1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Kẻ gỗ và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở huyện thạch hà, cẩm xuyên hà tĩnh

64 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 64
Dung lượng 424,14 KB

Cấu trúc

  • A. Mở đầu (5)
    • 1. Lý do chọn đề tài (0)
    • 2. Lịch sử vấn đề (7)
    • 3. Ph-ơng pháp nghiên cứu (8)
    • 4. Đối t-ợng và phạm vi đề tài (0)
    • 5. Bố cục đề tài (9)
  • B. Néi dung (10)
    • 1.2. Đặc điểm lịch sử - xã hội của huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên (0)
    • 2.2. Sự phấn đấu nỗ lực của nhân dân Hà Tĩnh để xây dựng hồ Kẻ Gỗ (24)
    • 2.3. Nhiệm vụ của hệ thống thuỷ nông Kẻ Gỗ (0)
      • 3.1.1. Tình hình sản xuất nông nghiệp (34)
      • 3.1.2. Kinh tế v-ờn và chăn nuôi (36)
      • 3.1.3. Đời sống kinh tế - xã hội của ng-ời dân huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên tr-ớc khi có Kẻ Gỗ (0)
      • 3.2.1. Vai trò của Kẻ Gỗ đối với việc phát triển nông nghiệp (38)
        • 3.2.1.1. Đối với nông nghiệp trồng trọt (38)
        • 3.2.1.2. Vai trò của Kẻ gỗ đối với phát triển kinh tế v-ên (45)
        • 3.2.1.3. Vai trò của Kẻ gỗ đối với phát triển đối với chăn nuôi (0)
      • 3.2.2. Vai trò của Kẻ gỗ đối với việc nâng cao đời sống của nhân dân hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên (0)
      • 3.2.3. Vai trò của Kẻ gỗ đối với việc làm thay đổi môi tr-ờng sinh thái (55)
      • 3.2.4. Tiềm năng du lịch sinh thái hồ Kẻ Gỗ (56)
  • C. KÕt luËn (59)
  • Tài liệu tham khảo (63)

Nội dung

Néi dung

Sự phấn đấu nỗ lực của nhân dân Hà Tĩnh để xây dựng hồ Kẻ Gỗ

Sau khi tiếp quản chính quyền ở Nghệ An, hai công trình quan trọng đã được xây dựng là đập nước Đô Lương và cống Mụ Bà ở Nam Đàn Tuy nhiên, Hà Tĩnh vẫn chưa có dự án nào, và việc xây dựng hồ Kẻ Gỗ hiện nay gặp nhiều khó khăn Đảng bộ Hà Tĩnh liên tục báo cáo để xin triển khai dự án hồ Kẻ Gỗ, nhưng do chiến tranh kéo dài, điều kiện thực hiện vẫn chưa được đáp ứng Bác Hồ đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện đời sống cho nhân dân Hà Tĩnh, khẳng định cần có những công trình để giúp người dân đổi đời.

Sau khi miền Bắc được hòa bình lập lại vào năm 1954, Đảng bộ Hà Tĩnh đã thảo luận về phương hướng phát triển thủy lợi, trong đó có kế hoạch xây dựng công trình Kẻ Gỗ.

Năm 1957 B²c Họ về thăm H¯ Tĩnh v¯ B²c đ± dặn “ph°i lúc họ sơ KÍ

Gỗ được nghiên cứu trước để chuẩn bị cho việc xây dựng khi có cơ hội Trong năm nay, Uỷ ban tỉnh đã tiến hành soạn thảo tài liệu kỹ thuật và thành lập tổ theo dõi thủy văn tại Kẻ.

Vào đại hội Đảng bộ Hà Tĩnh năm 1963, việc xây dựng đập Kẻ Gỗ đã được đề xuất lên trung ương nhưng chưa được quyết định Do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, thiết kế công trình phải tạm dừng, tuy nhiên các vấn đề kỹ thuật vẫn tiếp tục được nghiên cứu.

