1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tìm hiểu các di tích lịch sử văn hoá nhà nguyễn ở làng gia miêu xã hà long, huyện hà trung, tỉnh thanh hoá

122 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tìm Hiểu Các Di Tích Lịch Sử - Văn Hoá Nhà Nguyễn Ở Làng Gia Miêu, Xã Hà Long, Huyện Hà Trung, Tỉnh Thanh Hoá
Tác giả Lê Thị Thúy Huệ
Người hướng dẫn GVC-ThS. Hoàng Quốc Tuấn
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lịch Sử Văn Hoá
Thể loại Khoá Luận Tốt Nghiệp Đại Học
Năm xuất bản 2006
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 122
Dung lượng 608,96 KB

Cấu trúc

  • A. DÉn luËn (7)
    • 1. Lý do chọn đề tài (7)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (9)
    • 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài (11)
      • 3.1 Mục đích (11)
      • 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài (12)
    • 4. Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu (12)
      • 4.1. Nguồn t- liệu (12)
      • 4.2. Ph-ơng pháp nghiên cứu (13)
    • 5. Bố cục của luận án (0)
  • B. Néi dung (14)
    • 1.1. Điều kiện tự nhiên và dân c- (15)
      • 1.1.1. Điều kiện tự nhiên (15)
        • 1.1.1.1. Vị trí địa lý (15)
        • 1.1.1.2. Địa hình (17)
        • 1.1.1.3. KhÝ hËu (17)
        • 1.1.1.4. Sông ngòi (18)
        • 1.1.1.5. Núi đồi (19)
        • 1.1.1.7. Rõng (21)
      • 1.1.2. Đặc điểm dân c- (22)
    • 1.2. Truyền thống lịch sử - văn hoá (25)
      • 1.2.1. Gia Miêu - một vùng địa linh nhân kiệt (25)
      • 1.2.2. Gia Miêu Ngoại trang - quê h-ơng nhà Nguyễn (30)
    • 2.1. Đình Gia Miêu (38)
      • 2.1.1. Quá trình hình thành đình Gia Miêu (38)
      • 2.1.2. Nh©n vËt thê tù (0)
      • 2.1.3. Đặc điểm kiến trúc điêu khắc (42)
      • 2.1.4. Tín ng-ỡng - lễ hội truyền thống của đình Gia Miêu (46)
    • 2.2. Lăng miếu Triệu T-ờng (48)
      • 2.2.1. Nguồn gốc và sự tích (48)
      • 2.2.2. Lịch sử đối t-ợng thờ tự (52)
      • 2.2.3. Tín ng-ỡng và lễ hội truyền thống ở Lăng miếu Triệu T-ờng (0)
    • 2.3. Nhà thờ họ Nguyễn Hữu (59)
      • 2.3.1. Quá trình hình thành (59)
      • 2.3.2. Đặc điểm kiến trúc, điêu khắc (60)
      • 2.3.3. Hệ thống thờ tự và các nghi thức tế lễ (63)
    • 3.1. Giá trị lịch sử, văn hoá (66)
      • 3.1.1. Giá trị về mặt lịch sử (66)
      • 3.1.2. Giá trị về mặt văn hoá (68)
      • 3.1.3. Giá trị về mặt kiến trúc điêu khắc (70)
    • 3.2. ý nghĩa (73)
      • 3.2.1. ý nghĩa về việc bảo tồn các giá trị truyền thống (73)
      • 3.2.2. ý nghĩa về việc giá trị văn hoá du lịch (0)
    • 3.3. Công tác bảo tồn (76)
      • 3.3.1. Chủ tr-ơng và các biện pháp bảo tồn (76)
        • 3.3.1.1. Chủ tr-ơng (77)
        • 3.3.1.2. Các biện pháp bảo tồn (79)
      • 3.3.2. Quá trình thực hiện (80)
  • C. KÕt luËn (14)
  • Tài liệu tham khảo (84)

Nội dung

DÉn luËn

Lý do chọn đề tài

Thanh Hoá là một vùng đất cổ với bề dày lịch sử, là nơi sinh tụ và phát triển của người Việt qua các thời đại Từ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (248 sau Công nguyên) đến nay, Thanh Hoá đã ghi dấu ấn sâu sắc trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Đây cũng là nơi phát tích của nhiều triều đại lớn như Nhà Tiền Lê (981-1009), Nhà Hậu Lê (1428-1788), Nhà Trịnh (1545-1786), và Nhà Nguyễn (1558-1945), cùng với nhiều danh nhân nổi bật trong lịch sử Việt Nam.

Vùng đất có bề dày lịch sử này đã trở thành nguồn tài liệu phong phú cho các nghiên cứu lịch sử Trong Khoá luận tốt nghiệp này, chúng tôi chỉ tập trung vào việc nghiên cứu một số di tích lịch sử văn hoá ở làng Gia Miêu, thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nơi từng là bản triều của vương triều Nguyễn.

Thanh Hoá là một tỉnh rộng lớn với dân số đông, nổi bật với di sản văn hoá phong phú và đa dạng Hiện tại, tỉnh có hơn 1.535 di tích và danh thắng, trong đó có 138 di tích được xếp hạng Quốc gia và 383 di tích cấp tỉnh Tuy nhiên, nhiều di sản văn hoá vật thể đang đối mặt với nguy cơ xuống cấp và biến mất do ảnh hưởng của chiến tranh, khí hậu khắc nghiệt và ý thức bảo tồn của con người Khu di tích nhà Nguyễn tại làng Gia Miêu, xã Hà là một trong những ví dụ điển hình cho sự cần thiết phải bảo tồn các giá trị văn hoá này.

Huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, hiện đang đối mặt với tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của nhiều di tích lịch sử, bao gồm đình làng Gia Miêu, lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu Đặc biệt, lăng miếu Triệu T-ờng, một công trình nghệ thuật quan trọng trong nền mỹ thuật Nguyễn và lịch sử mỹ thuật Việt Nam, đã bị phá hủy hoàn toàn, mặc dù trước đây nó được xây dựng theo tiêu chuẩn hoàn chỉnh, thể hiện những thành tựu kiến trúc lăng tẩm thời Nguyễn.

Trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, các di tích lịch sử văn hóa như đình, miếu, đền, chùa và danh lam thắng cảnh đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và tín ngưỡng của nhân dân Những di tích này không chỉ là thông điệp giữa các thế hệ mà còn mang giá trị thực tiễn sâu sắc trong tâm thức người dân Sau Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh bảo vệ các công trình kiến trúc này Đồng thời, UNESCO đã hỗ trợ phục hồi văn hóa dân tộc, và vào tháng 3 năm 1984, Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hóa đã được ban hành Đến tháng 11/2001, Luật Di sản Văn hóa được Quốc hội thông qua, quy định rõ về nội dung di tích và công tác bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc.

Hiện nay, nền kinh tế và văn hoá Việt Nam đang đạt được nhiều thành tựu đáng kể, vì vậy việc tìm về cội nguồn trở nên cần thiết Điều này không chỉ giúp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá - lịch sử, mà còn đáp ứng nhu cầu của con người trong và ngoài nước Hơn nữa, việc này còn là một ngành kinh tế mũi nhọn cần được chú trọng phát triển.

Khu di tích nhà Nguyễn tại làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, bao gồm đình làng Gia Miêu, lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu, mang giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quan trọng Với tiềm năng phát triển du lịch, chúng tôi đã sưu tầm tài liệu và nghiên cứu để góp phần vào công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể của đất nước.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ những năm 80 của thế kỷ trước, Hà Trung đã chú trọng vào việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể, thông qua việc nghiên cứu và lập hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận và bảo vệ các di tích Công tác trùng tu và tôn tạo các di tích trọng điểm cũng được các cấp, các ngành triển khai, mang lại nhiều tài liệu quý giá.

Khi viết về Đình Gia Miêu và Lăng miếu Triệu T-ờng thì sách Đại Nam nhất thống chí, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội (1970) đã viết:

Lăng Trường Nguyên của Triệu tổ (Nguyễn Kim) là nơi an táng đầu tiên của nhà Nguyễn, được truy tôn là Triệu tổ và có miếu hiệu Tĩnh hoàng đế Lăng nằm ở núi Triệu Tường, huyện Tống Sơn, nơi Tĩnh hoàng hậu cũng được hợp táng Vào năm Gia Long thứ 5, lăng được đặt tên là Trường Nguyên, và các bài minh, thơ do Minh Mạng và Thiệu Trị ngự chế đều được khắc vào bia dựng ở phía tả lăng Theo truyền thuyết, khi đặt quan tài xong, cửa huyệt khép lại và có gió lớn, khiến mọi người sợ hãi chạy tán loạn; sau đó, cây cối um tùm che khuất lăng mộ, nên hiện nay, người dân chỉ có thể trông vào núi để làm lễ.

Lăng Tĩnh hoàng đế, nằm ở núi Triệu T-ờng thuộc quí huyện, là nơi hợp táng cả Tĩnh hoàng hậu, vợ của Tĩnh hoàng đế triều Nguyễn Trước đây, công trình này chưa được gọi là lăng, mà phải đến niên hiệu Gia Long thứ 5 mới được tôn vinh với danh xưng này.

Năm Minh Mạng thứ 3, vua đã ngự chế bài văn bia và đến năm đầu niên hiệu Thiệu Trị, vua tiếp tục ngự chế bài thơ và dựng một nhà bia bên tả lăng Theo truyền thuyết, tại huyệt này có sẵn Long khẩu, khi đặt tử cung vào, bỗng dưng có cơn mưa gió và sấm sét làm mọi người hoảng sợ Sau khi mưa tạnh, nơi phần mộ trở nên khó nhận diện giữa núi đá và cây cỏ um tùm, vì vậy lễ tế chỉ được tiến hành tại núi đó Các vua trong những chuyến bắc tuần thường làm lễ yết mộ rất trọng thể, và vào ngày thanh minh hàng năm, các quan tôn thất cũng tổ chức lễ Theo sách "Thanh Hoá đẹp như tranh" của H LeBertoin, Lăng Nguyễn Kim được mô tả như một toà thành với hào nước và cầu gạch bao quanh, cùng hai lớp luỹ bảo vệ, trong đó bức luỹ ngoài được xây năm Minh Mạng thứ 16 (1835) có 4 cửa hướng về 4 phương.

