Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết đề tài
Trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi tự đặt cho mình những mục đích, yêu cầu của việc giải quyết đề tài nh- sau:
Yếu tố “kỳ” được cả hai tác giả khéo léo sử dụng để xây dựng cốt truyện, tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm Chúng tôi sẽ phân tích sự tương đồng và khác biệt trong vai trò của yếu tố này đối với cốt truyện của hai tác phẩm, đồng thời lý giải nguyên nhân dẫn đến những điểm giống và khác nhau đó.
2 Có thể nói một thành công nổi bật của hai tác phẩm, nhất là
Truyền kỳ mạn lục chính là ở khía cạnh nghệ thuật xây dựng nhân vật
Khóa luận này sẽ phân tích sự tương đồng và khác biệt trong việc sử dụng yếu tố “kỳ” để xây dựng nhân vật trong hai tập truyền kỳ Qua đó, bài viết sẽ đưa ra những lý giải về nguyên nhân dẫn đến những điểm tương đồng và khác biệt này.
Khi đạt được các mục đích và yêu cầu, mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Hoa sẽ trở nên rõ ràng hơn qua từng tác phẩm Đồng thời, chúng ta cũng nhận thấy vị trí quan trọng của hai tác phẩm này trong tiến trình phát triển văn học của mỗi quốc gia.
Lịch sử vấn đề
Qua việc nghiên cứu các tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng yếu tố “kỳ” trong hai tác phẩm đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước, đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Trong thời trung đại, Hà Thiện Hán đã nhận định ngay từ khi tác phẩm ra đời, rằng nội dung văn học không thoát khỏi ảnh hưởng của Tông Cát, như được thể hiện trong lời Tựa Truyền kỳ mạn lục năm 1547 Tiếp nối tư tưởng này, Lê Quý Đôn trong phần Nghệ văn chí của Đại Việt thông sử cũng đã nhận xét rằng các tác phẩm chủ yếu phỏng theo những tập truyện có sẵn.
Tiễn đăng của nhà nho đời Nguyên là một tác phẩm quan trọng Học giả Phan Huy Chú trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí đã khẳng định rằng sách Truyền kỳ mạn lục, gồm bốn quyển, do dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, có nội dung đại lược bắt chước cuốn Tiễn đăng tập của nhà nho đời Nguyên.
Trong thời hiện đại, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Truyền kỳ mạn lục Một trong những ý kiến đáng chú ý là của nhà Đông phương học Nga K.I Gônl-ghina, trong bài viết "Cù Hựu và truyền kỳ Việt Nam" được xuất bản trong sách "Truyện ngắn Trung Quốc thời trung cổ" (Nxb Khoa học, Matxcơva, 1980) Ông cho rằng thể loại truyền kỳ ở Việt Nam khởi nguồn từ tác giả Nguyễn Dữ.
Tại hội thảo quốc tế "Nghiên cứu lịch sử và văn học Việt Nam" tổ chức bởi Viện Khoa học xã hội Việt Nam và trường Viễn Đông bác cổ Pháp ở Hà Nội năm 1995, giáo sư Kawamoto Kurive từ Đại học Tổng hợp Nhật Bản đã thảo luận về Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ Ông đánh giá tác phẩm này dưới góc độ là một ví dụ điển hình của thể loại, phong cách đề tài và mô típ của Tiễn đăng tân thoại.
Nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu cho rằng, những câu chuyện của Cù Hựu là nguồn tư liệu đặc biệt, từ đó Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên thế giới truyện quỷ thần độc đáo của mình.
Trong buổi tọa đàm giữa giáo sư Đặng Thai Mai và tiến sĩ văn học Liên Xô B.L.Riptin, nhà nghiên cứu người Nga đã khẳng định rằng "Truyền kỳ mạn lục" có tiếp thu một số truyện từ "Tiễn đăng tân thoại" Chúng tôi vô cùng trân trọng và cảm phục sự cống hiến của giáo sư Trần Ích Nguyên đến từ Đài Loan, khi ông thực hiện một chuyên luận nghiên cứu so sánh hai tác phẩm này Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tỉ mỉ, công phu và đầy đủ về nguồn gốc, nội dung, kỹ xảo, nội hàm cũng như ảnh hưởng của "Tiễn đăng tân thoại" đối với "Truyền kỳ mạn lục" Trong nghiên cứu, ông đã đưa ra nhiều nhận xét sâu sắc.