Với sự quan tâm của Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh, vào năm 1967, Bộ Thủy Lợi đã cử một nhóm khảo sát đến Cẩm Xuyên Đến tháng 12 năm 1974, Chính phủ đã phê duyệt nhiệm vụ thiết kế hồ chứa nước Kẻ Gỗ.

Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, với tinh thần phấn khởi sau khi đánh bại Mỹ và khát vọng xây dựng quê hương tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ đã được gấp rút thi công tại Hà Tĩnh trong giai đoạn 1975 đến 1979.

Hồ Kẻ Gỗ có diện tích rộng 223 km², với lòng hồ dài 22 km và rộng 2,9 km Hồ có trữ lượng nước lên tới 345 triệu m³, cung cấp nước cho 24.136 héc ta, trong đó diện tích thực tế được tưới là 15.000 héc ta.

Hồ sơ thiết kế kênh mương chủ yếu dựa vào tài liệu của người Pháp, chỉ có một số điều chỉnh nhỏ Trong khi đó, thiết kế tuyến đập được thực hiện hoàn toàn bởi chúng ta, không theo dự kiến ban đầu của Pháp mà chỉ đến hết huyện Cẩm Xuyên.

Công trình thuỷ nông Kẻ Gỗ, một giấc mơ ngàn đời của nhân dân Hà Tĩnh, đặc biệt là huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên, đã trở thành hiện thực Như nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý từng viết, “Kẻ Gỗ là đây bao năm đợi tháng chờ.” Dự án này không chỉ đảm bảo nguồn nước cho hai huyện Cẩm Xuyên và Thạch Hà mà còn hạn chế lũ lụt và xói mòn đất Ngoài ra, công trình còn kết hợp với việc sản xuất thuỷ điện, tạo hồ cá, cải thiện môi trường sinh thái và khí hậu, đồng thời là điểm đến du lịch lý tưởng cho du khách.

Công trình Kẻ Gỗ bao gồm nhiều hạng mục quan trọng như phần đầu mối, một đập chính và ba đập phụ Ngoài ra, còn có một công trình xả lũ, một cống lấy nước, và một nhà máy thủy điện được đặt sau cống lấy nước Hệ thống kênh mương gồm kênh chính cùng với các kênh cấp 1 và cấp 2, tạo nên một mạng lưới thủy lợi hoàn chỉnh.

3, cấp 4 dài 90 km, và 584 công trình trên kênh [10;229]

Dự kiến thời gian xây dựng công trình Kẻ Gỗ kéo dài 6 năm, trong đó 5 năm là giai đoạn chính Tuy nhiên, từ tháng 2 năm 1975, khi đất nước chưa thống nhất và tỉnh Nghệ Tĩnh chưa được thành lập, công trường Kẻ Gỗ đã bắt đầu được triển khai Do phải tập trung nguồn lực cho cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, Hà Tĩnh chỉ mới thực hiện một số công việc như thành lập ban chỉ huy công trường, làm 17 km đường giao thông, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, và sản xuất vật liệu xây dựng như cát, sỏi Tinh thần quyết tâm của nhân dân được thể hiện qua câu nói “có một viên gạch, một lao động cũng dành cho xây dựng họ Kẻ Gỗ”.

Tháng 6 năm 1975, Uỷ ban tỉnh huy động 2000 lao động thi công trong mùa m-a Cuối năm 1975 đã triển khai 2500 lao động thủ công làm kênh m-ơng và đ-a xe, máy hoạt động trên khu vực đầu mối Những hoạt động chuẩn bị đó đã thể hiện rõ hơn tinh thần, nguyện vọng của nhân dân và quyết tâm của các cấp, các ngành của tỉnh Hà Tĩnh

Ngày 26 tháng 3 năm 1976 đánh dấu khởi công chính thức công trình thủy nông Kẻ Gỗ, được phát động bởi Bộ Thủy lợi và Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh.