Vào năm 1920, lăng miếu Triệu T-ờng (hay Lăng Tr-ờng Nguyên) được mô tả là "Lăng nhà vua" tại làng Quí H-ơng, tổng Th-ợng Bạn, huyện Tống Sơn cũ Lăng có một hào nước và thành đá cao bao quanh, tạo nên khung cảnh như một thành luỹ Mặc dù được gọi là Thiên Tôn Sơn, lăng lại nằm giữa một cánh đồng bằng, khiến cho tên gọi "sơn" không hoàn toàn chính xác Đến năm 1821, trong triều đại Minh Mạng, lăng được đặt lại tên theo núi Triệu T-ờng (còn gọi là núi Thiên Tôn hay An Tôn) và giữ nguyên tên này cho đến ngày nay.

Các nghiên cứu về di sản văn hóa ở Thanh Hóa rất phong phú, bao gồm bài viết "Bóng dáng xứ Thanh trên đất Huế" của Phan Thuận An, "Một số di tích kiến trúc tiêu biểu thời Gia Long ở Thanh Hóa" của Nguyễn Ngọc Khiếu, và "Nghệ thuật kiến trúc đình Gia Miêu và Lăng miếu Triệu T-ờng" Ngoài ra, Phạm Văn Tuấn cũng có tác phẩm "Di tích ở Thanh Hóa", cùng với nghiên cứu "Một số tư liệu về Gia Miêu ngoại trang" của Nguyễn Phúc Ưng Ân, tất cả đều góp phần làm sáng tỏ giá trị văn hóa và lịch sử của khu vực này.

Những công trình nghiên cứu về quê hương họ Nguyễn không chỉ giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về văn hóa và lịch sử nơi đây, mà còn cung cấp một nguồn tư liệu khoa học phong phú và đa dạng Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy những đóng góp đáng kể của xứ Thanh, điều này thực sự là niềm tự hào của người dân nơi đây.

Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Chúng tôi chọn đề tài "Tìm hiểu các di tích lịch sử văn hoá nhà

Nguyễn ở làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá" với mục đích:

Làng Gia Miêu, một vùng đất địa linh nhân kiệt, là nơi phát tích vương triều Nguyễn, nổi bật với quần thể di tích có giá trị lớn như đình Gia Miêu, lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu Bài viết sẽ trình bày hệ thống về quá trình hình thành làng Gia Miêu, tình hình cư dân và các di tích lịch sử để độc giả hiểu thêm về giá trị văn hóa và lịch sử của khu vực này.

Nghiên cứu đình Gia Miêu, Lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu không chỉ phác hoạ bức tranh toàn cảnh về quê hương nhà Nguyễn, mà còn làm nổi bật kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn với những đặc trưng cơ bản Đồng thời, nghiên cứu này góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và bảo tồn quần thể di tích nhà Nguyễn, có giá trị lớn trong công cuộc phục hưng nền văn hóa dân tộc.

3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào quần thể di tích của nhà Nguyễn, bao gồm đình Gia Miêu, Lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích Chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu sâu về toàn bộ thời kỳ nhà Nguyễn, vì tài liệu thu thập còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn Đây là lần đầu tiên nghiên cứu về quê hương của một triều đại lớn trong lịch sử, do đó, cách viết và đánh giá có thể còn hạn chế Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy cô và bạn bè quan tâm đến vấn đề này.

Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu

4.1 Nguồn t- liệu Để hoàn thành khoá luận chúng tôi đã tham khảo một số công trình nghiên cứu gồm: Đại Nam nhất thống chí (1970), tập II, NXB Khoa học xã hội Hà Nội [13]; Đại Việt sử ký toàn th-, tập I, II, III, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội [15], [16], [17]; Đại Nam nhất thống chí (1960) tỉnh Thanh

Hoá, tập th-ợng, Nhà văn hoá Bộ quốc gia giáo dục [14]; Lê Quý Đôn toàn tập (1978), Đại Việt thông Sử, tập 3, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội [18];

Lịch sử Đảng bộ huyện Hà Trung, tập I, ghi lại những bước phát triển quan trọng của địa phương Hà Long, với những chặng đường lịch sử đầy thăng trầm, thể hiện sự kiên cường của người dân nơi đây Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam là những di sản văn hóa quý giá, phản ánh tâm linh và nghệ thuật kiến trúc độc đáo Gia phả họ Nguyễn trước Gia Long của Tôn Thất Hân cung cấp cái nhìn sâu sắc về dòng dõi và di sản văn hóa Việt Nam danh nhân từ điển của Nguyễn Huyền Anh tôn vinh những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Thanh Hóa Quan phong của Vương Duy là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm phong phú thêm văn hóa nghệ thuật của vùng đất này.

Các tài liệu như Lịch sử Thanh Hoá, tập III và IV của Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hoá, cùng với cuốn "Thanh Hoá di tích và thắng cảnh" (2000) và kỷ yếu hội thảo khoa học về Thanh Hoá thời kỳ 1802-1930 đã cung cấp những thông tin khái quát về làng Gia Miêu và Lăng miếu Triệu T-ờng.

Nhiều học giả nước ngoài cũng đã nghiên cứu về vẻ đẹp của Thanh Hóa, chẳng hạn như tác phẩm "Thanh Hoá đẹp như tranh" [12] và "Những đình chùa và những nơi lịch sử trong tỉnh Thanh Hóa" của H Le Bretoin [11].

Bên cạnh đó chúng tôi còn tham khảo một số bài nghiên cứu ở các tạp chí nh-: "Bóng dáng xứ Thanh" của Phan Thuận An [1], "Di tích ở Thanh

Hoá" [32], "Nghệ thuật kiến trúc đình Gia Miêu và lăng miếu Triệu T-ờng"

Để nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi đã thu thập tài liệu dân tộc học thông qua các cuộc nghiên cứu điền dã thực tế tại địa bàn Bên cạnh đó, các tài liệu văn bia và gia phả cũng là nguồn tài liệu quan trọng hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi.

4.2 Ph-ơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài luận án, chúng tôi đã áp dụng nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu tổng quan về đình Gia Miêu, lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu Qua đó, chúng tôi tiến hành phân tích nghệ thuật kiến trúc và đưa ra những đánh giá trong bối cảnh chung.

Lịch sử cần được tái hiện một cách chân thực, phản ánh các sự kiện trong quá khứ và rút ra quy luật lịch sử của chúng, đồng thời phải được đặt trong bối cảnh hiện tại.

Phương pháp chính để hoàn thành luận án là phương pháp điền dã dân tộc học, trong đó chúng tôi đã thực hiện nhiều đợt nghiên cứu điền dã Các phương pháp cụ thể được sử dụng bao gồm quan sát, phỏng vấn, và ghi chép các truyện kể, truyền thuyết dân gian, ca dao, tục ngữ, cùng với thông tin hồi cố từ những người già và những người am hiểu về xã hội truyền thống tại địa phương.

5 Bố cục của Khoá luận

Ngoài phần phụ lục, tài liệu tham khảo luận án đ-ợc chia làm 3 phần:

Bố cục của luận án

1 Lý do chọn đề tài

2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề

3 Mục đích - phạm vi nghiên cứu của đề tài

4 Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu

Néi dung

Điều kiện tự nhiên và dân c-

Gia Miêu Ngoại trang, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thuộc tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, là vùng đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa hàng nghìn năm Thời nhà Nguyễn, Tống Sơn được gọi là Quý hương - quê gốc của bản triều, nổi tiếng như một miền đất thiêng.

Phủ Hà Trung nằm cách tỉnh thành 40 dặm về phía đông bắc, với khoảng cách 37 dặm theo hướng đông-tây và 39 dặm theo hướng nam-bắc Phía đông giáp biên giới huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình 23 dặm; phía tây đến địa giới huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành phủ Quảng Hoá 14 dặm; phía nam giáp huyện Đông Sơn phủ Thiệu Hoá và huyện Quảng Xương phủ Tĩnh Gia 18 dặm; phía bắc giáp huyện Phong Hoá và Yên Mô tỉnh Ninh Bình 41 dặm Khu vực này từng thuộc quận Cửu Chân và được gọi là huyện Hà Trung từ thời nhà Trần trở về trước Trong thời kỳ thuộc Minh, nơi đây cũng được gọi là Hà Trung và thuộc quyền quản lý của ái Châu vào phủ Thanh Hoá Vào đời Lê Quang Thuận, Hà Trung được thăng cấp thành phủ và vẫn thuộc Thanh Hoá, quản lý bốn huyện Năm Minh Mạng thứ 19, phủ Hà Trung được thành lập thêm, kiêm lý huyện Hoằng Hoá và thống hạt huyện Mỹ Hoá, cùng với hai huyện Tống Sơn và Nga Sơn Đến năm Tự Đức thứ 3, phần phủ bị bỏ, chỉ còn lại năm huyện.

Huyện Tống Sơn ở cách phủ 21 dặm về phía bắc; đông tây cách nhau

Huyện Tống Sơn có vị trí địa lý đặc biệt với các khoảng cách: 41 dặm từ đông sang tây, 28 dặm từ nam ra bắc, 26 dặm đến biển phía đông, 18 dặm đến địa giới huyện Thạch Thành phía tây, 8 dặm đến địa giới huyện Vĩnh Lộc và Nga Sơn phía nam, và 20 dặm đến huyện Yên Mô và Phụng Hoá tỉnh Ninh Bình phía bắc Từ thời Trần, khu vực này đã được gọi là Tống Giang, và trong thời kỳ thuộc Minh, vẫn giữ nguyên tên gọi này, thuộc quyền quản lý của ái Châu Đến thời Lê Quang Thuận, khu vực được quản lý bởi phủ Hà Trung và sau đó, thời Trung Hưng, đổi tên thành Tống Sơn Đây là vùng đất cội gốc của triều đình, năm Gia Long thứ 3, Tống Sơn được phong là Quý huyện, còn Gia Miêu Ngoại trang được gọi là Quý hương Năm Minh Mệnh thứ 19, tri huyện bị bỏ, và khu vực này được quản lý bởi phủ, bao gồm 4 tổng và 63 xã thôn trang.