Mạn lục ngôn ngữ văn tự thanh tân điển nhã, cùng với sự tu sức điểm trang, đã làm cho chủ đề trở nên rõ ràng hơn So với Tân thoại, không thể khẳng định sự hơn thua giữa hai thể loại này.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của yếu tố "kỳ" trong hai tác phẩm truyền kỳ, nhưng vẫn còn thiếu sót trong việc làm rõ bản chất thẩm mỹ của thể loại này Việc sử dụng yếu tố "kỳ" chưa được phân tích sâu về sự tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm, từ đó chưa ghi nhận đầy đủ sự sáng tạo và đóng góp của Nguyễn Dữ đối với thể loại truyện truyền kỳ ở Việt Nam.
Khóa luận này nhằm nghiên cứu việc sử dụng yếu tố “kỳ” trong hai tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại, dựa trên nguồn tài liệu quý giá của các nhà nghiên cứu trước Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng một hệ thống tương đối hoàn chỉnh và dễ hiểu để phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập ngày càng hiệu quả hơn.
Ph-ơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính mà khóa luận chúng tôi tập trung vào là phương pháp so sánh Phương pháp này mang lại lợi ích lớn nhất là giúp chúng ta hiểu rõ bản chất và vị trí của một hiện tượng văn học trong các mối tương quan đa chiều của nó.
Trong khóa luận này, chúng tôi áp dụng hai phương pháp so sánh phổ biến: so sánh loại hình và so sánh lịch sử So sánh loại hình được sử dụng để khám phá sự tương đồng trong văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc, xuất phát từ sự đồng loại hình xã hội trong bối cảnh phong kiến thời trung đại Trong khi đó, so sánh lịch sử tập trung vào việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền văn học, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Hoa.
Văn học là một hiện tượng đa dạng và phong phú, vì vậy việc nghiên cứu cần kết hợp nhiều phương pháp để nắm bắt ý nghĩa sâu rộng của các giá trị văn học Do đó, bên cạnh phương pháp so sánh đối chiếu, chúng tôi còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu như thống kê, phân tích và tổng hợp để làm rõ hơn vấn đề này.
Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 69 trang, ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính đ-ợc chúng tôi triển khai trình bày trong 3 ch-ơng:
Ch-ơng 1: Những giới thuyết cần thiết
Ch-ơng 2: Yếu tố “kỳ” đối với việc xây dựng cốt truyện ở Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại
Ch-ơng 3: Sự t-ơng đồng và khác biệt trong việc sử dụng yếu tố
Bài viết này tập trung vào việc xây dựng nhân vật trong "Truyền kỳ mạn lục" và "Tiễn đăng tân thoại" Để tiện cho việc tham khảo, phần tài liệu cuối khóa luận cũng đã được bổ sung.
Ch-ơng 1 Những giới thuyết cần thiết
YÕu tè “ kú”
YÕu tè “ kú”
1.1 Sách Từ điển Tiếng Việt do giáo s- Hoàng Phê chủ biên đã viết “kỳ” là “lạ đến mức làm ng-ời ta phải ngạc nhiên” Tại đây, các nhà nghiên cứu đã đ-a ra nhiều khái niệm để giải thích yếu tố “kỳ” Chẳng hạn nh-: “kỳ ảo” (kỳ lạ, tựa nh- có thật mà chỉ có trong t-ởng t-ợng); “kỳ dị” (khác hẳn với những gì th-ờng thấy đến mức lạ lùng);
Kỳ diệu là những điều lạ lùng, khó giải thích nhưng lại khiến người ta phải ngưỡng mộ Kỳ quái thể hiện sự đặc biệt, chưa từng thấy trước đây Trong khi đó, kỳ quặc là những hiện tượng kỳ lạ đến mức trái ngược với những gì thông thường, khiến chúng ta cảm thấy khó hiểu.
Yếu tố "kỳ" trong văn chương được hiểu là sự kỳ lạ, kỳ diệu và huyền ảo, đã xuất hiện từ rất sớm và mang ý nghĩa đặc biệt Những câu chuyện giàu huyền thoại và kỳ thú đã dẫn dắt chúng ta vào thế giới thần tiên, nơi có cây cỏ và muông thú lãng mạn, huyền diệu, như trong các tác phẩm của Anđecxen và anh em nhà Grim Những yếu tố này đã tồn tại từ thời văn học cổ đại và vẫn sống mãi cho đến ngày nay.
