Lịch sử vấn đề
Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nam Cao đã thu hút nhiều nghiên cứu, đặc biệt là tập "Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc" của Hà Minh Đức năm 1961, trong đó bàn luận về ý thức nghệ thuật của ông Ngoài công trình này, còn có nhiều giáo trình và sách giáo khoa về Văn học Việt Nam, cùng với các bài viết khác, giúp làm rõ quan niệm nghệ thuật của Nam Cao Trong khóa luận này, chúng tôi sẽ tìm hiểu ý thức nghề văn của Nam Cao qua các sáng tác của ông, mặc dù có thể nhìn bề ngoài như là sự lặp lại những điều đã được đề cập trước đó.
Chúng tôi không tập trung vào việc phân tích quan niệm nghệ thuật của Nam Cao, mà xem đó chỉ là một phần trong phạm trù ý thức nghề văn rộng lớn hơn Thay vì trừu tượng hóa quan niệm nghệ thuật để thảo luận, chúng tôi muốn quan sát nó trong mối quan hệ thực tiễn với các tác phẩm của Nam Cao Khóa luận này sẽ làm nổi bật sự quan tâm của chúng tôi đối với các lựa chọn nghệ thuật mà Nam Cao đã thực hiện, nhằm thể hiện sâu sắc ý thức nghề văn của ông.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát ý thức nghề văn của tác gia văn học hiện đại là một quá trình quan trọng nhằm hiểu rõ hơn về tư duy sáng tạo và phong cách viết của họ Qua việc phân tích các tác phẩm, chúng ta có thể nhận diện những quan điểm, triết lý và ảnh hưởng xã hội mà tác giả muốn truyền tải Điều này không chỉ giúp làm rõ giá trị nghệ thuật trong sáng tác mà còn phản ánh bối cảnh văn hóa và lịch sử mà tác giả sống trong đó Việc nghiên cứu này góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học hiện đại và tạo cơ hội cho độc giả tiếp cận sâu sắc hơn với thế giới nội tâm của tác giả.
Nam Cao thể hiện ý thức về nghề văn qua các sáng tác trước Cách mạng, đặc biệt trong việc xây dựng nhân vật và bình luận ngoại đề Ông khéo léo khai thác tâm lý nhân vật, phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn trong xã hội đương thời Đồng thời, các bình luận ngoại đề của ông không chỉ mang tính chất phê phán mà còn thể hiện quan điểm nghệ thuật rõ ràng, góp phần làm nổi bật giá trị nhân văn trong tác phẩm.
Nam Cao thể hiện ý thức nghề văn sâu sắc qua các tác phẩm sau Cách mạng, cho thấy sự thay đổi trong nhận thức về trách nhiệm nghệ sĩ Ông tự nguyện trở thành chiến sĩ trên mặt trận văn hóa của Đảng Cộng sản, phản ánh rõ nét sự gắn bó giữa văn chương và sứ mệnh xã hội Những sáng tác này không chỉ mang tính nghệ thuật mà còn thể hiện trách nhiệm cao cả của nhà văn đối với cộng đồng và đất nước.
Ph-ơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao gồm phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp so sánh và phương pháp phân loại thống kê, nhằm đảm bảo tính toàn diện và chính xác trong việc phân tích và trình bày kết quả.
CÊu tróc luËn v¨n
ý thức về nghề văn với t- cách là yếu tố tổ chức quan trọng hành động sáng tác của một tác gia văn học hiện đại
động sáng tác của một tác gia văn học hiện đại
Khi nghiên cứu một tác gia văn học, cần phân tích tác phẩm của họ cùng với việc khảo sát ý thức nghề nghiệp và quan điểm nghệ thuật mà họ thể hiện Hai yếu tố này không thể tách rời, vì ý thức nghề văn là yếu tố tổ chức quan trọng cho mọi hành động sáng tạo Tác gia lớn thường có ý thức nghề văn mạnh mẽ, giúp tác phẩm của họ trở thành một hệ thống chặt chẽ, thể hiện cái nhìn và khám phá riêng về cuộc sống Trong thời hiện đại, khi "viết văn" trở thành một nghề độc lập, ý thức nghề văn còn giúp nhà văn nhạy bén nắm bắt yêu cầu của thời đại và độc giả, từ đó đáp ứng tốt những đòi hỏi nghệ thuật.
Ý thức nghề văn là một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu về nhà văn, thường được phân tích trong các công trình quy mô Nó bao gồm nhiều vấn đề như thế giới quan, quan điểm sáng tác và nghệ thuật về con người Việc tìm hiểu ý thức nghề văn thực chất là cắt nghĩa các cơ chế sáng tạo của nhà văn, nhằm nắm bắt và hiểu rõ ý nghĩa của mọi hành vi sáng tác từ một góc nhìn hệ thống.
1.2 ý thức về nghề văn - một phạm trù có tính lịch sử ý thức nghề văn của một tác gia văn học không phải là hiện t-ợng nhất thành bất biến Nó luôn vận động, đ-ợc bổ sung thêm và làm phong phú thêm qua thời gian, trên cơ sở thực tiễn sáng tác và sự t-ơng tác của nó đối với ý thức nghề văn của những đồng nghiệp cùng thời hoặc khác thời
Thực tế cho thấy có sự khác biệt lớn giữa những quan điểm về nghề viết văn qua các giai đoạn sáng tác Sự phát triển hay chối bỏ là điều dễ hiểu, vì không phải ai mới bắt đầu cũng có được sự chín chắn ngay lập tức Cuộc sống đầy biến động phức tạp liên tục ảnh hưởng đến nhận thức của nhà văn, buộc họ phải suy nghĩ, nhận thức lại và phản tỉnh về nghề nghiệp của mình.
