung được đổi tên thành phường Bắc Sơn.

Sự thay đổi hành chính tại Bỉm Sơn phản ánh quá trình phát triển không ngừng của vùng đất này, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trong quản lý nhà nước Thay đổi này không chỉ nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế của vùng đất giàu khoáng sản, mà còn phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sự chuyển mình từ thị trấn lên thị xã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho Bỉm Sơn, một vùng đất trước đây còn hoang sơ, nghèo nàn và lạc hậu với nhiều tiềm năng chưa được khai thác Sự hình thành của thị xã gắn liền với quá trình phát triển của nhà máy, và mỗi bước tiến của nhà máy chính là minh chứng cho sự phát triển của thị xã.

Từ khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền, thị xã đã tích cực thúc đẩy phong trào lao động sản xuất và phát triển các hoạt động quần chúng trên nhiều lĩnh vực, nhằm lập thành tích chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng vào tháng 3 năm 1982.

Dựa trên tình hình và đặc điểm của thị xã, Đại hội Đảng bộ thị xã Bỉm Sơn lần thứ II (1985) đã vận dụng các quan điểm lớn cùng nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra, xác định nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân thị xã Bỉm Sơn trong những năm tới.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản và chế độ làm chủ tập thể, cần khai thác tiềm năng tự nhiên và công nghiệp, đồng thời đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp Cần chú trọng công tác phân phối, phục vụ đời sống công nhân và giải quyết việc làm cho con cái họ Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội, tăng cường vận động quần chúng, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh Mục tiêu là phát triển thị xã công nghiệp Bỉm Sơn trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa phía Bắc tỉnh, với nền kinh tế mạnh mẽ và an ninh quốc phòng vững chắc.

Từ khi thành lập, ngày 18/12/1981, đến hết Đại hội Đảng bộ lần thứ II

Năm 1985, Đảng bộ và nhân dân Bỉm Sơn đã nỗ lực vượt qua những khó khăn để xây dựng và phát triển địa phương Ngay từ những ngày đầu, Bỉm Sơn nhận được sự quan tâm sâu sắc từ Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền tỉnh Thanh Hóa, điều này đã giúp địa phương vượt qua thử thách Chưa đầy 5 năm sau khi thành lập, thị xã Bỉm Sơn đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình phát triển.

Thành tựu nổi bật đầu tiên là việc xác lập và ổn định hiệu quả hệ thống chính trị cấp thị xã, với cơ cấu tổ chức ngày càng hoàn thiện Điều này không chỉ đảm bảo thực hiện thành công các nhiệm vụ chính trị mà còn tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng Bỉm Sơn trở thành một thị xã công nghiệp phát triển, giàu đẹp và văn minh.

Thành tựu thứ hai của Đảng bộ Bỉm Sơn là sự lãnh đạo hiệu quả trong việc tổ chức phục vụ đời sống và đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cho khu vực công nghiệp đang phát triển Đảng bộ đã thu hút một đội ngũ cán bộ, công nhân đa dạng, bao gồm nhiều chuyên gia nước ngoài từ Liên Xô và Bungari.

Đóng góp của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với quá trình hình thành và phát triển của thị xã

Thị xã Bỉm Sơn đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự hiện diện của Nhà máy xi măng, thể hiện rõ qua khẩu hiệu hành động của Thị uỷ: "Thị xã Bỉm Sơn từ xi măng mà đi lên, vì xi măng mà phục vụ" Mối quan hệ giữa nhà máy và thị xã là sự hỗ trợ lẫn nhau, thúc đẩy sự phát triển chung Sự ra đời của nhà máy đã tạo ra một cụm công nghiệp lớn, trang bị máy móc hiện đại, biến vùng đất hoang sơ thành trung tâm sản xuất vật liệu xây dựng Sự hiện diện của nhà máy xi măng không chỉ thúc đẩy kinh tế mà còn ảnh hưởng tích cực đến đời sống xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh và quốc phòng, làm thay đổi toàn bộ diện mạo của Bỉm Sơn.