Yếu tố “kỳ” trong văn học có ý nghĩa và nội dung khác biệt so với “kỳ” trong truyện viễn tưởng hay trinh thám, thường chỉ tạo cảm giác rùng rợn cho người đọc Trong các tác phẩm có yếu tố kỳ ảo, “kỳ” mang lại giá trị xã hội và nhân văn, kéo người đọc gần gũi với cuộc sống Yếu tố này tạo ra hiệu ứng tâm lý mạnh mẽ, được các nhà văn sử dụng như một phương tiện nghệ thuật đặc sắc để truyền tải nội dung Nó ảnh hưởng sâu sắc đến cốt truyện, hình tượng nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác giả, giúp mở rộng phản ánh hiện thực và miêu tả đời sống con người, từ đó tạo ra những kiểu nhân vật và cốt truyện độc đáo chỉ có trong các tác phẩm sử dụng yếu tố “kỳ”.
1.2 Trong văn học Việt Nam, yếu tố “kỳ” đ-ợc dùng rất độc đáo và đắc địa qua văn xuôi tự sự thời trung đại với hàng loạt tác phẩm nổi danh nh- : Thánh Tông di thảo (khuyết danh), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), đặc biệt là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ Đến thời hiện đại, yếu tố “kỳ” lại đ-ợc vận dụng trở lại rất nhiều trong văn ch-ơng Phải chăng ở đây có sự tiếp nối ảnh h-ởng từ truyền thống văn học Việt Nam trung đại hay do tính loại hình trong sáng tác văn học? Nh-ng nhìn chung điều này đã chứng tỏ sự hấp dẫn, hữu hiệu và sức sống bền chặt của yếu tố “kỳ” đối với nghệ thuật văn học
Yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện trong nghệ thuật từ lâu, đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo và khám phá thực tại Nó tạo ra những đột biến nghệ thuật độc đáo, mang lại hiệu ứng bất ngờ và gián cách cho tác phẩm Bằng cách xây dựng hệ thống điểm nhìn mới, yếu tố kỳ ảo mở rộng không gian nghệ thuật và làm phong phú thêm chiều sâu của thời gian Việc sử dụng yếu tố này không thể tách rời khỏi các phương tiện thể hiện nghệ thuật khác, mà chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau, từ đó gia tăng hiệu quả triết lý nghệ thuật.
- - 1 14 4 - - tin cậy và thuyết phục trong cách bình giá, nhận diện con ng-ời và cuộc đời” [3;218]
2 Yếu tố “kỳ” trong văn học viết
Yếu tố “kỳ” xuất hiện rõ nét trong các thể loại văn học viết của văn học Việt Nam trung đại, đặc biệt là trong truyện thơ, còn được gọi là truyện Nôm Truyện Nôm chủ yếu được viết bằng chữ Nôm và được chia thành hai loại: truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học Điều đặc biệt là cả hai loại truyện Nôm này đều tích hợp các yếu tố “kỳ” trong nội dung của chúng.
Truyền thống truyện cổ tích thần kỳ đã tạo nền tảng cho sự xuất hiện của yếu tố "kỳ" trong truyện Nôm bình dân, thể hiện qua việc nhân vật sau khi chết được đền bù xứng đáng cho những vất vả và oan trái trong cuộc sống Điều này bộc lộ ước vọng của tác giả khuyết danh, đại diện cho nhân dân lao động, về một xã hội công bằng và niềm tin vào cuộc sống "ở hiền gặp lành", dù điều tốt đẹp ấy chỉ đến khi con người đã qua đời.
Yếu tố "kỳ" trong truyện Nôm bình dân không chỉ phục vụ cho cốt truyện mà còn phản ánh bối cảnh xã hội đối kháng giai cấp Các yếu tố như gặp gỡ, tai biến, lạc lối và đoàn viên thường xuất hiện, nhưng việc đoàn viên của nhân vật trên cõi trần là điều khó khăn Do đó, các tác giả khuyết danh đã sử dụng sự kỳ lạ để hoàn thiện cốt truyện và thể hiện ước mong của họ.