Tháng 12 năm 1975 Quốc Hội Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá V, tại kì họp thứ hai đã quyết nghị phê chuẩn hợp nhất một số tỉnh thành mới , trong đó có việc hợp nhất hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh

Sau khi hợp nhất hai Th-ờng vụ, Tỉnh uỷ đã quyết tâm phối hợp với Bộ trưởng Bộ Thuỷ Lợi để huy động toàn lực, nhằm rút ngắn tiến độ thi công công trình đại thuỷ nông Kẻ Gỗ từ 6 năm xuống còn 3 năm, với mục tiêu chiến thắng trận đầu.

Nhiệm vụ của hệ thống thuỷ nông Kẻ Gỗ

3.1.1 Tình hình sản xuất nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, đặc biệt là nước mưa trong vụ chiêm Khi gió mùa Đông Bắc đến, nước trong ruộng sẽ cạn dần từ tháng 2 đến tháng 3 Mặc dù có thể nhận được khoảng 1000mm mưa trong giai đoạn lúa đẻ đến khi chín, nhưng năng suất thu hoạch thường rất thấp Hạn hán thường xảy ra trong giai đoạn lúa trổ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng nông sản.

Hạn hán diễn ra khoảng vài ba năm một lần trong thời kỳ cấy lúa, gây chậm trễ trong thời vụ và kéo dài thời gian sinh trưởng Khi lúa trổ, nếu gặp gió Lào, năng suất sẽ bị giảm đáng kể Thiếu nước cũng khiến việc áp dụng giống lúa mới và các tiến bộ kỹ thuật trở nên khó khăn Nếu lúa trổ sớm do hạn hán và gặp gió mùa Đông Bắc, hậu quả sẽ càng nghiêm trọng hơn.

Trong vụ chiêm ở đây diện tích trồng khoai lang gần bằng diện tích trồng lúa Khoai sắn là nguồn thu hoạch quan trọng của từng hộ gia đình ở ®©y

Thiếu nước tưới đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lúa và các loại cây hoa màu, với năng suất cây lúa thấp nhất chỉ đạt 10 tạ/ha và cao nhất cũng chỉ 14 tạ/ha.

Vào năm 1970, huyện Cẩm Xuyên có năng suất lúa cả năm đạt 12 tạ/ha, trong khi huyện Thạch Hà là 11,9 tạ/ha và thị xã Hà Tĩnh đạt 13,48 tạ/ha Cụ thể, năng suất lúa vụ Đông Xuân của Cẩm Xuyên là 13,08 tạ/ha, Thạch Hà 11,58 tạ/ha, và thị xã Hà Tĩnh 13 tạ/ha Đối với vụ mùa, Cẩm Xuyên đạt năng suất 16,63 tạ/ha, Thạch Hà 12,04 tạ/ha, và thị xã Hà Tĩnh 14 tạ/ha.

Sản l-ợng khoai lang năm cao nhất cũng chỉ đạt 60 tạ/ha

Về diện tích gieo trồng hàng năm (lấy số liệu năm 1973 - đơn vị ha):

Loại cây Cả năm Đông Xuân Hè Thu

Sản xuất vụ mùa gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các tháng 6, 7, 8 khi hầu như không có mưa, khiến ruộng đồng khô nẻ và chỉ có thể cày khi có trận mưa 20 đến 30 mm Nông dân tiếp tục phải đối mặt với lũ lụt và thời tiết lạnh giá khi lúa trổ, dẫn đến năng suất lúa thường thấp và bấp bênh hơn so với vụ chiêm, chỉ đạt bình quân 5 đến 6 tạ/ha Nhiều năm, nông dân còn phải chịu cảnh mất trắng, nạn đói thường xuyên xảy ra, buộc họ phải trồng khoai và sắn để có lương thực vào cuối năm.