Ngày nay, làng Gia Miêu Ngoại thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung đã được đổi tên Huyện Hà Trung nằm ở địa đầu Bắc Trung Bộ Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Ninh Bình, phía nam giáp huyện Hậu Lộc, phía đông giáp huyện Nga Sơn, và phía tây giáp huyện Thạch Thành cùng huyện Vĩnh Lộc Toạ độ địa lý của huyện là từ 19°57'30" đến 20°10'00" vĩ độ bắc và từ 105°45' đến 105°58' kinh độ đông.

Xã Hà Long, nằm ở phía bắc - tây bắc huyện Hà Trung, là cửa ngõ phía bắc tỉnh Thanh Hóa, bao gồm ba làng: Gia Miêu Nội, Gia Miêu Ngoại và Nghĩa Đụng Theo đơn vị hành chính hiện nay, xã Hà Long giáp xã Thành Tâm (huyện Thạch Thành) ở phía tây, xã Hà Giang ở phía nam và đông, cùng nông trường Hà Giang (phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn) Phía bắc là dãy núi Triệu Tường, tạo thành ranh giới giữa Thanh Hóa và Ninh Bình Đặc biệt, Hà Long là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng, như cuộc hành quân của Quang Trung - Nguyễn Huệ vào mùa xuân 1789, khi đánh bại 29 vạn quân Thanh, khẳng định vị trí chiến lược của phòng tuyến Tam Điệp và sự đóng góp của nhân dân Hà Trung.

Hoá mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc trong sự nghiệp chống xâm l-ợc Mãn Thanh vào cuối thế kỷ XVIII

Hà Trung là vùng tiếp giáp giữa trung du và đồng bằng ven biển, có địa hình chia thành hai dạng chính: vùng bán sơn địa và vùng đồng bằng chiêm trũng Địa hình nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, với nhiều núi đồi bao quanh và các vùng đồng thấp trũng thường xuyên ngập nước, bị chia cắt bởi núi và sông Theo các nhà địa lý học, huyện Hà Trung và thị xã Bỉm Sơn được phân loại là "vùng cảnh quan núi đồi thấp", nằm ở phần rìa đông của phức nếp lồi sông Mã, kết nối với dải núi đồi thấp Hòa Bình, Thanh Hóa ở phía tây - tây bắc Địa hình chủ yếu của Hà Trung bao gồm các đồi núi thấp xen kẽ với các mảnh bán bình nguyên cổ và các thung lũng dạng xâm thực, bồi tụ hoặc thung lũng lũ tích.

Xã Hà Long, một trong 6 xã miền núi của huyện Hà Trung, nổi bật với địa hình được bao quanh bởi những dãy núi hùng vĩ và những mảnh đồng ruộng nhỏ hẹp Đất ở đây chủ yếu là đất thịt pha, hơi bạc màu, trong khi các khu vực đồi núi lại có đất đỏ bazan Sự kết hợp giữa đồng bằng ven biển và địa hình trung du - miền núi đã tạo nên đặc trưng riêng cho vùng đất Hà Long.

Hà Long là nơi bắt đầu cảnh quan miền núi, lại vừa có cảnh quan của một đồng bằng chuyển tiếp

Khí hậu huyện Tống Sơn thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa nóng và lạnh rõ rệt Theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, khu vực rừng núi thường có gió tây, khí sắc âm u, dẫn đến việc thời tiết lạnh xuất hiện sớm trước khi đến tiết tiểu hàn và đại hàn Ngược lại, vùng biển thường có gió nồm và khí sắc sáng sủa.

Nhiệt độ trung bình hàng năm ở khu vực này đạt 23,06 độ C, với lượng mưa khoảng 1.450mm Mùa hè thường nóng ẩm, với gió chính từ hướng đông nam và tây nam Bão thường xuất hiện vào tháng 6.

10, mùa đông thì hanh và rét hanh, s-ơng mù vào mùa đông và mùa xuân

Hà Trung có khí hậu ôn hòa hơn so với các khu vực khác trong tỉnh, với mùa đông lạnh hơn từ 1-2 độ và mùa hè mát hơn khoảng 1-2 độ Mặc dù vẫn có những khu vực chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam, nhưng độ khô nóng ở đây thấp hơn Địa hình đa dạng của huyện cho phép phân chia thành ba tiểu vùng khí hậu: tiểu khí hậu đồng bằng, tiểu vùng khí hậu ven biển và tiểu vùng khí hậu trung du miền núi.

Xã Hà Long nằm trong tiểu vùng khí hậu trung du miền núi với nhiệt độ vừa phải, mùa đông lạnh và khô, mùa hè nóng ban ngày nhưng dịu mát vào ban đêm Khu vực này có lượng mưa trung bình, độ ẩm cao và gió nhẹ Các thiên tai cần được đề phòng bao gồm rét đậm, lũ, sương giá, sương muối và gió bão Mặc dù khí hậu có sự biến động hơn so với hai vùng lân cận, nhưng vẫn rất thích hợp cho việc phát triển các loại cây công nghiệp, nông nghiệp và lâm nghiệp.

Hà Trung, mặc dù không phải là vùng ven biển, nhưng sở hữu các con sông ngắn và uốn khúc như sông Lèn, sông Hoạt, sông Tống, sông Báo Văn và sông Chiếu Bạch Đặc điểm lòng sông hẹp khiến cho mùa khô thường thiếu nước, trong khi mùa mưa lại có nhiều nước, điều này ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất nông nghiệp trong khu vực.

Sông Tống Giang, theo sách "Đại Nam nhát thống chí", bắt nguồn từ khe Thạch Bàn thuộc huyện Phụng Hoá, tỉnh Ninh Bình Dòng sông chảy qua huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá, và đổ xuống khu vực núi Trang Ch, huyện Tống Sơn Từ đây, sông chảy về phía nam qua cầu Hội Thuỷ, xã Quang Lang, và tiếp tục hướng về phía đông đến cửa quan Thanh Dán, nơi nó chia thành hai nhánh: một nhánh chảy về phía nam đến cửa kênh Nga, rồi hợp lưu với sông Mã.

19 xuống cửa biển Bạch Câu, một chi chảy về phía đông đến sông Chính Đại rồi hợp với sông Trinh, sông Cân mà ra biển" [13.235]

Sông Tống bắt nguồn từ hệ thống núi Tam Điệp, Ninh Bình - Thanh Hoá, hình thành từ hai nhánh chính: nhánh Long Khê từ núi Khê Cái và nhánh từ núi Nghĩa Đông Sông Tống chảy qua xã Hà Long, hướng đông - nam, đi qua các vùng Trạch Lâm, Hà Bắc, và cầu Tống Giang, trước khi đổ vào sông Hoạt tại cầu Chợ Huyện Ngoài ra, còn có một nhánh khác từ cầu Chợ Huyện chảy qua xã Hà Dương, Hà Vân, hợp với sông Hoạt tại cửa quan Thanh Đớn Sau khi gặp sông Hoạt, sông Tống không còn được gọi là sông Tống nữa, do đó, khi đề cập đến hệ thống sông ngòi Hà Trung, người ta thường chỉ nói về sông Hoạt.

L-u l-ợng n-ớc của sông Tống Giang tiếp nhận từ các chi nhánh sông suối ở vùng núi Tam Điệp cũng không phải là ít, sông có chiều dài 15km, hệ số uốn khúc là 1,5m, mức n-ớc mùa kiệt: 0,6-0,9m Công tác thuỷ lợi ở sông Tống sẽ góp phần giải quyết thoát n-ớc về mùa lũ, giữ n-ớc về mùa khô

Hà Long là xã lớn nhất huyện Hà Trung, núi đồi chiếm 75% diện tích đất đai toàn xã (4.714,05ha)

Núi Triệu T-ờng đ-ợc sách Đại Nam nhất thống chí viết: "Núi Triệu

Truyền thống lịch sử - văn hoá

1.2.1 Gia Miêu - một vùng địa linh nhân kiệt

Làng Gia Miêu và huyện Hà Trung thường bị coi là vùng đất xấu, dẫn đến dân cư nghèo và phong tục tằn tiện Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn chính xác, vì khu vực này có điều kiện tự nhiên phong phú, với tiềm năng nội lực lớn Theo nhà sử học Phan Huy Chú, huyện Tống Sơn có nguồn tài nguyên dồi dào hơn cả, cho thấy rằng đất đai nơi đây có khả năng phát triển mạnh mẽ Sự phong phú về địa hình, từ núi rừng đến đồng ruộng và sông ngòi, đã tạo nên một cộng đồng giàu có về văn hóa và nhân tài, khẳng định giá trị của làng Gia Miêu trong bức tranh tổng thể của huyện Hà Trung.

Gia Miêu không chỉ nổi bật với tinh thần tằn tiện mà còn thể hiện khát vọng lớn lao, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm với đất nước Đây cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi đã sản sinh ra nhiều nhân tài và hào khí.

"Đất ấy tài nguyên quý giá của Hà Trung Ng-ời ấy là tài sản vô giá của Hà Trung"

Thuyết phong thuỷ học có vai trò quan trọng trong đời sống con người, đặc biệt là khái niệm "địa lợi" Đất đai không chỉ cần thiết cho nông dân mà còn cho những người anh hùng Từ thời nguyên thuỷ, con người đã tìm đến Hà Trung, nơi được coi là miền đất thiêng Tại đây, hơn một nửa số làng trong huyện thờ vị thánh Tống Quốc S-, một thầy địa lý từ Trung Quốc, người đã phát hiện ra đất quý và nhận thấy Tống Sơn hội tụ đầy đủ yếu tố địa linh, tạo nên những nhân tài xuất chúng.

Thời phong kiến ở làng Gia Miêu và huyện Hà Trung, văn hóa quan võ phát triển mạnh mẽ hơn so với quan văn Nguyên nhân không phải do người dân ưa chuộng võ thuật mà là do hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra những anh hùng, phản ánh khát vọng và tinh thần kiên cường của người Hà Trung trong bối cảnh xã hội đầy biến động.