Không chỉ dừng lại ở truyện Nôm bình dân, chúng ta còn bắt gặp yếu tố “kỳ” trong truyện Nôm bác học
Có thể khẳng định rằng kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du là tác giả nổi bật của văn học Việt Nam trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, với tác phẩm đỉnh cao mang tên "Truyện Kiều" Tác phẩm này không chỉ thể hiện tinh hoa văn học dân tộc mà còn sử dụng yếu tố kỳ ảo để làm nổi bật chủ đề Một trong những yếu tố kỳ diệu đó là hình ảnh nàng Kiều mơ về Đạm Tiên, nhân vật đã khuất, xuất hiện ba lần trong tác phẩm, thể hiện sự kết nối giữa hiện thực và thế giới tâm linh.
Các tác giả khuyết danh thường sử dụng yếu tố “kỳ” để tạo ra những kết thúc có hậu trong truyện Nôm bình dân Ngược lại, Nguyễn Du lại khai thác yếu tố “kỳ” để thể hiện quan điểm “tài mệnh tương đố, bỉ sắc tôn phong” của mình Tuy nhiên, yếu tố “kỳ” không phải là bản chất thẩm mỹ của thể loại truyện Nôm, mà chỉ là một phần nhỏ, không quyết định đặc trưng của thể loại này Việc tìm hiểu yếu tố “kỳ” trong truyện truyền kỳ sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về điều này.
Truyện truyền kỳ …………………………………………………… 1 Khái niệm truyện truyền kỳ …………………… 10 10 2 So sánh yếu tố “ kú” trong truyện truyền kỳ với yếu tố “ kú” trong truyện dân gian
Các kiểu cốt truyện
Hiện nay, các nhà nghiên cứu phân chia cốt truyện dựa trên kết cấu và quy mô nội dung, với hai cách phân loại chính.
2.1 Dựa vào tuyến hệ thống sự kiện trong tác phẩm, cốt truyện đ-ợc chia thành đơn tuyến và đa tuyến
Cốt truyện đơn tuyến thường được sử dụng trong các truyện ngắn và kịch bản văn học, với hệ thống sự kiện được kể một cách gọn gàng và đơn giản, tập trung vào sự phát triển tính cách của một vài nhân vật chính trong một giai đoạn cuộc đời Ngược lại, cốt truyện đa tuyến lại thể hiện một hệ thống sự kiện phức tạp, khắc họa nhiều khía cạnh của đời sống thực tế trong một thời kỳ lịch sử nhất định, đồng thời phản ánh những diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật.
2.2 Căn cứ vào mối quan hệ giữa các sự kiện trong tác phẩm ta phân chia cốt truyện ra làm hai loại là biên niên và đồng tâm
Cốt truyện biên niên trong tác phẩm được kết nối bởi mối quan hệ thời gian, cho phép tác giả thể hiện hiện thực cuộc sống một cách tự do, bao trùm cả giai đoạn lịch sử hoặc cuộc đời nhân vật từ lúc sinh ra đến khi mất đi Tuy nhiên, các sự kiện và hành động không thật sự gắn kết chặt chẽ Ngược lại, cốt truyện đồng tâm nổi bật với sự chú trọng vào một sự kiện hoặc tình huống xung đột cụ thể, giúp nhà văn phát triển cốt truyện một cách sâu sắc hơn.
Chức năng của cốt truyện
Cốt truyện đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên giá trị nội dung của tác phẩm nghệ thuật, phản ánh quan niệm về hiện thực Theo học giả Ephin Dobin, "cốt truyện là một quan niệm về hiện thực" (Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998; Tr140).
Cốt truyện đóng vai trò quan trọng trong việc bộc lộ nhân vật và thể hiện sự tương tác giữa các tính cách Đồng thời, nó cũng phản ánh và phơi bày các xung đột xã hội Hai chức năng này không tách rời mà luôn gắn bó hữu cơ, bổ sung cho nhau như mối quan hệ giữa hai mặt của một tờ giấy.
II Những sự t-ơng đồng và khác biệt của vai trò yếu tố “kỳ” đối với cốt truyện hai tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng rõ rệt từ Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, điều này đã được các nhà nghiên cứu khẳng định Cấu trúc của tác phẩm thể hiện sự tương đồng khi mỗi tập truyện đều gồm 4 quyển, mỗi quyển có 5 truyện, và cách đặt tên tác phẩm theo các thể loại văn như ký, truyện, chí, lục Hơn nữa, việc kết hợp ba lối viết tản văn, biền văn và vận văn trong truyện cũng cho thấy sự giao thoa giữa hai tác phẩm Do đó, yếu tố “kỳ” trong việc dựng cốt truyện ở cả hai tác phẩm có nhiều điểm tương đồng.