Ở những tác gia lớn, ý thức nghề văn thường giữ tính thống nhất và thuần nhất, mặc dù vẫn có những biến đổi nhất định Do đó, trong nhiều công trình nghiên cứu, việc tìm hiểu ý thức nhà văn thường được thực hiện theo cái nhìn cấu trúc hơn là cái nhìn lịch sử Mặc dù cách tiếp cận này có thể chấp nhận, nhưng nó có thể gây cản trở cho việc giải thích quá trình "chín" của một tác gia.
1.3 Cách thức xác định ý thức nghề văn của một tác gia văn học
1.3.1 Tìm hiểu những sự kiện thuộc phạm trù "tiểu sử" nhà văn
Để hiểu rõ ý thức nghề văn của một tác gia, việc khảo sát sáng tác của họ là rất quan trọng Tuy nhiên, không thể bỏ qua việc nghiên cứu tiểu sử của nhà văn, vì những sự kiện này giúp làm sáng tỏ vấn đề và xác nhận tính xác thực của nó Nam Cao, sinh ra trong một gia đình trung nông đông anh em, là con trai cả và là người duy nhất trong gia đình được học hành.
Nam Cao, với những trải nghiệm đau thương và sự hy sinh lớn lao của nhiều người xung quanh, đã không ngừng suy nghĩ về giá trị bản thân và khát vọng cống hiến Ông mong muốn tạo ra những tác phẩm có ý nghĩa, xứng đáng với sự hy sinh của những người thân yêu, đồng thời khẳng định giá trị của mình trong cuộc sống Từng là một giáo viên sống cuộc sống tẻ nhạt, Nam Cao đã trăn trở về việc vượt qua hoàn cảnh, không để bản thân rơi vào tình trạng tha hóa như nhiều người khác Chính từ đó, ý thức sáng tạo văn chương của ông đã mang một chiều sâu đặc biệt, phản ánh những suy tư và trăn trở của một tâm hồn nhạy cảm.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao nhiệt huyết tham gia vào cuộc sống, thể hiện rõ ràng qua tuyên ngôn “sống đã rồi hãy viết” Ông không chỉ nói suông mà những lời nói của ông được chứng minh bằng cả nước mắt và máu, khẳng định sự dấn thân và cam kết của mình với văn chương và cuộc sống.
1.3.2 Tìm hiểu những tuyên ngôn ngoài sáng tác Để tìm hiểu ý thức nghề văn của một tác giả, cũng nên tìm đến những tuyên ngôn ngoài sáng tác của họ Biết bao nhà văn đã có những bài tiểu luận nói về công việc sáng tác của mình nói riêng và của cả giới văn nghệ nói chung Qua những bài tiểu luận đó, ta thấy rõ ý thức nghề văn, quan niệm nghệ thuật của các tác giả Cũng có ng-ời không quen viết tiểu luận mà chỉ phát biểu ngẫu hứng vài điều về sáng tác hoặc nói lên đôi chuyện tâm đắc về công việc của mình qua các bài trả lời phỏng vấn Đối với ng-ời nghiên cứu, những mẩu ý kiến đó không phải là không có giá trị Nhiều khi, chúng giúp ta hiểu ra khá nhiều điều đ-ợc nói ngầm trong sáng tác, thông qua các hình t-ợng văn học đa nghĩa Riêng với tr-ờng hợp Nam Cao, chúng tôi rất chú ý tới những suy nghĩ đ-ợc ông bộc lộ trong một lần hiếm hoi nh- sau: "Hồi ấy tôi viết văn để cho ng-ời ta biết đến cái tên tôi Tôi ao -ớc tạo ra một cái gì đó sẽ sống lại sau tôi Tôi thèm lời khen của các bạn văn, của những kẻ sành văn, của những nhà phê bình nổi tiếng Những ng-ời ấy là tất cả Tôi không hề quan tâm đến sự đ-ợc
Sau cuộc cách mạng tháng Tám, tôi nhận ra rằng cái “tôi” của mình không có giá trị nếu không hòa hợp với người khác Để trở thành người có ích, cần quên đi danh tiếng cá nhân và tập trung vào những đóng góp cho xã hội Việc tạo ra lịch sử là trách nhiệm của số đông, chứ không phải của riêng ai Tôi đã nỗ lực để yêu thích những công việc thầm lặng nhưng có ý nghĩa Nam Cao, suốt đời, luôn nhìn vào chính mình như một nhà thám tử, khám phá sâu sắc bản thân và cuộc sống.