Hơn 20 năm qua, từ khi thành lập đến nay(1980 đến 2004),sản xuất kinh doanh của nhà máy liên tục phát triển với tốc độ cao Sản l-ợng xi măng hàng năm không ngừng tăng lên, nên doanh thu, lợi nhuận và ngân sách nộp nhà n-ớc không ngừng tăng lên (phụ lục 1) Đến năm 2003 sản l-ợng thực hiện là 2.006.259 tấn, doanh thu là 1.315.493 tỷ đồng, nộp ngân sách là 76,00 tỷ đồng bằng 100% kế hoạch năm, lợi nhuận 61,9 tỷ đồng Năm 2004, kế hoạch sản xuất của Công ty đặt ra là đạt lợi nhuận 40 tỉ đồng, nộp nhân sách nhà n-ớc 75 tỉ đồng [8;7]

Kết quả đạt được không chỉ đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, mà còn có vai trò thiết yếu trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hoá và thị xã Bỉm Sơn.

Xi măng Bỉm Sơn, nằm ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá, mang trong mình di sản lịch sử từ những tướng sỹ và nghĩa quân nổi tiếng như Bà Triệu, nhà Lê và Nguyễn Huệ Với hình ảnh con voi hiền lành nhưng mạnh mẽ, thương hiệu này cam kết trung thành với quyền lợi của người tiêu dùng và đảm bảo sự bền vững cho các công trình xây dựng khi sử dụng sản phẩm của mình.

Nhà máy đã thực hiện cải tạo hiện đại hóa, nâng công suất lên 1,8 triệu tấn/năm, với tổng số cán bộ công nhân viên chức hiện tại là 2.829 người Đặc biệt, số lượng cán bộ công nhân viên chức từ thị xã Bỉm Sơn chiếm tới 2/3 tổng số nhân lực của nhà máy.

Hàng năm, công ty tích cực tổ chức lao động và xây dựng định mức lao động, đơn giá tiền lương, cũng như chế độ phân phối tiền lương và tiền thưởng hợp lý theo nguyên tắc làm theo năng lực và hưởng theo lao động Nhờ đó, thu nhập của công nhân viên chức công ty trong nhiều năm qua đạt mức khá so với ngành xi măng và tỉnh Thanh Hoá.

Từ năm 1995 đến nay, thu nhập bình quân của người dân luôn đạt trên 1 triệu đồng Cụ thể, vào năm 2001, mức thu nhập bình quân đạt hơn 1,5 triệu đồng, và năm 2002, con số này đã vượt qua 2 triệu đồng/người/tháng.

B-ớc vào quý I/2003, lò 2 đã khẩn tr-ơng đi vào hoạt động, ngày 17/2/2003, những hạt Clinker đầu tiên ra lò, đánh dấu một b-ớc tr-ởng thành của công ty và đông thời đời sống của cán bộ, công nhân viên chức của công ty cũng đ-ợc nâng cao Sự thành công của dây chuyền cải tạo hiện đại hoá đã góp phần quan trọng về ổn định đời sống của công nhân viên chức công ty, thu nhập bình quân 3 triệu đồng/ng-ời/tháng, đời sống tinh thần đ-ợc nâng cao đã động viên khích lệ đ-ợc tinh thần thi đua lao động sản xuất của công nhân viên chức công ty Chế độ ăn ca cho cán bộ công nhân viên chức từ 7000đồng/xuất đã nâng lên 12.500 đồng/xuất và chế độ độc hại cũng đ-ợc nâng lên

Gần 3000 cán bộ công nhân của công ty, trong đó khu vực Bỉm Sơn chiếm 2/3 tổng số cán bộ và nhân viên chức.

Trong những năm gần đây, thu nhập của công nhân viên chức tại Bỉm Sơn đã tăng lên và ổn định, góp phần nâng cao đời sống kinh tế xã hội của cư dân nơi đây Khu vực chợ Bỉm Sơn đã trở nên sôi động hơn với sự đa dạng hàng hóa và sự ra đời của nhiều cửa hàng mới, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân, đặc biệt là cán bộ, công nhân viên nhà máy Hàng năm, Công ty xi măng Bỉm Sơn còn đầu tư hàng trăm triệu đồng để nâng cấp và sửa chữa chợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thương mại - dịch vụ.

Ngoài chợ trung tâm Bỉm Sơn, nhiều chợ phụ như chợ Ruồi, chợ Năm Ba, và chợ Ba Đình đã xuất hiện, cùng với sự phát triển của các cửa hàng, quán ăn và nhà nghỉ, nhằm đáp ứng nhu cầu của cán bộ, công nhân viên chức và người dân thị xã.