"anh hùng" để "tạo thời thế", muốn thể hiện tính cách mạnh mẽ của Hà

Dòng máu hào kiệt trong người dân Hà Trung luôn bừng cháy, phản ánh tính cách mạnh mẽ của họ khi sống giữa những thử thách của núi rừng và dòng nước Họ phải vượt qua hổ báo trên núi và ma vương dưới nước để tồn tại, từ đó cải thiện môi trường sống và phát triển văn tài Trong bối cảnh Nho giáo thâm nhập sâu vào các làng quê, nhiều dòng họ lớn như Nguyễn, Lại, Tống đã tạo điều kiện cho con cháu học tập và khổ luyện, làm rạng danh quê hương Theo tài liệu, Nguyễn Phong đã di cư vào làng Cổ Đôi, xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống, mang theo tên lót đặc trưng.

"Gia" là tên gọi để con cháu luôn ghi nhớ quê hương Gia Miêu (Hà Long, Hà Trung) của mình, không bao giờ quên Nguyễn Phong, nhờ có công lao diệt Mạc, đã được đổi họ thành Lê.

Lê Sỹ Triệt, Lê Sỹ Cẩn cha con ông cháu nối nhau thi đỗ tiến sỹ

* Theo Đại Nam nhất thống chí chép về mảnh đất "địa linh nhân kiệt" víi mét sè nh©n vËt sau [13.282]:

Nguyễn Văn Ph-ợng, người huyện Tống Sơn, đã gia nhập quân ngũ và theo triều đình vào Gia Định Ông từng giữ chức Phó vệ uý vệ Hùng Cai và tham gia chiến dịch đánh Quy Nhơn vào năm Canh Thân Tuy nhiên, ông đã mắc bệnh và qua đời tại quân thứ Sau khi mất, ông được tặng Ch-ởng Cơ và được thờ phụng tại đền Hiển Trung cũng như miếu Trung H-ng công thần.

Lê Văn Ngoạn, người huyện Tống Sơn, đã cống hiến hết mình trong cuộc chiến chống giặc khi triều đình bắt đầu trung hưng Ông giữ chức Phó Vệ Uý Vệ Túc Võ và Khâm Sai Cơ Sau khi qua đời, ông được tặng Chưởng Cơ và được thờ tại đền Hiển Trung cũng như miếu Trung hưng công thần.

Lê Phúc Mỹ, người huyện Tống Sơn, đã có những đóng góp quan trọng trong quân đội khi theo quân ngũ vào Gia Định trong thời kỳ đầu triều Nguyễn Ông giữ chức Phó Vệ Uý Vệ Tín Oai và đã hy sinh trong trận đánh Quy Nhơn năm Kỷ Mùi, sau đó được triều đình tặng danh hiệu Vệ Uý Để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân đã lập đền Hiển Trung và miếu Trung hưng công thần.

Bùi Văn Nghị là một nhân vật lịch sử nổi bật đến từ huyện Tống Sơn, ông từng giữ chức khâm sai tại nơi cai cơ Trong năm Canh Tý, ông đã tham gia chiến đấu tại Trà Vinh và hy sinh trong trận đánh Để tưởng nhớ công lao của ông, triều đình đã tặng thưởng Chưởng Cơ và ông được thờ phụng tại đền Hiển Trung cũng như miếu Trung hương công thần.

* Theo Đại Nam thục lục [28]:

Nguyễn Hán, con trai thứ hai của Nguyễn Hoàng, được giữ lại làm con tin tại triều Lê - Trịnh khi cha anh vào làm trấn thủ Thuận Hoá Ông tham gia vào các hoạt động quân sự, trải qua nhiều trận mạc và đạt được nhiều quân công, được phong tặng chức Tả đô đốc và tước Lý quận công.

Tháng 5 Quý Tỵ (1593), Nguyễn Hoàng đem binh thuyền ra Đông Đô (Thăng Long) yết kiến vua Lê, chúc mừng vua Lê đã thu phục đ-ợc Đông Đô Vua Lê đã tiến phong Nguyễn Hoàng làm Trung quân Đô đốc Phủ tả Đô đốc Ch-ởng phủ sự Thái uý Đoan quốc công Lúc đó quân Mạc đang chiếm giữ cửa sông Hoàng Giang các t-ớng nhà Lê là Bùi Văn Khê, Trần Bách Niên đánh không đ-ợc, Nguyễn Hoàng xin đi đánh Vua Lê đã sai Nguyễn Hán đem quân tham chiếm cùng Nguyễn Hoàng Nguyễn Hoàng thống lĩnh hai quân dùng hoả khí và đại bác tiến đánh Nguyễn Hán đã hy sinh, hai t-ớng giặc Kiên và Nghĩa bị chém chết, Nguyễn Hoàng dẹp yên trấn Sơn Nam Vua Lê truy tặng Nguyễn Hán t-ớc Lỵ Nhân Công

Năm 1803, trong triều đại Gia Long, Nguyễn Hán được tặng tự ở Nguyên miếu, con trai ông là Nguyễn Hắc được vua Lê phong làm quan và sau đó thăng chức đến Thái phó Dòng dõi con cháu Nguyễn Hán tại Thanh Hoá phát triển thịnh vượng Trong khi đó, em trai của Nguyễn Hán, Nguyễn Hải, con trai thứ năm của Nguyễn Hoàng, cũng công tác tại Bắc và được phong làm Tả đô đốc Cẩm quận công, vua Lê truy tặng chức Thái phó cho ông Con cháu của Nguyễn Hải cũng sinh sống tại Thanh Hoá.

- Nguyễn Cửu Đàm: Là con Nguyễn Cửu Vân, dòng dõi Nguyễn Cửu Kiềm quê huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá

Năm 1771, Xiêm xâm l-ợc miền Nam, vây hãm Hà Tiên Năm 1772, chúa Nguyễn sai Ch-ởng Cơ Nguyễn Cửu Đàm, làm khâm sai chánh thống

Năm 1774, Nguyễn Cửu Đàm chỉ huy 10.000 quân thủy và bộ từ hai dinh Bình Khang và Bình Thuận, cùng 30 chiếc thuyền chiến để đối phó với quân Xiêm Ông tiến quân qua Tiền Giang, phối hợp với Cai bạ Nguyễn Khoa Thiêm và Tống Phúc Hiệp để bảo vệ các tuyến đường chiến lược Sau khi quân Xiêm rút về Chân Lạp, Cửu Đàm đã tổ chức phòng thủ tại dinh, xây dựng luỹ Tân Hoa dài 15 dặm để ngăn chặn bất trắc Trong trận chiến với quân Tây Sơn, ông đã thống lĩnh các tướng sĩ từ năm dinh và giành chiến thắng, thu hồi 3 phủ: Bình Thuận, Diên Thánh, Bình Khang.

* Theo Từ điển nhân vật Lịch sử Việt Nam [36] có:

Tống Phúc Hiệp, một danh tướng đời Nguyễn, xuất thân từ dòng dõi Luân quận công Tống Phước Trị tại huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa Dưới triều đại võ vương Nguyễn Phúc Khoát, ông giữ chức Lưu thủ dinh Long Hồ (Vĩnh Long) Năm 1772, khi quân Xiêm xâm lược Hà Tiên, ông đã nhanh chóng tập hợp quân đội để cứu viện, đánh tan giặc cướp nước Đến năm Giáp Ngọ 1774, khi nghĩa quân Tây Sơn chiếm Bình Thuận, ông nhận lệnh từ tướng Nguyễn Cửu Đàm, hợp tác với cai bộ Nguyễn Khoa Thuyên, lãnh đạo 5 dinh quân và phát động chiêu binh, được chúa Nguyễn phong làm tiết chế với tước Kính quận công.

Đình Gia Miêu

2.1.1 Quá trình hình thành đình Gia Miêu Đình làng là một loại kiến trúc thờ tự rất quan trọng và phổ biến trong làng quê Việt Nam đặc biệt là ng-ời Kinh Tất cả các ngôi đình cổ x-a nhất n-ớc ta hiện nay chỉ có niên đại thế kỷ XVI cho nên các nhà nghiên cứu cho rằng đình làng ở Việt Nam xuất hiện muộn, nh-ng trong công trình nghiên cứu khảo cổ đồ sộ của Hà Văn Tấn về đình thì ông cho rằng đình ở Việt Nam xuất hiện sớm nh-ng lúc ấy ch-a gọi là đình ở Trung Quốc ngày x-a đình là đình trạm là nơi nghỉ chân của vua trong mỗi lần đi xa giá và dần dần sự đi xa giá của vua th-a dần thì đình trạm đó đ-ợc sử dụng vào mục đích khác nhau Chẳng hạn nhà Nho lấy đó làm nơi đọc kinh sách gọi là Th- đình, những ng-ời đ-a th-, đ-a công văn giấy tờ của nhà vua cho từng địa ph-ơng đến đó để giao nên nó trở thành

B-u đình, có những nơi dùng để buôn bán thì là Đình chợ, có những nơi đình nằm ở vị trí thuận lợi thì nó trở thành nơi làm việc của bộ máy quan chức làng xã nên gọi là đình làng ở Việt Nam đình th-ờng thờ các vị thần thành hoàng làng - vị thần che chở bảo vệ cho làng

Ở Việt Nam, khi người dân tụ tập sinh sống thành làng, hầu hết các làng đều xây dựng đình để thờ những người có công khai phá và lập nên làng Một ví dụ tiêu biểu là đình Gia Miêu, nằm ở làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện.

Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá cũng xuất hiện trong bối cảnh chung đó

Tên đình Gia Miêu là gọi theo tên làng - làng Gia Miêu Vào đầu thế kỷ XIX hay tr-ớc Cách mạng tháng Tám 1945, thôn Gia Miêu nằm trong

Đình Gia Miêu, tọa lạc tại xã Hà Long, huyện Hà Trung, là một công trình kiến trúc nghệ thuật thờ thành hoàng làng Nguyễn Công Duẩn, người được xem là công thần khai quốc thời Lê Ông đã được vua Lê Thái Tổ phong làm Thái bảo Hoàng công nhờ những công lao to lớn trong việc bình Ngô Ngoài ra, người dân Gia Miêu còn tôn thờ Nguyễn Kim, được xem là tổ tiên của triều đại nhà Nguyễn.