1.3.3 Đi từ tác phẩm: đọc tác phẩm - thâm nhập thế giới tác phẩm Để tìm hiểu ý thức nghề văn của một tác gia văn học, đây chính là khâu quan trọng nhất Nếu nhà văn có tuyên ngôn hay ho đến mấy mà sáng tác chỉ làng nhàng thì dĩ nhiên cái gọi là cái ý thức nghề văn của anh ta chỉ là lời nói suông ngoài miệng, không đáng đ-ợc để ý nhiều Nam Cao là một tr-ờng hợp khác Ông ít có những lời tuyên ngôn ngoài sáng tác và hầu nh- chỉ biết cặm cụi viết Những gì cần nói, phần lớn đã có trong các sáng tác cả rồi Ngay từ năm
1938 Nam Cao đã viết bài thơ “Ngày xuân” với bút danh Nhiêu Khê để châm biếm mỉa mai chuyện văn ch-ơng phù phiếm:
Cái kiếp con nhà văn
Cứ mỗi độ xuân sang Lại cảm lăn cảm lóc Nh- là bàn gãy chân
Họ ca những bông t-ơi
Và khen những làn môi Của những nàng xuân nữ
Bên những hoa mỉm c-ời
Trên cành trụi đẫm m-a Lộc mới đua nhau nở Xuân đẫm óc nhà thơ
Nảy vọt bao thi tứ Cũng là một thi nhân Những khi buông cán cuốc
Ta cũng thấy lòng xuân Ng©y ngÊt nh- say thuèc
Bu em mẹ đĩ đâu Vùi nồi cơm mau mau Rồi lên đây uống n-ớc Để tôi tặng vài câu
Nam Cao để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học với những tác phẩm mang tính phổ quát và đại diện cho cuộc sống Tên gọi các tác phẩm của ông như “Sống mòn” và “Chết mòn”, “Đời thừa” và “Nước mắt” đã phản ánh nhiều khía cạnh của nhân sinh và tâm tư con người Những câu chuyện này không chỉ thể hiện cái nhìn sâu sắc về cuộc sống mà còn khắc họa rõ nét tâm trạng của nhân vật trong bối cảnh xã hội.
“Trăng sáng” và “Nửa đêm”, chuyện “Một bữa no” và “Đòn chồng”, chuyện
Tác phẩm của Nam Cao, như “C-ời”, “Điếu văn”, “Truyện tình” và “Những chuyện không muốn viết”, là kho tàng phong phú về con người và đất nước Ông khắc họa sâu sắc mối quan hệ giữa trí thức và nông dân, nông thôn và thành phố, cũng như giữa người lớn và trẻ con, đàn ông và đàn bà, cùng những số phận khác nhau Những đối lập này không chỉ tồn tại song song mà còn tìm thấy sự hòa nhập và hội tụ trong văn phong của ông.
1.4 ảnh h-ởng của Nam Cao trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại
Nam Cao khởi đầu văn nghiệp từ 1936 với truyện ngắn “Cảnh cuối cùng”
Bút danh Thúy R- lần đầu xuất hiện trong Tiểu thuyết thứ bảy số 123 vào ngày 21-10-1936, và tiếp theo là tác phẩm “Hai cái xác” trong số 133 ngày 12-12-1936 Từ những tác phẩm ban đầu này, nhà văn đã cho ra mắt nhiều sáng tác khác, bao gồm thơ và truyện thiếu nhi dưới các bút hiệu Xuân Du, Nguỵêt, và Nhiêu Khê Tuy nhiên, chỉ đến khi tập truyện “Đôi lứa xứng đôi” (gồm 7 truyện ngắn, trong đó có “Đôi lứa xứng đôi” ban đầu mang tên “Cái lò gạch cũ”, sau này đổi thành “Chí Phèo”) được xuất bản năm 1941, Nam Cao mới chính thức gia nhập làng văn, sánh vai cùng các nhà văn nổi tiếng như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, và Vũ Trọng Phụng Từ đó, văn học hiện đại Việt Nam đã có thêm những tác phẩm đặc sắc của Nam Cao, phản ánh kiếp người ở thôn quê và đô thị trong giai đoạn 1930-1945 Sống và sáng tác trong bối cảnh trước cuộc Cách mạng dân tộc, nhà văn dường như đã dự cảm được những thay đổi của thời cuộc, thể hiện qua câu nói “Nhân loại đang quằn quại trong nỗi đau đớn của kỳ lột xác” Nhân vật Thứ trong tiểu thuyết cũng phản ánh nỗi buồn triền miên và dai dẳng của cuộc đời.
Nam Cao, với câu hỏi thường trực "đã làm gì chưa?", đã hóa thân vào cuộc sống và nhận thức rằng "sống tức là thay đổi" Khi cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông cùng nhiều văn nghệ sĩ khác đã giác ngộ và tự nguyện tham gia vào cuộc đời cách mạng Sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống mà còn đến văn chương của ông Nam Cao xác định rằng việc trở thành một công dân tốt là ưu tiên hàng đầu trước khi là một nhà văn Ông cố gắng quên đi cái tôi nghệ sĩ để đóng góp vào công việc "không nghệ thuật", với hy vọng sẽ tạo ra một nghệ thuật cao hơn trong tương lai Qua đó, Nam Cao đã thực sự trở thành một nhà văn gắn bó với dòng thác cách mạng.
Cách thức xác định ý thức nghề văn của một tác gia văn học
1.3.1 Tìm hiểu những sự kiện thuộc phạm trù "tiểu sử" nhà văn
Để hiểu rõ ý thức nghề văn của một tác gia, việc khảo sát sáng tác của họ là rất quan trọng Tuy nhiên, không thể bỏ qua việc tìm hiểu tiểu sử của nhà văn, vì những sự kiện này giúp làm sáng tỏ vấn đề và xác nhận tính xác thực của nó Nam Cao, sinh ra trong gia đình trung nông với tư cách là con trai cả trong số bảy anh em, là người duy nhất được học hành trong gia đình.