Cả Cù Hựu và Nguyễn Dữ đều khai thác yếu tố “kỳ” để xây dựng ba kiểu cốt truyện chính: “kết thúc có hậu”, “kết thúc bi kịch” và “tính chất luận thuyết” Bài viết này sẽ phân tích chi tiết từng kiểu cốt truyện để làm rõ cách thức mà các tác giả sử dụng yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm của họ.
1.1 Sự t-ơng đồng của vai trò yếu tố “kỳ” đối với kiểu cốt truyện “kết thúc có hậu” ở hai tác phẩm
Kiểu cốt truyện “kết thúc có hậu” trong hai tập truyện th-ờng diễn biến theo mô hình sau:
Vợ chồng sống yên ổn
……… gặp tai hoạ xa cách Đoàn tụ gặp gỡ tình cờ yêu nhau
Tiêu biểu cho việc dùng yếu tố “kỳ” tạo nên kiểu cốt truyện này ở
Truyền kỳ mạn lục kể về cuộc đối tụng tại Long cung, với cốt truyện hoàn chỉnh và các nhân vật chính rõ ràng Trịnh thái thú, có vợ là D-ơng thị, bị thần thuồng luồng bắt cóc Bạch Long hầu, vị thần tại thiên đình, đã giúp Trịnh kiện thần thuồng luồng để đòi lại vợ Nhờ sự hỗ trợ của cô gái áo xanh dưới Long cung, Trịnh đã tiến hành vụ kiện Dù bị đưa ra xét xử, thần thuồng luồng vẫn chối tội Long v-ơng đã triệu D-ơng thị đến làm chứng, và khi sự thật được làm sáng tỏ, thần thuồng luồng bị giam giữ Cuối cùng, D-ơng thị và Trịnh nhận quà từ Bạch Long hầu và trở về nhà hạnh phúc.
Sự kiện D-ơng thị bị bắt đã thắt chặt cốt truyện, khiến vợ chồng Trịnh thái thú đứng trước bế tắc Tuy nhiên, yếu tố kỳ diệu xuất hiện khi Bạch Long hầu vạch nước, đưa Trịnh xuống Long cung để tìm vợ, từ đó mở ra những diễn biến mới Các chi tiết kỳ ảo như cuộc kiện tụng tại Long cung và sự phán quyết của Long vương đã giúp vợ chồng D-ơng thị đoàn tụ, tạo nên một kết thúc có hậu Nếu "Chuyện đối tụng ở Long cung" là ví dụ điển hình cho việc sử dụng yếu tố kỳ để xây dựng cốt truyện có kết thúc tốt đẹp trong "Truyền kỳ mạn lục", thì "Cuộc kỳ ngộ ở Vị Đ-ờng" lại đại diện cho kiểu cốt truyện tương tự trong "Tiễn đăng tân thoại".
Chàng V-ơng Sinh đi thuyền qua Vị Đ-ờng ghé vào một quán r-ợu và nhìn thấy cô con gái chủ quán Đêm lại mơ thấy mình tới quán và đ-ợc cô gái tiếp đón Sau đó về nhà đêm nào chàng cũng mơ thấy nh- thế Có khi còn thấy cô gái tặng chiếc nhẫn vàng và tỉnh dậy chiếc nhẫn đó vẫn đeo ở tay
Năm sau, V-ơng Sinh vào quán r-ợu và gặp một cô gái đang ốm yếu, nói lẩm bẩm như say mê Cô đã nói với cha rằng "ngày mai lang quân con đến đây" Khi chàng bước vào phòng, mọi thứ đều giống như trong mộng của mình Cô gái cũng chia sẻ rằng mỗi đêm đều mơ thấy chàng Khi họ kể cho nhau nghe về những giấc mơ, cả hai đều kinh ngạc vì sự trùng hợp kỳ diệu Chính vì duyên phận đặc biệt này, họ quyết định kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau suốt đời.
Cù Hựu khéo léo sử dụng yếu tố “kỳ” để xây dựng cốt truyện với cái kết có hậu Cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật ban đầu có vẻ bình thường, nhưng sự xuất hiện và lặp lại của giấc mộng Vương Sinh đã làm thay đổi cách nhìn nhận câu chuyện Độc giả cảm thấy hào hứng, tò mò về thực chất giấc mộng của Vương Sinh, đánh dấu sự khởi đầu cho cốt truyện chính thức Các chi tiết “kỳ” khác, đặc biệt là sự trùng khớp trong những giấc mộng của hai nhân vật, cho thấy cốt truyện đã đạt đến cao trào Kết thúc của câu chuyện là sự sum họp của đôi nam nữ, như lời người cha nói: “ấy là trời cho mượn sự linh thiêng để ban phúc”.