Quá trình hình thành làng xã Hà Long diễn ra từ các trang, hương, ấp trong một thời gian dài, chịu ảnh hưởng của lịch sử dân tộc Theo thời gian, cư dân ngày càng tập trung đông đúc tại đây Đến thế kỷ IX, Hà Long đã có 8 tụ điểm dân cư như Bái Nại Trại, Bái Lạt, Trại Đụng, Trại Vóc, Trại Dềnh, Trại Phù, Văn Vĩ, Trại Chuột và Trại Tre Đến cuối thế kỷ XIII, các tụ điểm này được mở rộng và bổ sung thêm nhiều điểm mới như Ngọc Đới, Làng Mái, Yên Vĩ, Động Tiền, Đông Hậu, Đông Đô, Nội Trang, Làng Thượng, Khắc Hinh, Phù Nhân, Duy Ninh, Thanh Hải, và những tụ điểm này được duy trì đến thời Hậu.

Cuối thời Hậu Lê, bối cảnh lịch sử bị chi phối bởi cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều giữa hai dòng họ Lê và Trịnh, dẫn đến sự chia cắt Đằng Trong - Đằng Ngoài giữa Trịnh và Nguyễn Những cuộc chiến tranh liên miên đã phá hủy nhiều thôn xóm, khiến dân cư phải phiêu tán khắp nơi Đến thế kỷ XIX, tổng Thượng Bạn dần ổn định với 12 hương, trang, bao gồm Hương Gia Miêu Ngoại, trang Khắc Ninh, trang Hoàng Vân, trang Yến Vĩ, trang Bảo Đới, trang Mỹ Lưu, trang Động Tiền, trang Đông Hậu, hương Gia Miêu Nội, trang Gia Miêu Thượng, trang Đông Đô và trang Quảng Đô Hương Gia Miêu Ngoại là quê hương của nhà Nguyễn, nơi khai sinh ra các bậc khai quốc công thần, và đã trở thành biểu tượng quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

2 đ-ợc gọi là Quý h-ơng, huyện Tống Sơn đ-ợc gọi là Quý huyện

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, xã có 13 làng tương đối ổn định, bao gồm Gia Miêu Nội, Gia Miêu Ngoại, Gia Miêu Thượng, Đồng Toàn, Đồng Hậu, Đồng Binh, Phù Nhân, Hoàng Vân, Yến Vĩ, Nghĩa Đụng và Bái.

Lạt, Làng Vóc và Trại Dềnh Tổng Th-ợng Bạn sau Cách mạng Tháng Tám

Năm 1945, xã Lam Sơn - Long Khê được đổi tên thành xã Hà Long Đình Gia Miêu, một công trình kiến trúc gỗ nghệ thuật, được xây dựng vào năm thứ 2 triều vua Gia Long (1803) và vẫn giữ được diện mạo tương đối đầy đủ Đình được xây theo hướng tây nam, với mặt tiền hướng ra làng Gia Miêu, phía sau là dãy đồi Thiên Tôn và Giăng Lăng, một mạch núi bắt nguồn từ huyện Thạch Thành, uốn lượn qua vùng Hà Long và kết thúc tại thị xã Bỉm Sơn Phía đông đình giáp với khu đất của lăng Triệu Tường, trong khi phía tây giáp Đình Chợ (chợ Bái Đình).

Đình Gia Miêu được vua Gia Long xây dựng vào năm 1803, cùng với Lăng miếu Triệu Tường, nhằm thể hiện tình cảm thiêng liêng về cội nguồn Công trình này không chỉ mang giá trị lịch sử và truyền thống, mà còn giúp con cháu đời sau, đặc biệt là dòng họ Nguyễn, nhận thức rõ về tổ tiên của mình.

2.1.2 Nhân vật đ-ợc thờ tự Đình Gia Miêu đ-ợc xây dựng trên một khu đất rộng thoáng, đây là một công trình kiến trúc bằng gỗ đ-ợc dựng vào đời vua Gia Long năm thứ

Đình Gia Miêu, được xây dựng vào năm 1803, là một ngôi đình lớn thời Nguyễn, nhằm tưởng nhớ quê hương và cội nguồn của người dân nơi đây Ngôi đình thờ Nguyễn Công Duẩn, một trong những khai quốc công thần thời Lê, người đã có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Ngoài ra, người dân Gia Miêu còn thờ triệu tổ Nguyễn Kim tại ngôi đình này.

Nhà Minh từ lâu đã có âm mưu xâm lược Đại Việt, nhưng khi nhà Hồ thành lập, Trung Quốc rơi vào tình trạng rối loạn Đến năm 1403, sau khi Minh Thái Tông diệt Huệ đế, âm mưu xâm lược Đại Việt càng trở nên mạnh mẽ, với nhiều lần cử người sang dò la và liên lạc với các quan lại cũ của nhà Trần để chuẩn bị cho kế hoạch chống lại nhà Hồ.

Khi Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh (1418-1427), Nguyễn Công Duẩn, một hào trưởng giàu có ở Tống Sơn, đã tích cực tham gia ủng hộ nghĩa quân Lam Sơn Ông không chỉ hỗ trợ vật chất mà còn tham gia chiến đấu, ghi dấu ấn trong nhiều trận đánh, đặc biệt là trận Mộc Thạnh tại ải Lê Hoa vào năm 1427 Trong cuộc bình Ngô, ông đảm bảo đủ quân lương cho nghĩa quân, ngay từ đầu tại Lũng Nhai, ông đã cung cấp 3.500 thạch lương và cử quân giải vây cho Lê Lợi, giúp đẩy lùi địch sang Lào và hỗ trợ nghĩa quân phòng thủ tại Linh Sơn.

Lê Lợi nhận ra rằng thời gian hòa hoãn với quân Minh đã kết thúc khi biết tin Lê Trăn bị bắt Ông dự đoán quân giặc sẽ tiến đánh nghĩa quân ở Lam Sơn, vì vậy đã cùng Nguyễn Chích thảo luận về chiến lược Nguyễn Chích nhấn mạnh tầm quan trọng của Nghệ An với địa hình hiểm yếu và dân số đông đúc, đồng thời khẳng định sự quen thuộc với địa hình nơi đây Trong khi Lê Lợi dẫn quân vào Nghệ An, Nguyễn Công Duẩn đã hỗ trợ với 5.500 thạch lương và 300 thùng muối mắm.

Khi các trận Ninh Kiểu, Tốt Động (1426), Chi Lăng - X-ơng Giang

Nguyễn Công Duẩn đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng của cuộc kháng chiến năm 1427, với nhiệm vụ chuẩn bị và cung cấp lương thực, vũ khí cho nghĩa quân Sự cống hiến của ông đã góp phần không nhỏ vào thành công của các trận đấu.

Lăng miếu Triệu T-ờng

2.2.1 Nguồn gốc và sự tích

Theo quy chế lễ giáo phong kiến, thuật ngữ "lăng" chỉ được sử dụng cho các bậc vua chúa Sau này, "lăng" cũng được áp dụng để chỉ các ngôi mộ lớn của quan lại, hoạn quan và quận công, nhưng thực tế đây chỉ là hiện tượng tiếm xưng.

Miếu có nhiều loại, miếu th-ờng thờ các loại thần khác nhau ở Việt

Nam có một số loại nh- sau:

Miếu thờ Nhiên Thần thường được xây dựng dưới gốc cây, bờ sông, hẻm núi hoặc bên cạnh những khối đá lớn Những nơi này thường có cây cối um tùm, tạo không gian che chở Người dân thường thắp hương để tôn thờ các vị thần như thần cây, thần đá, và thần sông tại những miếu này.

Miếu thờ tổ s- của các ngành nghề đóng vai trò quan trọng trong văn hóa, với các tổ s- thường là thành hoàng của một làng Bên cạnh đó, còn tồn tại miếu thờ các vị tổ của nghề thuốc, được gọi là y miếu, thể hiện sự tôn kính đối với những người có công trong lĩnh vực y học.

Văn miếu, hay còn gọi là văn chỉ, là những ngôi miếu liên quan đến việc học hành, thường thờ Khổng Tử hoặc một nhân vật có liên quan đến giáo dục.

- Miếu thờ võ s- gọi là võ miếu, thờ quan công nên ng-ời ta gọi là miếu Đức Ông

Văn miếu và võ miếu thường có kiến trúc đơn giản, ngoại trừ Văn miếu Hà Nội mang tính chất Quốc gia Thông thường, các miếu này chỉ có một hoặc hai gian, tối đa là ba gian, với không gian xung quanh thường để trống.

Tôn miếu, thái miếu và thế miếu là những công trình thờ tổ tiên của các triều đại phong kiến, nổi bật với kiến trúc hoành tráng và cầu kỳ Bên trong, bàn thờ được trang trí tinh xảo, thể hiện sự trang nghiêm và lòng thành kính của người dân đối với tổ tiên.

Miếu th-ờng xuất hiện ở miền xuôi còn miền núi chỉ là căn lều đơn giản ở đầu bản

Ngay sau khi lên ngôi vào năm Gia Long thứ 2 (1804), Nguyễn Phúc Ánh đã vinh phong Gia Miêu Ngoại trang là đất Quý h-ơng, huyện Tống Sơn là Quý huyện Ông đã cho xây dựng một khu lăng miếu tại quê hương mình để thờ tự các vị tiên v-ơng khai mở triều đại Khu lăng này được biết đến với tên gọi lăng Triệu T-ờng hay lăng Tr-ờng Nguyên, với ý nghĩa dòng suối vĩnh cửu do Gia Long đặt.

"Lăng Tr-ờng Nguyên của Triệu tổ Tĩnh Hoàng đế bản triều: ở núi Triệu T-ờng huyện Tống Sơn Tĩnh Hoàng hậu cùng hợp táng ở đây Năm

Lăng Trường Nguyên, được xây dựng trên cánh đồng thuộc làng Gia Miêu, là một công trình quan trọng mang tên Gia Long thứ 5 Vào năm Minh Mệnh thứ 3, bài minh được ngự chế và năm Thiệu Trị thứ nhất, bài thơ được khắc vào bia dựng tại đình phía tả lăng Gò Thiên Tôn, nơi lăng tọa lạc, được hiểu là tháp do con người tạo ra Từ năm Minh Mạng thứ 2 (1821), gò Thiên Tôn còn được gọi là Triệu Tường, biểu thị cho nền móng điểm lành, và từ đó, lăng cũng được biết đến với cái tên này tại Thanh Hóa.