Nam Cao, với những suy tư sâu sắc về sự hy sinh của nhiều người xung quanh, mang trong mình khát vọng lớn lao muốn thực hiện điều gì đó có ý nghĩa, nhằm khẳng định giá trị bản thân và tri ân những người đã hy sinh cho mình Từng trải qua cuộc sống giáo khổ, ông không chỉ đối diện với những khó khăn mà còn trăn trở về việc vượt lên hoàn cảnh, tránh bị tha hóa như nhiều người khác Chính những trải nghiệm này đã hình thành nên một ý thức sáng tạo văn chương mang chiều sâu và ý nghĩa đặc biệt trong tác phẩm của ông.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao hăng hái tham gia vào các hoạt động cách mạng, thể hiện cam kết mạnh mẽ với tuyên ngôn "sống đã rồi hãy viết" Ông không chỉ nói suông mà còn chứng minh những gì mình tuyên bố bằng cả nước mắt và máu, thể hiện sự hy sinh và trách nhiệm của một nhà văn đối với cuộc sống và xã hội.
1.3.2 Tìm hiểu những tuyên ngôn ngoài sáng tác Để tìm hiểu ý thức nghề văn của một tác giả, cũng nên tìm đến những tuyên ngôn ngoài sáng tác của họ Biết bao nhà văn đã có những bài tiểu luận nói về công việc sáng tác của mình nói riêng và của cả giới văn nghệ nói chung Qua những bài tiểu luận đó, ta thấy rõ ý thức nghề văn, quan niệm nghệ thuật của các tác giả Cũng có ng-ời không quen viết tiểu luận mà chỉ phát biểu ngẫu hứng vài điều về sáng tác hoặc nói lên đôi chuyện tâm đắc về công việc của mình qua các bài trả lời phỏng vấn Đối với ng-ời nghiên cứu, những mẩu ý kiến đó không phải là không có giá trị Nhiều khi, chúng giúp ta hiểu ra khá nhiều điều đ-ợc nói ngầm trong sáng tác, thông qua các hình t-ợng văn học đa nghĩa Riêng với tr-ờng hợp Nam Cao, chúng tôi rất chú ý tới những suy nghĩ đ-ợc ông bộc lộ trong một lần hiếm hoi nh- sau: "Hồi ấy tôi viết văn để cho ng-ời ta biết đến cái tên tôi Tôi ao -ớc tạo ra một cái gì đó sẽ sống lại sau tôi Tôi thèm lời khen của các bạn văn, của những kẻ sành văn, của những nhà phê bình nổi tiếng Những ng-ời ấy là tất cả Tôi không hề quan tâm đến sự đ-ợc
Sau cuộc cách mạng tháng Tám, tôi nhận ra rằng cái “tôi” của mình không có nhiều giá trị, chỉ khi hòa hợp với những người xung quanh mới trở nên có ích Đôi khi, cần phải quên đi bản thân và tên tuổi để phục vụ cho lợi ích chung Việc tạo ra lịch sử là trách nhiệm của số đông, không phải của cá nhân Tôi đã cố gắng để yêu thích những công việc thầm lặng nhưng có ý nghĩa Nam Cao, trong suốt cuộc đời, luôn nhìn chăm chú vào chính mình, như một thám tử khám phá cuộc đời của bản thân.
1.3.3 Đi từ tác phẩm: đọc tác phẩm - thâm nhập thế giới tác phẩm Để tìm hiểu ý thức nghề văn của một tác gia văn học, đây chính là khâu quan trọng nhất Nếu nhà văn có tuyên ngôn hay ho đến mấy mà sáng tác chỉ làng nhàng thì dĩ nhiên cái gọi là cái ý thức nghề văn của anh ta chỉ là lời nói suông ngoài miệng, không đáng đ-ợc để ý nhiều Nam Cao là một tr-ờng hợp khác Ông ít có những lời tuyên ngôn ngoài sáng tác và hầu nh- chỉ biết cặm cụi viết Những gì cần nói, phần lớn đã có trong các sáng tác cả rồi Ngay từ năm
1938 Nam Cao đã viết bài thơ “Ngày xuân” với bút danh Nhiêu Khê để châm biếm mỉa mai chuyện văn ch-ơng phù phiếm:
Cái kiếp con nhà văn
Cứ mỗi độ xuân sang Lại cảm lăn cảm lóc Nh- là bàn gãy chân
Họ ca những bông t-ơi
Và khen những làn môi Của những nàng xuân nữ
Bên những hoa mỉm c-ời
Trên cành trụi đẫm m-a Lộc mới đua nhau nở Xuân đẫm óc nhà thơ
Nảy vọt bao thi tứ Cũng là một thi nhân Những khi buông cán cuốc
Ta cũng thấy lòng xuân Ng©y ngÊt nh- say thuèc
Bu em mẹ đĩ đâu Vùi nồi cơm mau mau Rồi lên đây uống n-ớc Để tôi tặng vài câu
Nam Cao để lại dấu ấn sâu sắc với những tác phẩm mang tính phổ quát và đại diện cho những vấn đề xã hội Tên gọi của các tác phẩm như “Sống mòn” và “Chết mòn”, hay “Đời thừa” và “Nước mắt” không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống mà còn mở ra nhiều câu chuyện nhân sinh sâu sắc.