Sự phát triển mạnh mẽ của các mạng lưới thương mại và dịch vụ đã tạo ra những biến chuyển tích cực trong đời sống kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân trong vùng Đặc biệt, từ khi áp dụng công nghệ đổi mới và hiện đại hóa nhà máy, doanh thu và lợi nhuận của các công ty ngày càng gia tăng.

Công ty xi măng Bỉm Sơn đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế và ổn định đời sống xã hội cho cư dân địa phương, đồng thời thu hút hàng trăm thanh niên tốt nghiệp cao đẳng và đại học Năm 2003, công ty đã tuyển dụng hơn 10 kỹ sư là con em thị xã, tốt nghiệp từ các trường đại học kỹ thuật.

Sự phát triển ổn định của công ty xi măng tại Bỉm Sơn đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhờ vào điều kiện thuận lợi về tài nguyên khoáng sản và vị trí địa lý Đầu tư này hứa hẹn sẽ tạo ra cơ hội cho Bỉm Sơn hòa nhập vào xu thế phát triển của cả nước, đồng thời giải quyết vấn đề việc làm và ổn định đời sống cho người dân địa phương.

D-ới tác động chuyển biến quan trọng của công ty xi măng Bỉm Sơn, những năm qua, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của thị xã Bỉm Sơn đã đạt đ-ợc những kết quả quan trọng: Mức độ tăng tr-ởng kinh tế cao và vững chắc Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo h-ớng tích cực Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đ-ợc đầu t- đáng kể và t-ơng đối đồng bộ, đời sống nhân dân ngày càng đ-ợc cải thiện, số hộ giàu tăng, tỷ lệ hộ nghèo năm 2003 còn 5,5%, không còn hộ đói Đây là kết quả to lớn trên con đ-ờng đẩy lùi đói nghèo của thị xã

Từ năm 1990 - 2000, nền kinh tế của thị xã tăng tr-ởng nh- sau:

Các chỉ tiêu cơ bản 1990 2000

Tốc độ tăng b×nh qu©n n¨m (%)

- Giá trị sản xuất (tỷ đồng)

- Địa ph-ơng (tỷ đồng)

+ Công nghiệp xây dựng (tỷ đồng)

- Địa ph-ơng (tỷ đồng)

+Th-ơng mại - dịch vụ (tỷ đồng)

- Địa ph-ơng (tỷ đồng)

+ Nông - Lâm nghiệp (tỷ đồng)

- Địa ph-ơng (tỷ đồng)

+ Sản l-ợng l-ơng thực quy ra thóc (tấn)

- Thu nhËp b×nh qu©n ®Çu ng-êi (kg)

- Tỷ lệ tăng dân số

Từ năm 2000 - 2003, nền kinh tế của thị xã tăng tr-ởng cao và vững chắc đ-ợc thể hiện nh-:

- Tốc độ tăng tr-ởng kinh tế bình quân trong 3 năm đạt 12% (năm 2003 t¨ng 31,1% so víi n¨m 2002)

- Giá trị sản xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn năm 2003 đạt 1,978 tỷ đồng, tăng bình quân trong 3 năm là 11,8% (năm 2003 tăng 32,2% so với năm

- Giá trị hàng xuất khẩu đạt 621.000 USD, sản phẩm chủ yếu là tăm tĩnh, bột ngô, và sản phẩm sơn mài mỹ nghệ

- Tổng số vốn đầu t- xã hội trong 3 năm đạt 819 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách 38 tỷ đồng, các doanh nghiệp là 682 tỷ đồng.[18;2]