Núi Thiên Tôn, còn gọi là núi Am, được đổi tên thành núi Triệu Tường vào năm 1821 dưới triều Nguyễn, nằm tại thôn Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa Địa thế phong thủy của núi được mô tả là nằm cách huyện lỵ Tống Sơn 25 dặm về phía tây bắc, với mạch núi kéo dài từ huyện Thạch Thành, nổi lên 12 ngọn giống như chuỗi ngọc Cảnh vật xung quanh xanh tươi như gấm vóc, phía đông bắc có dãy núi từ Tam Điệp đến Thần Phù, còn phía tây là các núi Điền Doanh, Trạch Lâm và Trang Chữ Núi Thiên Tôn còn được bao bọc bởi nước khe Ròng (Long Khê) chảy xuống và đổ vào Tống Giang Là một "danh sơn", núi được vua triều Nguyễn ghi vào "Từ điển" và được thờ cúng tại đàn Nam Giao.

Đây là nơi phát tích của dòng họ vua chúa nhà Nguyễn và là nơi chôn cất, thờ phụng tổ tiên Nguyễn Kim Lăng mộ này được người phương Tây biết đến với tên gọi "Lăng nhà vua".

Theo truyền thuyết hiện nay, hài cốt của Nguyễn Kim không được chôn cất trong mộ mà được "Hổ táng hay Thiên táng" trong "ngôi rừng cấm" Câu chuyện này được cho là xuất hiện để ngăn chặn việc hài cốt của ông bị đào lên trong các cuộc nổi dậy và chiến tranh.

Chỗ chôn cất của Nguyễn Kim chỉ được biết đến trong hoàng gia, được quản lý bởi bốn viên quan thị vệ, trong đó hai viên quan chủ chốt là chánh sứ và phó sứ phải thuộc dòng họ vua Lăng mộ được bao quanh bởi một hào ngập nước và thành đá cao, tạo nên hình ảnh như một thành luỹ Dù gọi là Thiên tôn sơn, lăng mộ thực chất nằm giữa một cánh đồng bằng, với chữ "sơn" không mang nghĩa đen Đến năm thứ hai triều Minh Mạng (1821), lăng mộ được đổi tên theo núi Triệu Tường và giữ tên gọi này cho đến ngày nay.

Vào năm 1803, vua Gia Long đã cho xây dựng Nguyên Miếu (sau này gọi là miếu Triệu Tường) với kiến trúc 3 gian 2 chái, thờ Triệu tổ - Tĩnh hoàng đế (Nguyễn Kim) ở gian chính giữa và Thái tổ - Gia Dụ hoàng đế (Nguyễn Hoàng) ở gian bên trái, cả hai đều hướng về phía Nam Trong miếu có hai bài vị ghi lại chiến tích của Nguyễn Kim và lai lịch vợ ông, cùng với hai sập chạm rồng và các đồ thờ cúng như bộ ngũ sự, hoa, và hạc gỗ sơn son thếp vàng Ngoài Nguyên Miếu, còn có miếu thờ Trừng Quốc Công, thân phụ của Nguyễn Kim, được xây dựng năm 1804, cũng gồm 3 gian và thờ Trừng Quốc Công ở gian chính giữa, cùng gian bên tả thờ Lỵ Nhân Công.

Năm 1808, Gia Long đã đặt tên cho khu mộ Nguyễn Kim là lăng Trường Nguyên, tuy nhiên hiện nay lăng này không còn dấu vết rõ ràng, chỉ còn lại một nền vuông để bái yết và cúng tế.

Năm 1822, vua Minh Mạng đã cho dựng một tấm bia đá tại lăng Trường Nguyên, khắc ghi bài minh văn ngự chế với nội dung ca ngợi đất nước và tổ tiên: "Đất lớn chúa thiêng, sinh ra triệu tổ, vun đắp cương th-ờng, nên rạng thánh võ."

Nghĩa động quỷ thần, công truyền vũ trụ, Cõi trần rời bỏ, lăng ở Bái Trang

Non n-ớc bao bọc, sầm uất tùng xanh, Khí thiêng nhóm họp, đời đời x-ơng vinh

Mệnh trời đã giúp, con cháu tinh anh,

Võ công dựng n-ớc, bèn tìm gốc nguồn

Truy tôn dựng miếu, lăng gọi Tr-ờng Nguyên, Tân Tỵ Bắc tuần, đến đây dựng lại

Trông ngắm non sông, nhớ đến gốc cõi, Khắc chữ vào bia, l-u ức vạn tải"

Nhà thờ họ Nguyễn Hữu

Người Việt Nam từ xưa đã có truyền thống thờ cúng tổ tiên, thể hiện lòng nhớ về cội nguồn Tại các làng, người dân thờ thần thành hoàng để tưởng nhớ những người đã khai sáng lập nên nơi cư trú, trong khi mỗi dòng họ cũng xây dựng nhà thờ để thờ cúng tổ tiên của mình Tại xã Hà Long, huyện Hà Trung, có nhà thờ họ Nguyễn Hữu, nơi thường nhắc đến Nguyễn Bặc - vị tiền nhân của dòng họ Nguyễn, người đã tham gia giúp Đinh.

Bộ Lĩnh dẹp loạn m-ời hai sứ quân và đến năm 971 ông đ-ợc phong làm Đinh Quốc Công

Gia Miêu là vùng quê nổi bật với dòng họ Nguyễn, không chỉ đông đảo mà còn có tỉ lệ danh nhân cao nhất cả nước Đây được xem là mảnh đất "địa linh nhân kiệt", nơi từng sản sinh ra nhiều công thần và ngoại thích của triều đại Hậu Lê Theo gia phả, dòng họ Nguyễn đã có mặt tại Gia Miêu từ rất sớm, và đến thời Trần, nơi đây đã trở thành quê hương lâu đời của dòng họ Nguyễn Bặc.

Năm 1388, các tướng họ Nguyễn như Bút Sách, Nguyễn Hở, và Nguyễn Minh Du đã dẫn quân cấm vệ để phế truất Trần Hậu, nhưng thất bại trước sự phản công của Hồ Quý Ly Sau đó, nhiều người trong họ Nguyễn đã phải trốn về Gia Miêu, trong khi Nguyễn Biện xây dựng thành công hai làng mới tại huyện Thạch Thành.

Dòng họ Nguyễn bắt đầu được ghi chép rõ ràng trong sử sách từ thời Hậu Lê, với Nguyễn Công Duẩn là vị khai quốc công thần và Nguyễn Kim là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc trung hưng nhà Lê.

Lê là người mở nghiệp cho dòng chúa Nguyễn và triều đại Nguyễn trong lịch sử Việt Nam Nhà thờ họ Nguyễn Hữu là nơi thờ tự truyền thống của dòng họ Nguyễn Hữu qua nhiều thế kỷ.

Nhà thờ tọa lạc trên một khu đất bằng phẳng, hướng về phía đông nam, trước mặt là làng Gia Miêu và bên phải là con đường số 7, nối liền thị xã Bỉm Sơn với Phố Cát của huyện Thạch Thành Gần đó là khu di tích đình Gia Miêu và lăng miếu Triệu Tường, tiếp theo là dãy đồi đất được gọi là dãy Thiên Tôn và Giăng Lăng Phía tây là ruộng đồng của Gia Miêu kéo dài đến Văn Bảo thuộc huyện Thạch Thành.

2.3.2 Đặc điểm kiến trúc, điêu khắc

Nhà thờ họ Nguyễn Hữu, tọa lạc tại thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, là một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và có đầy đủ diện mạo.

Nhà thờ họ Nguyễn Hữu có cấu trúc chính bao gồm nhà thờ, sân và vườn cây cảnh Phía bên phải nhà thờ là ao thả cá, trong khi phía bên trái là ngôi nhà khách, đồng thời cũng là nơi ở của ông Nguyễn Hữu Mịch - trưởng tộc họ Nguyễn Hữu.

Nhà thờ có diện tích là 54,6m (dài 7,8m; rộng 7m), sân nhà thờ có diện tích 52,2m (rộng 6,7m; dài 7,8m) Tiếp đó là v-ờn cây cảnh và cây l-u niên

Nhà thờ họ Nguyễn Hữu không lớn nhưng có giá trị lịch sử quan trọng, là nơi sinh thành và nuôi dưỡng nhiều nhân vật nổi bật từ thời Hậu Lê cho đến sự phát triển của đế nghiệp nhà Nguyễn.

Nhà thờ có cấu trúc kiến trúc gồm 3 gian, với bộ mái được lợp bằng ngói mũi đa dạng, thể hiện sự tu sửa hàng năm Bờ nóc và bờ dải được đắp lại với những đường gờ mộc mạc nhưng chắc chắn Kết cấu chính của vì kèo theo kiểu "chồng rường kẻ bẩy" với 4 vì, tạo nên sự vững chãi cho công trình.

61 kèo Tổng số cột của toàn bộ khung nhà là 8 cột lớn, 8 cột quân và 4 cột hiên mái

Vì kèo được cấu tạo với xà nóc đặt trên đấu hình thuyền, chịu lực lên con rường ngắn và cong Hai đấu con rường gối lên cột trốn qua đấu vuông thót đáy, trong khi hai cột trốn đứng trên câu đầu cũng dựa vào đấu vuông thót đáy Khoảng không gian giữa các rường bụng lợn, cột trốn và câu đầu tạo thành ô trống hình chữ nhật gọi là giá chiêng Ngoài hai cột trốn, hai con rường chắc khỏe nằm trên câu đầu và gắn vào thân cột trốn để đỡ hoành tải mái Tất cả các con rường đều được chạm khắc tinh xảo với họa tiết lá cúc cách điệu, thể hiện sự tỉ mỉ của nghệ nhân.

Hai vì kèo sát tường có cấu tạo tương tự, với hai cột cao tới mái và được bổ mộng để câu đầu chui vào, giúp chịu lực cho toàn bộ vì kèo Phía dưới câu đầu là quá giang nối hai cột cái bằng mộng, tạo sự vững chắc Hai bên quá giang là hai xà nách, chạy ra ăn mộng vào đầu cột con Trên xà nách có một cột trốn nằm trên đấu trụ vuông thót đáy, đỡ hai con rường phía trên và có lỗ để con rường phía dưới đi vào Tất cả các con rường đều có hình dáng như đấu trụ thót đáy, với phần trên đục lõm để đỡ các hoành tải Cuối cùng, kẻ bẩy ăn mộng vào đầu cột con, đỡ xà nách và kê lên tường đốc, phía trên là ván dong đỡ các hoành mái.