“Trăng sáng” và “Nửa đêm”, chuyện “Một bữa no” và “Đòn chồng”, chuyện
Tác phẩm của Nam Cao, như “C-ời”, “Điếu văn”, “Truyện tình”, và “Những chuyện không muốn viết”, là kho tàng dữ liệu phong phú về con người và đất nước Ông khám phá mối quan hệ giữa trí thức và nông dân, nông thôn và thành phố, cũng như giữa người lớn và trẻ con, đàn ông và đàn bà, cùng với những con người bình thường và những kẻ dị dạng Những mối liên hệ vừa gắn bó vừa đối lập này luôn tìm thấy sự hội tụ và hòa nhập trong văn phong của ông.
1.4 ảnh h-ởng của Nam Cao trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại
Nam Cao khởi đầu văn nghiệp từ 1936 với truyện ngắn “Cảnh cuối cùng”
Bút danh Thúy R- xuất hiện lần đầu trong Tiểu thuyết thứ bảy số 123 vào ngày 21-10-1936, tiếp theo là tác phẩm “Hai cái xác” trong số 133 ngày 12-12-1936 Từ nguồn mạch này, nhà văn đã cho ra đời nhiều tác phẩm khác, bao gồm thơ và truyện cho thiếu nhi với các bút hiệu như Xuân Du, Nguỵêt, Nhiêu Khê Tuy nhiên, chỉ khi tập truyện “Đôi lứa xứng đôi” (gồm 7 truyện ngắn, trong đó có câu chuyện “Đôi lứa xứng đôi”, ban đầu mang tên “Cái lò gạch cũ” sau này đổi thành “Chí Phèo”) được xuất bản vào năm 1941, Nam Cao mới chính thức bước vào làng văn, sánh vai cùng các tác giả nổi tiếng như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, và Vũ Trọng Phụng Từ đó, văn học hiện đại Việt Nam đã có thêm những tác phẩm đặc sắc của Nam Cao, phản ánh kiếp người ở thôn quê và đô thị trong giai đoạn 1930-1945 Sống và sáng tác trong bối cảnh trước cuộc Cách mạng dân tộc, nhà văn như đã dự cảm về những thay đổi của thời cuộc, thể hiện qua nỗi buồn dai dẳng trong tác phẩm của mình.
Nam Cao, với câu hỏi thường trực "đã làm gì chưa?", đã hóa thân vào khái niệm "sống mòn" Ông nhận ra rằng "sống tức là thay đổi" và cùng với sự bùng nổ của cách mạng tháng Tám, đã giác ngộ và tự nguyện tham gia vào cuộc đời cách mạng và kháng chiến Cuộc sống và văn chương của ông đã có sự chuyển mình mạnh mẽ; ông xác định rằng phải trở thành một công dân tốt trước khi là một nhà văn Nam Cao đã nỗ lực quên đi cái tôi nghệ sĩ để đóng góp vào công việc "không nghệ thuật", nhằm chuẩn bị cho một nghệ thuật cao hơn trong tương lai Ông tin rằng nếu có khả năng viết về những tác phẩm lớn, chúng sẽ được hàng triệu người đón nhận, thay vì chỉ vài nghìn như trước đây Tham gia vào dòng thác cách mạng, Nam Cao đã thực sự trở thành một nhà văn.
Nam Cao, với tư cách công dân, đã chấp nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đồng thời thể hiện trách nhiệm của mình trước cuộc đời và nghệ thuật cách mạng Ông cho rằng người nghệ sĩ cần tìm ra những chủ đề và hình thức phù hợp với đại chúng Các tác phẩm của Nam Cao trong thời kỳ kháng chiến không chỉ giúp người đọc hiểu biết hơn và tin vào cuộc kháng chiến, mà còn khuyến khích họ tham gia tích cực Cuộc sống cách mạng đã làm mới cái nhìn nghệ thuật của ông, được thể hiện qua các tác phẩm như “Đường vô nam” và “Đôi mắt” Trong số đó, “Đôi mắt” và “ở rừng” nổi bật với sự kết hợp giữa tài năng và nhiệt huyết của một người chiến sĩ cách mạng Cuộc sống kháng chiến đã giúp Nam Cao vượt qua những rào cản cũ, đưa ông vào quỹ đạo của nền văn học mới.
Nam Cao không chỉ sáng tác để đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng và quần chúng, mà còn mang trong mình nỗi ám ảnh về một cuốn tiểu thuyết viết về quê hương kháng chiến Trong một lần nhận nhiệm vụ tuyên truyền thuế nông nghiệp ở vùng địch hậu đồng bằng khu Ba, ông đã dự định kết hợp thu thập tài liệu và gặp gỡ đồng đội đang chiến đấu tại quê hương để hoàn thành tác phẩm dài hơi mà ông đã ấp ủ từ lâu Tuy nhiên, trên đường đi, Nam Cao và các đồng chí của ông đã bị lọt vào vòng vây của kẻ thù, và từ đó, ông vĩnh viễn ra đi.
14 đời và tài năng đang vào độ sung sức nhất, đầy triển vọng Nói nh- Tô Hoài: “ Nam Cao đã chết trên cuốn tiểu thuyết lớn của mình”
Nam Cao, từ năm 1936 đến khi qua đời năm 1951, đã có 15 năm gắn bó với văn chương, để lại một di sản văn học không đồ sộ nhưng đầy giá trị Ông chỉ có hai tiểu thuyết "Sống mòn" và "Truyện người hàng xóm", cùng một số truyện ngắn, ký và kịch bản Tuy nhiên, tác phẩm của Nam Cao luôn để lại ấn tượng sâu sắc, khơi gợi sự đồng sáng tạo từ người đọc Những trang viết của ông được coi là "những dòng văn xuôi mọc cánh", khiến độc giả thế kỷ XX say mê khai thác và khám phá Nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt Nam khẳng định rằng sáng tác của Nam Cao không thua kém văn học thế giới, và tác phẩm của ông đã vượt ra ngoài biên giới Việt Nam, trở thành đối tượng nghiên cứu quốc tế Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu của thế kỷ XX, góp phần cách tân và hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam.