Từ chỗ phân tích hai cốt truyện, chúng ta có thể nhận thấy rằng Nguyễn Dữ và Cù Hựu có những nét t-ơng đồng trong việc dùng yếu tố
Yếu tố thần kỳ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cốt truyện với kết thúc có hậu, mang lại luồng sinh khí mới cho tác phẩm Chúng giúp tháo gỡ bế tắc và thắt nút cốt truyện, thúc đẩy diễn biến nhanh chóng đến một kết thúc mà cả tác giả lẫn người đọc đều mong đợi.
1.2 Sự t-ơng đồng của vai trò yếu tố “kỳ” đối với kiểu cốt truyện
Kết thúc bi kịch là một kiểu cốt truyện chiếm ưu thế trong hai tác phẩm, đặc biệt là trong "Truyền kỳ mạn lục" Trong "Tiễn đăng tân thoại", nhiều câu chuyện cũng có kết thúc bi kịch, như truyện Đằng.
Mục "Chơi v-ờn Tụ Cảnh", "Chiếc đèn mẫu đơn", "Nàng ái Khanh", "Nàng Thúy Thúy" và các tác phẩm như "Chuyện ng-ời nghĩa phụ ở Khoái Châu", "Chuyện ng-ời con gái Nam X-ơng", "Chuyện nghiệp oan của Đào Thị", "Chuyện cây gạo", "Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên", "Chuyện Lệ N-ơng", "Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây" trong "Truyền kỳ mạn lục" đều thuộc thể loại cốt truyện có kết thúc bi kịch, thể hiện những số phận bi thảm và những mảnh đời éo le trong văn học.
Chúng tôi sẽ phân tích truyện "Chuyện cây gạo" để làm nổi bật sự tương đồng và ảnh hưởng của Nguyễn Dữ từ cốt truyện của Cù Hựu Đây là trường hợp duy nhất mà ông sử dụng nguyên bản cốt truyện này.
Chiếc đèn mẫu đơn kể về mối tình kỳ lạ giữa Kiều Sinh và Lệ
Vào đêm Nguyên tiêu, Kiều Sinh gặp một a hoàn cầm đèn mẫu đơn dẫn đường cho một mỹ nhân, không cưỡng lại được dục vọng, chàng đã rủ người đẹp vào ngủ Sau đó, Kiều Sinh phát hiện đó là hồn ma khi thấy thi hài Lệ Khanh trong một ngôi chùa, với một chiếc đèn và người hầu gái bằng hàng mã đứng bên cạnh Hoảng hốt, chàng bỏ chạy nhưng đã bị hồn ma bắt đi do vi phạm lời dặn không được đi qua ngôi chùa giữa hồ Khi hàng xóm mở quan tài, họ phát hiện Kiều Sinh đã chết, ôm thi hài cô gái Cả hai trở thành hồn ma, thường quấy nhiễu dân làng, khiến họ sống trong lo sợ.
- - 3 32 2 - - nhờ Thiết Quân đạo nhân diệt trừ Khi ng-ời dân đến trả ơn thì không biết tung tích đạo nhân ở đâu nữa
T-ơng tự Chiếc đèn mẫu đơn của Cù Hựu, Chuyện cây gạo của
Nguyễn Dữ khắc họa mối tình sâu sắc và kỳ lạ giữa Trung Ngộ và Nhị Khanh Trong một lần đến thăm người yêu, Trung Ngộ bất ngờ phát hiện chiếc quan tài đỏ mang tên "Linh cữu của Nhị Khanh" bên cạnh một cô gái ôm cây hồ cầm bằng đất nặn, khiến chàng hoảng sợ và bỏ chạy Tuy nhiên, sức hút của u hồn đã khiến Trung Ngộ không thể cưỡng lại, cuối cùng chàng ôm quan tài mà chết Linh hồn của họ sau đó nương tựa vào cây gạo cổ thụ bên sông, gây ra những hiện tượng kỳ quái Cuối cùng, hai yêu ma này bị một đạo nhân thu phục và bị thần binh trói đem đi.