Hai vì kèo có cấu tạo giống nhau giúp tăng diện tích và sự thoáng đãng cho công trình Hai cột lớn ở phía mái trước hiên được thay bằng một cột trốn nằm trên quá giang Đầu cột trốn được bổ mộng để câu đầu ăn vào, trong khi quá giang được đỡ trên mõm kẻ chạy xuống đầu cột sát hiên Từ đầu cột, có kẻ chuyền ăn mộng vào đầu cột con chạy ra hiên, tạo thành mái hiên.

Với hệ thống vì kèo đ-ợc miêu tả nh- trên nó đ-ợc liên kết bằng một hệ thống xà th-ợng, xà trung, xà hạ, tổng cộng 12 xà

Nhà thờ có tổng cộng 3 gian và 4 vì kèo, trong đó hai vì kèo sát tường có cấu trúc giống nhau, trong khi hai vì kèo giữa được thiết kế theo kiểu "kẻ chuyền" Tất cả đều được xây dựng trong bộ khung gỗ, với kết cấu hoàn toàn bằng gỗ lim nguyên chất, tạo nên một công trình kiến trúc vững chãi và chắc chắn.

Nghệ thuật trang trí nhà thờ họ Nguyễn Hữu nổi bật với sự tinh xảo và các mảng chạm khắc cầu kỳ, được thể hiện trên nóc, cốn, lá gió và đầu các xà đai Những chi tiết trang trí còn bao gồm các bức chạm về cây cỏ, hoa lá, được gắn tại những vị trí chiến lược trong kiến trúc, như ô trống giữa xà thượng và xà hạ Đặc biệt, ô trống phía sau được trang trí thêm bức đại tự để tăng thêm vẻ đẹp cho tổng thể Đề tài chính trong các chạm khắc là hình lá cúc cách điệu và vân mây Ngoài ra, nhà thờ còn lưu giữ một số hiện vật quý giá, như tấm bia hộp ghi tên chủ nhân ngôi mộ, ông Nguyễn Hữu Vĩnh (1437-1477) và vợ ông, bà Nguyễn Thị Ngọc (1436) Bia có kích thước 46x72x75cm, với mặt bia khắc kín 16 dòng chữ Hán, tạo nên giá trị văn hóa lịch sử đặc biệt cho nơi đây.

Giá trị lịch sử, văn hoá

3.1.1 Giá trị về mặt lịch sử

Trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng thành hoàng và các bậc tiền đế đóng vai trò quan trọng, thậm chí có thể vượt qua cả tôn giáo chính thống trong đời sống tâm linh phong phú của người Việt Khu di tích lịch sử văn hóa liên quan đến nhà Nguyễn ở làng Gia Miêu là một trong những di tích quan trọng trong hệ thống di sản văn hóa của Việt Nam.

Khu di tích lịch sử văn hoá ở làng Gia Miêu mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, gắn liền với sự hình thành và phát triển của làng xã cũng như các nhân vật lịch sử dòng họ Nguyễn và triều Nguyễn Đây là vùng đất cội nguồn của nhà Nguyễn, nơi có các nhân vật lịch sử như Nguyễn Công Duẩn, Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Đức Trung, và Nguyễn Văn Lang, tạo nên nét đẹp văn hoá tiêu biểu cho miền quê ven châu thổ sông Mã Ngoài khu lăng miếu thờ Triệu Tổ nhà Nguyễn ở trung tâm làng Gia Miêu, còn có Đình Gia Miêu và nhà thờ họ Nguyễn Hữu, tất cả đều đã được xếp hạng trong hệ thống di tích lịch sử văn hoá của nước ta.

Khu di tích lịch sử văn hóa nhà Nguyễn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử và truyền thống văn hóa Việt Nam, thể hiện ý nghĩa sâu sắc trong đời sống tâm linh và đạo đức xã hội của dân tộc từ ngàn đời nay.

Với vai trò là một tổng thể di tích văn hóa đặc biệt, hệ thống di tích tại Gia Miêu không chỉ mang đậm bề dày lịch sử mà còn phản ánh những nét đặc sắc riêng của vùng đất này Nơi đây có một cộng đồng dân cư lâu đời với 30 dòng họ, trong đó nổi bật là các dòng họ lớn như họ Nguyễn, họ Lại, và họ Tống Sự tồn tại của các dòng họ này gắn liền với quá trình hình thành các trang, ấp, góp phần tạo nên lịch sử và văn hóa phong phú của Gia Miêu.

Di tích liên quan đến nhà Nguyễn cung cấp cái nhìn sâu sắc về nguồn gốc dòng họ Nguyễn Theo gia phả họ Nguyễn Bặc, An thành hầu Nguyễn Kim là con trai Nguyễn Văn L-u và có mối quan hệ với Huân V-ơng Nguyễn Văn Lang cùng Nguyễn Quốc Trung Dòng dõi Nguyễn Kim, được tôn là triệu tổ nhà Nguyễn, có nguồn gốc từ Gia Miêu Ngoại trang, huyện Tống Sơn, nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung Hiện nay, các di tích như nhà thờ họ Nguyễn Hữu, đình Gia Miêu và lăng miếu Triệu T-ờng vẫn lưu giữ dấu vết của dòng họ, nơi các vua triều Nguyễn từng về cúng tổ hàng năm.

Văn hóa truyền thống của vùng Gia Miêu được thể hiện qua các trang thần thoại, truyền thuyết và sử ca, được người dân gìn giữ qua nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa phong phú Nổi bật trong số đó là lễ hội đình làng Gia Miêu diễn ra vào dịp Tết Nguyên Đán hàng năm, cùng với tục tế lễ tại Lăng miếu Triệu Tường mang tính chất cung đình Những yếu tố này cho thấy người dân Gia Miêu Ngoại trang đã tiếp thu và phát huy những giá trị văn hóa quý báu từ quá khứ trong bối cảnh lịch sử của dân tộc.

Vùng đất Gia Miêu được coi là cái nôi nuôi dưỡng nhiều tài năng vĩ đại trong lịch sử Việt Nam Những nhân vật xuất sắc thuộc dòng họ Nguyễn trong suốt 10 thế kỷ của chế độ quân chủ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn hóa và lịch sử đất nước.

Những phẩm chất, tinh thần và nghị lực tốt đẹp của người dân Gia Miêu đã góp phần làm rạng danh vùng đất này trong lịch sử Tổ Quốc Đồng thời, Gia Miêu cũng sở hữu giá trị văn hóa và du lịch phong phú, thu hút du khách khám phá và trải nghiệm.

Tín ngưỡng thờ cúng thành hoàng và các bậc tiền đế tại các di tích nhà Nguyễn đã được lưu truyền và có vị trí vững chắc trong tâm thức người dân Thanh Hóa cũng như toàn quốc.

Nơi đây, những nhân vật lịch sử đã trở thành huyền thoại trong tâm thức của người dân, thể hiện qua việc thờ tự trong di tích Họ không chỉ góp phần vào quá trình khai phá đất đai và trồng cấy, mà còn là biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì hạnh phúc sinh tồn và ước mơ về sự phồn thịnh bền vững, sống mãi trong lòng dân gian.

Khu di tích nhà Nguyễn, với giá trị lịch sử to lớn, đã thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước Nơi đây không chỉ nổi bật với không gian kiến trúc độc đáo mà còn được bao quanh bởi cảnh quan thiên nhiên phong phú của đồng bằng và đồi núi Đây là địa điểm lý tưởng cho các hoạt động văn hóa, giải trí hàng năm, khai thác các truyền thống văn hóa dân tộc và tín ngưỡng, mang lại ý nghĩa giáo dục về đời sống văn hóa tinh thần cho cả người dân địa phương và du khách.

Với vị trí thuận lợi giữa vùng đất cổ giàu lịch sử và văn hóa, khu di tích nhà Nguyễn tọa lạc trong một vùng trù phú, nơi có sự hòa quyện giữa đất, rừng, đồi núi, ao hồ và ruộng đồng Các yếu tố tự nhiên này đã hình thành từ lâu đời, tạo nên cảnh quan đa dạng với những cánh đồng nhỏ hẹp phục vụ cho việc trồng lúa và cây màu Sự tồn tại của khu di tích không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn tiềm năng phát triển du lịch, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa.

Vùng đất này nổi bật với truyền thống văn hóa phong phú và các di tích lịch sử liên quan đến nhà Nguyễn Cuộc sống nơi đây phản ánh những nét đặc trưng của văn hóa làng xã tại khu vực ven châu thổ sông Mã.

Khu di tích văn hoá nhà Nguyễn bao gồm ba di tích quan trọng được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận Những di tích này không chỉ là giá trị cốt lõi mà còn là nền tảng để phát triển các thế mạnh về văn hoá và cảnh quan sinh thái của khu vực.

Nằm ở điểm địa đầu cửa ngõ miền Trung, cách Thanh Hóa 30 km và Hà Nội 120 km, khu vực này nổi bật với các giá trị văn hóa như núi Triệu Tường, Hồ Bến Quân cùng các di tích lịch sử như lăng miếu Triệu Tường, đình Gia Miêu và nhà thờ họ Nguyễn Hữu Đây không chỉ là một vùng quê mang đậm bản sắc văn hóa Việt mà còn là nơi hội tụ nhiều làng nghề truyền thống Lễ hội ở Đình Gia Miêu, kết hợp với phong tục tập quán và cảnh quan sinh thái đa dạng, tạo nên sự phong phú cho làng quê Khu vực này có tiềm năng lớn trong chiến lược phát triển du lịch văn hóa và lễ hội, đồng thời đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi và giải trí của du khách.

Tiềm năng của khu vực đ-ợc khai thác ở những góc độ sau :

ý nghĩa

3.2.1 ý nghĩa về việc bảo tồn các giá trị truyền thống

Trong bối cảnh kinh tế thị trường phát triển nhanh chóng, các giá trị di sản văn hóa truyền thống đang đối mặt với nguy cơ xuống cấp, biến dạng và thậm chí biến mất Sự đô thị hóa mở rộng dẫn đến nhu cầu xây dựng và nhà ở gia tăng, khiến diện tích đất đai và không gian của nhiều di tích bị thu hẹp Hơn nữa, ý thức của con người, ảnh hưởng của khí hậu và đặc biệt là thiếu kinh phí cùng phương pháp đầu tư không đồng bộ và không khoa học đã tạo ra những thách thức nghiêm trọng Do đó, việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích đã trở thành một vấn đề cấp bách cần sự quan tâm từ nhiều ngành.