Nhiều nhà văn, như Thạch Lam và Nam Cao, đã thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình qua các chuyên luận và tiểu luận Đặc biệt, Nam Cao truyền tải những suy nghĩ về văn chương nghệ thuật thông qua các nhân vật mà ông tâm đắc, thể hiện rõ ràng trong các tác phẩm trước và sau cách mạng tháng Tám Ông thường sử dụng cái tôi đầy u tủi và nỗi niềm cá nhân để tạo ra những nhân vật có chiều sâu và cá tính trong các truyện ngắn và truyện dài của mình.
Vào những thập niên đầu thế kỷ, các nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố và Vũ Trọng Phụng đã có những đóng góp quan trọng trong việc phản ánh xã hội và phê phán thực trạng Họ không chỉ thể hiện tâm tư của nhân dân mà còn góp phần làm nổi bật các vấn đề xã hội đang tồn tại.
ý thức về nghề văn thể hiện qua việc xây dựng các hình t-ợng văn sỹ, trí thức
Nhân vật trong tác phẩm Nam Cao chiếm số lượng đáng kể và có tính cách đa dạng, phức tạp Chúng tôi tạm phân loại thành hai tiểu loại nhỏ.
Những nhà văn có nhân cách yếu kém thường chờ đợi thời cơ để vươn lên, như các nhân vật Tú, Du, Giang, Hồ trong tác phẩm "Nhỏ nhen" Họ nuôi mộng mở trường tư hoặc nhà xuất bản lớn, nhưng lại chỉ tạo dựng một bề ngoài hào nhoáng mà không có thực chất Họ không thực sự giàu có nhưng luôn thích thể hiện sự giàu sang, thể hiện sự thiếu tự tin và quyết đoán trong cuộc sống.
Nhiều người gần gũi với nhân dân lao động nhưng lại thể hiện thái độ coi thường, cho thấy sự nhỏ nhen và dối trá trong hành động của họ Thực tế, họ không có giá trị thực sự nào.
Nhà văn có nhân cách và trách nhiệm với ngòi bút thường mang trong mình hoài bão và ước mơ tốt đẹp Tuy nhiên, áp lực cuộc sống và lo toan cơm áo đôi khi khiến họ không thể phát huy hết những phẩm chất tốt đẹp của mình, dẫn đến những hành động trái ngược Một ví dụ điển hình cho điều này là nhân vật Hộ.
“ Đời thừa”, Điền trong “Trăng sáng”, nhân vật “tôi” trong “ Mua nhà”, Lộc trong “Truyện ng-ời hàng xóm”
Nhân vật Hộ trong “Đời thừa” thể hiện những nét tính cách quý giá và hoài bão lớn, nhưng lại bị ràng buộc bởi thực tại nghèo khó Hộ khinh thường những lo toan vật chất, chỉ mong muốn phát triển tài năng nhưng lại phải viết những tác phẩm nhạt nhòa để kiếm sống Mơ ước đoạt giải Nobel và được dịch ra nhiều thứ tiếng trở thành điều xa vời khi anh đối diện với nỗi đói nghèo và trách nhiệm gia đình Ngược lại, nhân vật Điền trong “Trăng sáng” là người nhạy cảm, biết thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên và ánh trăng, dồn tâm huyết vào sáng tạo nghệ thuật, mặc dù phải đối mặt với khó khăn về tài chính và sức khỏe.
Nhân vật "tôi" trong "Mua nhà" thể hiện một nhân cách cao cả, tràn đầy sự cảm thông và chia sẻ với những người kém may mắn Bên cạnh đó, nhân vật còn sở hữu những triết lý độc đáo về cuộc sống con người.
Nhân vật ”tôi” trong truyện “Ng-ời hàng xóm” là ng-ời sống có ý thức và biết tìm đến hạnh phúc chân chính cho ngòi bút
Các nhà văn trong tác phẩm của Nam Cao đều là những người tâm huyết với nghề và có trách nhiệm với cuộc sống Họ mong muốn sử dụng nghệ thuật để phục vụ con người và phấn đấu cho một xã hội tươi sáng Tuy nhiên, thực tế cuộc sống lại không đáp ứng những ước mơ và hoài bão tốt đẹp của họ Sự nghiệt ngã của xã hội phong kiến thực dân cùng với điều kiện sống nghèo nàn đã đẩy họ vào những bi kịch không lối thoát.
2.1.2 Những ông "giáo khổ tr-ờng t-"
Nam Cao đã khắc họa rõ nét những nhân vật trong tác phẩm của mình, thể hiện tâm huyết sâu sắc của ông Những "giáo khổ trường t-” của Nam Cao thường mang nỗi đói khổ, trăn trở và vật lộn với thực tại, nhưng cuối cùng lại rơi vào bế tắc không lối thoát Các tác phẩm viết về ông phản ánh chân thực những khía cạnh này.