Ngày đăng: 27/07/2021, 16:21

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban chấp hành đảng bộ thị xã Bỉm Sơn, Lịch sử đảng bộ thị xã Bỉm Sơn, Tập II (1977 -2000). Nxb chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban chấp hành đảng bộ thị xã Bỉm Sơn," Lịch sử đảng bộ thị xã Bỉm Sơn
Nhà XB: Nxb chính trị Quốc gia
2. Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá, Tập I (1930-1999). Nxb trung tâm giáo dục chính trị tỉnh Thanh hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ", Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá, "Tập I (1930-1999)
Nhà XB: Nxb trung tâm giáo dục chính trị tỉnh Thanh hoá
3. Báo cáo của công đoàn công ty Xi măng Bỉm Sơn (8/200), tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh đời sống văn hoá - xã hội của công ty xi măng Bỉm sơn Thanh hoá. Hiện tại kho l-u trữ công ty xi măng Bỉm Sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo của công đoàn công ty Xi măng Bỉm Sơn (8/200"), tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh đời sống văn hoá - xã hội của công ty xi măng Bỉm sơn Thanh ho
4. Báo cáo của công ty xi măng Bỉm sơn (12/2002), tại hội đồng thi đua khen th-ởng các cấp. Hiện tại kho l-u trữ công ty xi măng Bỉm sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo của công ty xi măng Bỉm sơn (12/2002)," tại hội đồng thi đua khen th-ởng các cấp
5. Báo cáo của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn (12/2002), về hoạt động công tác nữ công năm 2002. Hiên tai kho l-u tr- công ty xi măng Bỉm sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn (12/2002"), về hoạt động công tác nữ công năm 2002
6. Báo cáo của công đoàn công ty xi măng bỉm sơn (6/2004), về việc h-ớng dẫn sinh hoạt hè và tổng số học sinh giỏi, học sinh tiên tiến năm học 2002 - 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo của công đoàn công ty xi măng bỉm sơn (6/2004)
7. Báo cáo thành tích của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn(8/2003), về thành tích của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn từ năm 1995 đến năm 2002. Hiện tại kho l-u trữ công ty xi măng Bỉm sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo thành tích của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn(8/2003)," về thành tích của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn từ năm 1995 đến năm 2002
8. Báo cáo của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn (1/2004), về phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn năm 2003. Hiên tại kho l-u trữcông ty xi măng Bỉm sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn (1/2004)," về phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn năm 2003". Hiên tại kho l-u trữ
9. Báo cáo của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn (7/2004), về phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ công tác công đoàn 6 tháng cuối năm 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo của công đoàn công ty xi măng Bỉm sơn (7/2004)
10. Báo cáo của uỷ ban nhân dân Thị xã Bỉm sơn (1/2002), về tình hình kinh tế xã hội năm 2004 và ph-ơng h-ớng nhiệm vụ năm 2002. Hiện tại đang kho l-u giữ Thị uỷ Bỉm sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo của uỷ ban nhân dân Thị xã Bỉm sơn (1/2002)," về tình hình kinh tế xã hội năm 2004 và ph-ơng h-ớng nhiệm vụ năm 2002
11. Báo cáo uỷ ban nhân dân Thị xã Bỉm sơn (1/2003), về tình hình kinh tế - xãhội năm 2002 và ph-ơng h-ớng, nhiệm vụ năm 2003. Hiện tại kho l-u trữthị uỷ Bỉm sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo uỷ ban nhân dân Thị xã Bỉm sơn (1/2003)," về tình hình kinh tế - xãhội năm 2002 và ph-ơng h-ớng, nhiệm vụ năm 2003. "Hiện tại kho l-u trữ
12. Báo cáo uỷ ban nhân dân thị xã Bỉm sơn (1/2004), về tình hình kinh tế - xã hội năm 2003 và ph-ơng h-ớng, nhiệm vụ 2004. Hiện tại kho l-u trữ thị uỷ Bỉm sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo uỷ ban nhân dân thị xã Bỉm sơn (1/2004)," về tình hình kinh tế - xã hội năm 2003 và ph-ơng h-ớng, nhiệm vụ 2004
13. Tổng công ty xi măng Việt Nam,công ty xi măng Bỉm sơn (2000), Xi măng Bỉm sơn 20 năm xây dựng và tr-ởng thành (1980 -2000), Nxb văn hoád©n téc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng công ty xi măng Việt Nam,công ty xi măng Bỉm sơn (2000), Xi măng Bỉm" s"ơn 20 năm xây dựng và tr-ởng thành (1980 -2000), Nxb văn hoá
Tác giả: Tổng công ty xi măng Việt Nam,công ty xi măng Bỉm sơn
Nhà XB: Nxb văn hoá "d©n téc
Năm: 2000
17. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá, Quyết định của chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh hoá về việc phê duyệt diều chỉnh quy hoạch chung xây d-ng Thị xã Bỉm sơn - Tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá
18. Thị uỷ Bỉm sơn (7/2004), đề án xây dựng và phát triển thị xã Bỉm sơn trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá phấn đấu sớm trở thành thành phố công nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thị uỷ Bỉm sơn (7/2004
14. Xi măng Bỉm sơn (1990), 10 năm xây dựng và tr-ởng thành (1980 - 1990). Nxbvăn hoá dân tộc Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w