L-ợng m-a vào tháng 9 tháng 10 rất lớn th-ờng xảy ra lũ quét Vùng kẹp giữa hai sông Rào Cái và sông Gia Hội có diện tích 13.058 ha nh-ng trong đó ruộng có cao trình + 4,5m + 0,5m đến 12.147 héc ta, hàng năm đều có lũ quét gây thiệt hại lớn Đặc biệt là trận lũ lịch sử năm 1934 là năm có lũ lớn nhất từ tr-ớc tới nay, diện tích giữa hai sông Gia Hội và sông Cầu Phủ ngập 12.147 héc ta, làm mất 93% diện tích, tổng diện tích bị ngập toàn khu t-ới là 19000ha

Do thường xuyên xảy ra lũ quét, việc áp dụng biện pháp liên hoàn trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn Đặc biệt, cây lúa mùa cần phân bón để phát triển, nhưng việc bón phân lại có nguy cơ bị lũ cuốn trôi, gây lãng phí công sức và tài nguyên.

Lũ mang theo trứng của sâu bệnh từ đồi núi, gây hại cho lúa, đặc biệt là sâu keo và sâu cắn dé Ngoài ra, lũ cũng làm sụp lở kênh, mương, đường sá và bờ vùng, khiến đất trở nên cứng và năng suất cây trồng giảm Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến giá thành nông sản cao và giá trị ngày công thấp trong khu vực.

3.1.2 Kinh tế v-ờn và chăn nuôi

Do thiếu n-ớc nên kinh tế v-ờn và chăn nuôi không có điều kiện để phát triển

3.1.3 Đời sống kinh tế- xã hội của ng-ời dân Thạch Hà, Cẩm Xuyên tr-ớc khi Kẻ Gỗ ra đời

Trước khi có công trình thủy nông Kẻ Gỗ, đời sống vật chất của người dân trong vùng gặp nhiều khó khăn do điều kiện đất đai và khí hậu không thuận lợi Hầu hết các gia đình thường xuyên thiếu ăn, phải xin viện trợ hàng triệu tấn lương thực từ Trung ương, đặc biệt vào "ngày 3 tháng 8" Nỗi đói nghèo đã trở thành một căn bệnh phổ biến trong cộng đồng.

Vùng Kì La Tây đang phải đối mặt với tình trạng khó khăn, nơi mà nghèo đói trở thành hiện tượng phổ biến Điều này dẫn đến việc chính quyền không thể thu thuế do thời tiết khắc nghiệt, khiến sản xuất không thể đạt được kết quả Hương lý đã thông báo với quan Tây rằng dân cư chỉ còn hai lựa chọn: hoặc là bị bóc lột hoặc là không còn gì để thu thuế.

Đói nghèo đã dẫn đến việc học hành của trẻ em không được chú trọng, khiến tình trạng thất học gia tăng Hệ thống cơ sở vật chất như điện, đường, trường, trạm cũng không được phát triển Bên cạnh đời sống vật chất khó khăn, đời sống tinh thần của người dân còn thiếu thốn nghiêm trọng, khiến họ không có điều kiện để tận hưởng các sản phẩm văn hóa và tinh thần trong cuộc sống.

Giao thông tại huyện Cẩm Xuyên gặp nhiều khó khăn do phải qua nhiều bến đò như đò Hội, đò Trạm và chợ Vực để đến Đá Bạc mua khoai sắn Vào mùa lũ, việc di chuyển càng trở nên bế tắc, ảnh hưởng đến việc đi lại và giao lưu kinh tế của người dân.

Trước khi hồ Kẻ Gỗ được hình thành, cuộc sống của người dân huyện Cẩm Xuyên gặp nhiều khó khăn Đặc biệt, họ thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thiếu thốn, dẫn đến việc mưu sinh trở nên vất vả hơn.