“giáo khổ tr-ờng t-” chúng tôi nhận thấy có hai loại khác nhau:
Nhân vật Thứ trong tiểu thuyết “Sống mòn” đại diện cho loại ông giáo có vốn văn hóa phong phú và ý thức về bản thân, biết trân trọng danh dự Tuy nhiên, những ước mơ tốt đẹp của ông không được thực hiện, dẫn đến cuộc sống dần lùi vào ngõ cụt và không có lối thoát.
Ông giáo San trong tiểu thuyết “Sống mòn” đại diện cho những người có vốn học hành hạn chế, sử dụng bằng cấp thấp để kiếm sống Với kiến thức nghèo nàn, ông thường có ý thức kém về nhân cách và dễ bị cám dỗ bởi vật chất, dẫn đến những hành động tầm thường San nhận thức về cuộc sống của mình rất hạn chế, nhiều khi sống trong sự mòn mỏi mà không hề hay biết.
Nhân vật Hài trong "Quên điều độ" là một chàng trai học hành kém cỏi, đồng thời mắc phải nhiều căn bệnh như tim, gan, phổi và dạ dày.
Tuổi 20 là giai đoạn mà nhiều người dễ dãi với bản thân, không kiểm soát được hành vi và cảm xúc của mình Khi không làm chủ được bản thân, khát vọng vật chất có thể dẫn đến những cơn say rượu chè, khiến họ đánh mất nhân cách và quên đi trách nhiệm với việc dạy và học, để lại sự nháo nhác cho học trò chờ đợi.
Nhân vật Oanh không khác gì so với San và Hài; cô ta có ý thức về nhân cách kém và sống ích kỷ, bần tiện với mọi người xung quanh Mục đích sống của Oanh chỉ là cầu lợi, và suốt ngày cô ta chỉ biết đứng trước gương ngắm nhìn bản thân với những bộ quần áo thời thượng Tuy nhiên, Oanh cũng đang sống trong tình trạng bi kịch, tự làm mình mòn mỏi và không tìm thấy lối thoát.
Nhân vật nhà giáo trong tác phẩm của Nam Cao thể hiện nhiều khía cạnh đa dạng, nhưng đều có điểm chung là sống trong hoàn cảnh ngột ngạt và tối tăm của xã hội Họ mang trong mình những ước mơ và hoài bão, nhưng cuộc sống thực tại với những lo toan cơm áo đã khiến họ trở nên mòn mỏi, không tìm thấy lối thoát.
2.1.3 Những viên chức hạng bét Đó là những ông cử, ông phán đ-ợc Nam Cao đề cập đến trong tác phẩm của mình Cuộc sống của họ chẳng khác gì cuộc sống của các nhà văn nhà giáo
Đánh giá tổng quát về ý thức nghề văn của Nam Cao qua các sáng tác
“Đôi mắt” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn phản ánh đối tượng sáng tạo của nghệ thuật mới, thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn và các loại hình nghệ thuật.
Trong quá trình kháng chiến, tác giả đã có những cái nhìn méo mó và hài hước về những người nông dân, mặc dù ban đầu ông cảm thấy họ dốt nát và nhếch nhác Tuy nhiên, khi tổng khởi nghĩa diễn ra, ông nhận ra rằng nông dân Việt Nam có khả năng làm cách mạng một cách hăng hái Tác giả đã cùng họ tham gia chiến đấu, chứng kiến những người anh em với nụ cười tươi tắn, cách gọi lựu đạn là “nựu đạn” và sự can đảm của họ khi ra trận, thể hiện tinh thần quyết tâm và lòng yêu nước sâu sắc.
Văn học cách mạng và kháng chiến nổi bật với việc phát hiện và sáng tạo hình tượng con người quần chúng, thể hiện qua cái nhìn mới của Nam Cao Ông đã dự báo sự xuất hiện của nhân vật trung tâm trong thời đại văn học mới - quần chúng nhân dân, những con người bình thường nhưng vĩ đại Chỉ khi gắn bó thực sự với nhân dân, nhà văn mới có thể khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của họ, đánh giá đúng vai trò trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, từ đó sáng tạo ra những tác phẩm mang tầm vóc và hơi thở của thời đại.
Trong sự nghiệp văn chương của mình, Nam Cao không chỉ thảo luận lý thuyết về nghệ thuật mà còn thể hiện quan điểm qua các nhân vật của ông Những nhân vật này không chỉ lên tiếng mà còn tranh luận và bộc lộ ý kiến cá nhân về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, cũng như giá trị thực sự của văn chương Điều này cho thấy tư tưởng của Nam Cao vẫn còn tính thời sự cho đến ngày nay.
Bản tuyên ngôn nghệ thuật này khẳng định lập trường cách mạng và kháng chiến của các văn nghệ sĩ tiểu tư sản, những người quyết tâm từ bỏ quyền lợi ích kỷ, thói quen sinh hoạt và nếp tư duy cũ Họ sẵn sàng từ bỏ nghệ thuật "cao siêu" trước đây để cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
38 nói nh- nhà văn Độ, làm một anh “tuyên truyền nhãi nhép” nh-ng có ích cho nhân dân cho kháng chiến
Trong tác phẩm "Đôi mắt", Nam Cao đã đặt ra nhiều câu hỏi về cái đẹp và cách nhìn nhận đối tượng nghệ thuật, thể hiện quan niệm sâu sắc về việc tìm kiếm cái đẹp qua đôi mắt của tình thương Ông nhận thức rằng để thấy được bản chất tốt đẹp của người lao động, cần phải nhìn họ bằng ánh mắt đầy yêu thương Qua các tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao đã thể hiện sự băn khoăn về cách nhìn nhận con người, và trong "Lão Hạc", ông khẳng định rằng "người chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ" Nước mắt, theo ông, là "miếng kính biến hình vũ trụ", giúp nhà văn không chỉ nhìn thấy tấm lòng vị tha của Lão Hạc mà còn khám phá được chất thơ trong tâm hồn Chí Phèo.