Hiện nay, chúng ta sở hữu một kho tàng di sản văn hóa phong phú, bao gồm các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do thiên nhiên và cha ông ta tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước Việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống là vô cùng quan trọng, giúp thế hệ sau hiểu rõ những giá trị mà tổ tiên đã hy sinh để đạt được, đồng thời nhớ về nguồn cội của mình Khu di tích lịch sử văn hóa ở xã Hà Long, huyện Hà Trung, gồm Đình Gia Miêu, Lăng miếu Triệu Tường và nhà thờ Nguyễn Hữu, giữ vị trí quan trọng trong quần thể di tích văn hóa và thắng cảnh ở tỉnh Thanh Trước đây, khu vực này thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, là đất bản triều của các vua nhà Nguyễn.

Khu di tích này, với 74 thống, giúp thế hệ sau, đặc biệt là con cháu họ Nguyễn, nhận biết nơi phát tích của dòng họ Đình Gia Miêu, được vua Gia Long xây dựng năm 1803, là minh chứng cho mối quan hệ kiến trúc giữa kinh đô Huế và Đình Gia Miêu, thể hiện tình cảm "Chim khôn nhớ tổ, lá rụng về cội" của các vua nhà Nguyễn Việc bảo tồn ngôi đình không chỉ gìn giữ di sản văn hóa mà còn truyền lại kinh nghiệm nghề mộc cho thế hệ sau, ca ngợi tài năng của các nghệ nhân thời bấy giờ với những mảng trang trí tinh xảo Hơn nữa, các nhân vật được thờ tự tại khu di tích như Nguyễn Công Duẩn, Nguyễn Văn Lang, và Nguyễn Kim sẽ giúp thế hệ sau ghi nhớ công lao của họ và biết được ông tổ của họ Nguyễn là ai.

Và giáo dục cho con cháu một đạo đức "Uống n-ớc nhớ nguồn"

Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại đang ngày càng sôi động, các công trình di sản đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ đe dọa Do đó, việc bảo tồn các giá trị truyền thống trở nên cực kỳ quan trọng nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa và lịch sử cho thế hệ mai sau.

Mảnh đất Hà Trung một vùng đất có bề dày lịch sử có thể đ-ợc gọi là

Làng Gia Miêu, được biết đến với danh xưng "làng của vua", là một địa danh nhân kiệt với quần thể di tích nhà Nguyễn như đình Gia Miêu, lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu, mang giá trị lịch sử to lớn Việc bảo tồn các giá trị truyền thống tại đây không chỉ có ý nghĩa quan trọng mà còn giúp nhớ về những đóng góp của dòng họ Nguyễn đối với đất nước, như Nguyễn Bặc đã giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân và Nguyễn Kim kháng cự lại vua Mạc để lập "phù Lê diệt Mạc" Do đó, bảo tồn giá trị văn hóa luôn được đặt lên hàng đầu.

Thanh Hóa là một vùng đất rộng lớn với dân số đông đúc, nổi bật với nhiều di sản văn hóa quý giá Hiện nay, tỉnh Thanh Hóa có hơn 1.535 di tích và danh thắng, trong đó có 138 di tích đã được công nhận và xếp hạng.

Việt Nam hiện có 75 hạng quốc gia và 383 di tích được xếp hạng cấp tỉnh Tuy nhiên, nhiều di tích vẫn chưa được khảo sát và nghiên cứu đầy đủ, dẫn đến việc kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị còn gặp nhiều hạn chế.

3.2.2 ý nghĩa về giá trị văn hoá du lịch

Quần thể di tích lịch sử văn hóa đình Gia Miêu, lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu ở làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung không chỉ có giá trị bảo tồn các giá trị truyền thống mà còn mang lại ý nghĩa văn hóa du lịch lớn Đình Gia Miêu là một công trình kiến trúc nghệ thuật quy mô lớn, hoàn chỉnh và có tính thẩm mỹ cao, được xem là một trong những công trình tiêu biểu của kiến trúc thời Nguyễn ở Thanh Hóa Đình được xây dựng bởi Gia Long nhằm ghi nhớ công ơn của vị thành hoàng làng và là món quà cho quê hương Mặc dù không còn giữ được dáng vẻ ban đầu, ngôi đình vẫn nằm giữa cảnh quan hài hòa với ruộng đồng, núi rừng và làng mạc trù phú, trở thành điểm văn hóa thu hút du khách bốn phương.

Nhà thờ họ Nguyễn Hữu tọa lạc tại làng Gia Miêu - Hà Long, nổi bật với nhiều dấu ấn lịch sử và văn hóa Đây là điểm đến thu hút đông đảo du khách, đặc biệt là con cháu dòng họ Nguyễn từ khắp nơi trong và ngoài nước, về tụ họp hàng năm Di tích này cũng nằm trong kế hoạch kiểm kê nhằm bảo tồn giá trị văn hóa lịch sử của địa phương.

Bộ Văn hoá - Thông tin, nhà thờ đ-ợc kiểm kê qua hai đợt năm 1976 và năm 1995, đ-ợc Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia

Gia Miêu nổi bật với các công trình văn hóa nổi tiếng như đình Gia Miêu, lăng miếu Triệu T-ờng và nhà thờ họ Nguyễn Hữu, tạo nên những di sản văn hóa quý giá góp phần vào kho tàng văn hóa Việt Nam Nếu được sự quan tâm đầu tư, Gia Miêu có thể trở thành một điểm tham quan du lịch quan trọng tại phía Bắc tỉnh Thanh Hóa.

Ngày đăng: 27/07/2021, 15:54

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Phan Thuận An (2003), Bóng dáng xứ Thanh trên đất Huế, Nghiên cứu và phát triển (2), tr. 49-57 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bóng dáng xứ Thanh trên đất Huế
Tác giả: Phan Thuận An
Năm: 2003
2. Đào Duy Anh (1997), Đất n-ớc Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đất n-ớc Việt Nam qua các đời
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: NXB Thuận Hoá
Năm: 1997
3. Nguyễn Huyền Anh, Việt Nam danh nhân từ điển, Nhà sách Khai Trí Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam danh nhân từ điển
4. Nguyễn Phúc Ưng Ân (2002), Một số t- liệu về Gia Miêu ngoại trang 5. Bảo tàng Tổng hợp Thanh Hoá (2000), Thanh Hoá di tích và thắngcảnh, tập 1, NXB Thanh Hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số t- liệu về Gia Miêu ngoại trang" 5. Bảo tàng Tổng hợp Thanh Hoá (2000), "Thanh Hoá di tích và thắng "cảnh
Tác giả: Nguyễn Phúc Ưng Ân (2002), Một số t- liệu về Gia Miêu ngoại trang 5. Bảo tàng Tổng hợp Thanh Hoá
Nhà XB: NXB Thanh Hoá
Năm: 2000
6. Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hoá (2003), Thanh Hoá thời kỳ (1802-1930) (Kỷ yếu hội thảo khoa học), NXB Thanh Hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thanh Hoá "thời kỳ (1802-1930) (Kỷ yếu hội thảo khoa học)
Tác giả: Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hoá
Nhà XB: NXB Thanh Hoá
Năm: 2003
7. Ban nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hoá, Lịch sử Thanh Hoá, tập III (TK XV, XVIII), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Thanh Hoá
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
8. Ban nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hoá (1994), Lịch sử Thanh Hoá, tập IV, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Thanh Hoá
Tác giả: Ban nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hoá
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1994
9. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2000), Tên làng xã Thanh Hoá, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tên làng xã "Thanh Hoá
Tác giả: Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hoá
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2000
10. TS. Đỗ Bang (2000), Từ điển lịch sử Thừa Thiên Huế, NXB Thuận Hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển lịch sử Thừa Thiên Huế
Tác giả: TS. Đỗ Bang
Nhà XB: NXB Thuận Hoá
Năm: 2000
12. H. Le Bretoin (1992), Thanh Hoá đẹp nh- tranh, Revue Indochinoise (3-4), (Phạm Thế Học dịch) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thanh Hoá đẹp nh- tranh
Tác giả: H. Le Bretoin
Năm: 1992
13. Đại Nam nhất thống chí (1970), (bản dịch), tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam nhất thống chí
Tác giả: Đại Nam nhất thống chí
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1970
14. Đại Nam nhất thống chí (1960) tỉnh Thanh Hoá tập th-ợng, Nhà văn hoá Bộ quốc gia giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam nhất thống chí
15. Đại Việt sử ký toàn th- (1998), (bản dịch), tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Việt sử ký toàn th-
Tác giả: Đại Việt sử ký toàn th-
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1998
16. Đại Việt sử ký toàn th- (1998), (bản dịch), tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Việt sử ký toàn th-
Tác giả: Đại Việt sử ký toàn th-
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1998
17. Đại Việt sử ký toàn th- (1998), (bản dịch), tập III, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Việt sử ký toàn th-
Tác giả: Đại Việt sử ký toàn th-
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1998
18. Lê Quý Đôn toàn tập (1978), Đại Việt Thông Sử, tập 3, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lê Quý Đôn toàn tập" (1978), "Đại Việt Thông Sử
Tác giả: Lê Quý Đôn toàn tập
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1978
19. Đảng bộ huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá (1993), Lịch sử Đảng bộ huyện Hà Trung, tập I (1930-1945) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đảng bộ huyện Hà Trung
Tác giả: Đảng bộ huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá
Năm: 1993
21. Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam (1999), NXB Văn hoá - Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam
Tác giả: Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam
Nhà XB: NXB Văn hoá - Thông tin
Năm: 1999
22. Gia phả họ Nguyễn ở Gia Miêu (1980), Nghiên cứu lịch sử (3) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia phả họ Nguyễn ở Gia Miêu
Tác giả: Gia phả họ Nguyễn ở Gia Miêu
Năm: 1980
23. Tôn Thất Hân (2000), Gia phả họ Nguyễn tr-ớc Gia Long, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia phả họ Nguyễn tr-ớc Gia Long
Tác giả: Tôn Thất Hân
Năm: 2000

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w