KÍ Gổ” là một cụm từ thể hiện cuộc sống khó khăn của người dân nơi đây Mặc dù phải đối mặt với nhiều thử thách, họ vẫn kiên cường và không ngừng nỗ lực vươn lên Trong bối cảnh đó, việc duy trì những giá trị văn hóa và truyền thống là rất quan trọng, giúp họ giữ gìn bản sắc và tạo động lực cho thế hệ mai sau.

Gỗ thì có lẽ dân Cẩm Xuyên bị thiếu đói rất nhiều

3.2 Vai trò của hệ thống thuỷ nông Kẻ Gỗ đối với việc phát triển kinh tế – xã hội của hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên (vùng h-ởng lợi)

Kẻ Gỗ ra đời là ước nguyện từ lâu của người dân hai huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên Như nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý đã diễn tả, Kẻ Gỗ mang trong mình khát vọng và niềm tự hào của cộng đồng nơi đây.

Ngày đăng: 27/07/2021, 16:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban th-ờng vụ Huyện uỷ Đảng bộ Cẩm Xuyên: Lịch sử Đảng bộ huyện Cẩm Xuyên (1930 - 1945) Khác
2. BCH Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam. Huyện Thạch Hà: Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch Hà, Tập 1 (1930 - 1945) Khác
3. Bộ nông nghiệp - phát triển nông thôn: Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Tiểu dự án Kẻ Gỗ, Tập 5 Khác
4. Bộ thuỷ lợi: Thuỷ lợi 50 năm những chặng đ-ờng. Nxb Chính trị quèc gia 1995 Khác
5. Bộ thuỷ lợi. Sở thuỷ lợi Hà Tĩnh. Luận chứng kinh tế kỹ thuật công trình thuỷ nông Kẻ Gỗ Khác
6. Bộ thuỷ lợi. Viện thiết kế thuỷ lợi. Thiết kế sơ bộ công trình hồ chứa n-ớc Kẻ Gỗ trên sông Rào Cái. Tỉnh Hà Tĩnh Khác
7. Huyện uỷ Cẩm Xuyên: Báo cáo thức hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ 27 của huyện uỷ Cẩm Xuyên Khác
8. Chi cục thống kê Nghệ Tĩnh: Số liệu cơ bản về tình hình phát triển kinh tế - văn hoá Nghệ Tĩnh (1955 - 1975) Khác
9. Chi cục thống kê Hà Tĩnh: Niêm giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh các n¨m 1991, 1995, 2002 Khác
10. Lịch sử tỉnh Hà Tĩnh, Tập 1, 2. Nxb Quốc gia Hà Nội 2000 Khác
11. Phòng thống kê huyện Cẩm Xuyên: Niên giám thống kê huyện Cẩm Xuyên các năm 1986, 1990, 1995, 2002 Khác
12. Phòng thống kê huyện Thạch Hà: Niên giám thống kê huyện Thạch Hà các năm 1990, 1995, 2002 Khác
13. Phòng thuỷ lợi Cẩm Xuyên: Báo cáo hiệu quả 20 năm khai thác công trình Kẻ Gỗ trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên Khác
14. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tĩnh: Công ty quản lý thuỷ nông Kẻ Gỗ: Báo cáo kết quả phục vụ sản xuất nông nghiệp của hệ thống Kẻ Gỗ các năm từ 1996 - 2002 Khác
15. UBND Hà Tĩnh: Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010 Khác
16. Nguyễn Ngọc Bảo (2002): Cẩm Xuyên mảnh đất con ng-ời Khác
18. Phan Khánh (1981): Sơ thảo thuỷ lợi Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội Khác
19. Ninh Văn Sơn: Nghiên cứu hiệu quả của Kẻ Gỗ và những vấn đề cần đ-ợc quan tâm giải quyết để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong khu h-ởng lợi (1996 - 2000) Khác
20. D-ơng Xuân Thâu: Kẻ Gỗ niềm mơ -ớc của ng-ời dân Cẩm Xuyên Khác
21. Đào Văn Tinh (2001): 56 năm thuỷ lợi Hà Tĩnh Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w