Nam Cao, qua sự tham gia cách mạng và gắn bó với nhân dân, đã nhận ra rằng quần chúng không chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh mà còn là những anh hùng có khả năng cải tạo hoàn cảnh Những con người mới này sẽ trở thành nhân vật trung tâm trong văn học Mặc dù "đôi mắt" của ông chưa hoàn thiện nhân vật, nhưng đã chỉ ra hướng đi tìm kiếm và thể hiện những nhân vật không phải là những hình mẫu phi thường trong tưởng tượng lãng mạn, mà là những con người thật giản dị, gần gũi, như những người áo vải, răng đen, đi chân đất, gọi lựu đạn là “nựu đạn”.
Cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại đã được khởi xướng bởi những con người dũng cảm, gánh vác cả cuộc kháng chiến với sức mạnh kiên cường Nhân vật tiêu biểu cho tinh thần này không chỉ xuất hiện trong văn học mà còn phản ánh sâu sắc trong tâm thức của dân tộc "Đôi mắt" không chỉ là tác phẩm, mà còn là biểu tượng cho sự hiện diện mạnh mẽ của nhân vật trong nền văn học Việt Nam.
3.4 B-ớc tiến triển trong quan niệm về nghệ thuật, trong ý thức về ý thức nghề văn của Nam Cao
Phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn thể hiện cái riêng và cái cá thể, được hình thành qua việc khắc họa những nét khu biệt, tạo ấn tượng và ám ảnh cho người đọc Phong cách cá nhân không chỉ định hình diện mạo văn học của một thời đại mà còn của một dân tộc Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung đã khẳng định rằng phong cách của Nam Cao trong giai đoạn 1941-1945 là sự kết tinh của phong cách thời đại Chỉ những tài năng lớn như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng và Nam Cao mới có khả năng phát triển phong cách riêng biệt.
Trong các tác phẩm của Nam Cao, ông khắc họa sâu sắc sự giằng xé nội tâm của những trí thức tiểu tư sản giữa “vị nhân sinh” và “vị nghệ thuật” Những lo lắng về cuộc sống thường nhật và khát vọng sáng tạo nghệ thuật của họ thường xung đột với nhau Các tác phẩm như "Quên điều độ", "Đời thừa", "Trăng sáng", "Bài học quét nhà", "Mua nhà", "Những truyện không muốn viết", và "Sống mòn" đã phơi bày hình ảnh bi thảm của những trí thức nghèo, luôn bị áp lực từ miếng cơm hàng ngày, dẫn đến sự “chết mòn” về tinh thần.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao đã xây dựng một thế giới nghệ thuật mới, nâng cao phong cách viết hiện thực của mình Phùng Ngọc Kiếm nhận định rằng sự trưởng thành cùng cách mạng đã cung cấp cho Nam Cao những chất liệu nghệ thuật mới Ông đã khéo léo tạo ra cuộc gặp gỡ giữa Độ và Hoàng, mang đến nhiều lớp nghĩa đối chiếu sâu sắc.
Nam Cao đã thể hiện những t-ơng phản sâu sắc trong tác phẩm của mình, như độ và hoàng, x-a và nay, biết và hiểu, khinh bỉ xem th-ờng và thông cảm Những trang viết chân thành này giúp độc giả cảm nhận được cái nhìn nghệ thuật thực tế và sâu sắc của ông sau Cách mạng.
Trong sách giáo khoa "Văn học 11", tập một, mục II đề cập đến quan điểm nghệ thuật của Nam Cao, nhấn mạnh rằng trong cuộc kháng chiến, ông tự nhủ "sống đã rồi hãy viết" và tích cực tham gia vào các công tác phục vụ kháng chiến Mặc dù vẫn nuôi dưỡng ước mơ sáng tác, nhưng Nam Cao chân thành tin rằng việc đóng góp vào những công việc không mang tính nghệ thuật lúc này chính là cách để chuẩn bị cho một nghệ thuật cao hơn trong tương lai.
Nam Cao đã rời xa chúng ta gần nửa thế kỷ, nhưng ảnh hưởng của ông vẫn ngày càng lan tỏa đến độc giả và các nhà văn trong nước Tác phẩm của Nam Cao chủ yếu xoay quanh hai đề tài chính: cuộc sống của người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống của người nông dân ở quê hương Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích ý thức nghề văn của Nam Cao thông qua một số phát biểu của các nhà văn và các sáng tác tiêu biểu của ông, nhằm làm rõ quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.
Nam Cao đã miêu tả chân thực tình cảnh nghèo khổ và bi kịch tâm hồn của các văn sĩ, phản ánh những vấn đề xã hội lớn lao Ông thể hiện nỗi đau dai dẳng và thầm lặng của họ, những người có ý thức sâu sắc về giá trị cuộc sống và nhân phẩm, nhưng lại phải gánh chịu nỗi khổ từ hoàn cảnh xã hội bất công Các nhân vật của Nam Cao luôn sống trong trạng thái trăn trở, đau khổ, khát vọng và tuyệt vọng, với những mâu thuẫn nội tâm gay gắt.