1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

THÁI LAN và QUAN hệ VIỆT NAM THÁI LAN

39 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề THÁI LAN VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN
Tác giả Nguyễn Minh Giang
Người hướng dẫn PGS TS Nguyễn Cảnh Huệ
Trường học Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành ASEAN và quan hệ Việt Nam-ASEAN
Thể loại tiểu luận thuyết trình
Năm xuất bản 2019
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 39
Dung lượng 850,5 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THÁI LAN

    • 1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội của

      • 1.1.1.Vị trí địa lý

      • 1.1.2.Khí hậu

      • 1.1.3.Dân cư

      • 1.1.4.Kinh tế - chính trị

    • 1.2.Những quan hệ bước đầu giữa Việt Nam - Thái Lan

  • CHƯƠNG 2. QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1946-1949

    • 2.1. Bối cảnh lịch sử

      • 2.1.1. Tình hình Việt Nam

      • 2.1.2. Tình hình Thái Lan

      • Năm 1946, chính phủ Pridi Banomyong giành được thắ

      • Năm 1947, Thái Lan thiết lập chế độ độc tài quân s

    • 2.2. Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1946-1949)

      • 2.2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao

  • CHƯƠNG 3. QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1950-1975

    • 3.1. Bối cảnh lịch sử

      • 3.1.1. Tình hình Việt Nam

      • Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết (21/07/1954),

      • 3.1.2. Tình hình Thái Lan

      • Tháng 9/1950, Mỹ đã ký kết với Thái Lan Hiệp ước h

      • Tháng 11/1967, Pridi lên án Mỹ ném bom tại Hà Nội,

    • 3.2. Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1950-1975)

      • 3.2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao

      • 3.2.2. Quan hệ an ninh-quân sự-quốc phòng

      • 3.2.3. Quan hệ kinh tế

      • 3.2.4. Quan hệ văn hóa - giáo dục - các lĩnh vực k

  • CHƯƠNG 4. QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1976-1978

    • 4.1. Bối cảnh lịch sử

      • 4.1.1. Tình hình Việt Nam

      • 4.1.2. Tình hình Thái Lan

    • 4.2. Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1976-1978)

      • 4.2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao

      • 4.2.4. Quan hệ văn hóa - giáo dục - các lĩnh vực k

  • CHƯƠNG 5. QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1979-1989

    • 5.1. Bối cảnh lịch sử

      • 5.1.1. Tình hình Việt Nam

      • 5.1.2. Tình hình Thái Lan

    • 5.2. Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1979-1989)

  • CHƯƠNG 6. QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1990 - 2019

    • 6.1. Bối cảnh lịch sử

      • 6.1.1. Tình hình Việt Nam

      • 6.1.2. Tình hình Thái Lan

    • 6.2. Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1990-2019)

      • 6.2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao

      • 6.2.2. Quan hệ an ninh-quân sự-quốc phòng

      • 6.2.3. Quan hệ kinh tế

      • 6.2.4. Quan hệ văn hóa - giáo dục - các lĩnh vực k

  • CHƯƠNG 7. ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG, VỊ THẾ VÀ TRIỂN VỌNG

    • 7.1. Đặc điểm quan hệ Việt Nam-Thái Lan

    • 7.2. Tác động của quan hệ Việt Nam-Thái Lan

    • 7.3. Triển vọng quan hệ Việt Nam-Thái Lan

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ THÁI LAN

Khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội của Thái Lan

Thái Lan nằm ở khu vực trung tâm của Đông Nam Á, với tổng diện tích 513115 km2.

Từ điểm cực Bắc tới điểm cực Nam dài 2500 km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây dài

Thái Lan có tổng chiều dài đường bờ biển lên tới 1840 km dọc theo bờ vịnh Thái Lan và 865 km ven bờ Ấn Độ Dương Quốc gia này giáp với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Liên bang Myanmar ở phía Bắc, Kampuchea và vịnh Thái Lan ở phía Đông, trong khi phía Tây giáp với Liên bang Myanmar và Ấn Độ Dương, và phía Nam giáp với Malaysia.

Thái Lan được chia thành bốn khu vực địa lý chính: miền núi phía Bắc, đồng bằng miền Trung, cao nguyên phía Đông và khu vực đồi núi phía Nam Các khu vực này nổi bật với rừng nguyên sinh phong phú, đặc biệt là nguồn tài nguyên cao su và các loại cây trồng nhiệt đới.

Miền Bắc 150,000 km2, có nhiều núi, trong đó có nóc nhà Thái Lan Intamon (2576 m),

4 dòng sông: Ping, Oang, Iom, và Nan Trung tâm hành chính là thành phố lớn thứ hai Thái Lan, Chiềng May

Miền Trung Thái Lan, với diện tích 100.000 km2, là châu thổ sông Chao Phaya, nổi tiếng với đồng ruộng phì nhiêu và là vựa lúa lớn nhất cả nước Khu vực này có hai con sông lớn là Mekong ở phía Đông và Banpakong ở phía Tây Thủ đô Bangkok, nằm bên bờ sông Chao Phaya, là nơi sinh sống của gần 6 triệu dân Miền Trung đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, cung cấp 70% sản lượng gạo của quốc gia và đóng góp 70% giá trị xuất khẩu Sản lượng gạo hàng năm đạt từ 14-17 triệu tấn, với mức cao nhất vào năm 1984 đạt 19 triệu tấn Năm 1988, Thái Lan xuất khẩu 4,7 triệu tấn gạo, mang lại doanh thu 1,8 tỷ USD.

Miền Đông là cao nguyên Khorat 182000 km2, giáp dòng Mekong, bên trong có sông Mun và sông Xi Trung tâm hành chính là Khorat (Nakhon Ratchacima)

Miền Nam Thái Lan, với diện tích 70,000 km2, là một dải đất dài hẹp giáp Malaysia, được bao bọc bởi biển Andaman và vịnh Thái Lan Khu vực này có nhiều con sông ngắn, tạo nên những cánh đồng phì nhiêu nhỏ hẹp, với đất đai và khí hậu lý tưởng cho việc trồng cao su, cà phê và ca cao Thái Lan là một trong những nhà xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới, với 830,000 tấn cao su xuất khẩu vào năm 1987, mang lại giá trị 688 triệu USD Ngoài ra, vùng đất này còn chứa nhiều mỏ thiếc ở Fukhet, và kênh đào Kra dài 168 km nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương qua eo biển miền Nam.

1 Bộ Ngoại giao (1995), Hiệp hội các nước Đông Nam Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.40

2 Vũ Dương Ninh (1991), Các nước ASEAN, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr.168

Thái Lan có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 Nhiệt độ cao nhất thường xảy ra vào tháng 3, trong khi tháng 12 là thời điểm lạnh nhất Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 23,7 đến 32,5 độ Celsius.

Thái Lan, nằm trong vùng gió mùa, sở hữu rừng mưa nhiệt đới phong phú với đa dạng động thực vật Quốc gia này tự hào về các loại gỗ quý như teak, hồng đào và mun ở miền Bắc, cùng với cọ dầu và cao su ở miền Nam Ngoài ra, thiên tuế, vàng tăm, và phi lao cũng hiện diện ở nhiều khu vực khác Đặc biệt, hoa sen là biểu tượng nổi bật, thường xuyên xuất hiện trong các ao hồ, vươn lên từ bùn lầy.

Năm 1987, dân số Thái Lan đạt 54 triệu người, với tỉ lệ tăng trưởng dân số nửa đầu thập niên 80 là 1,7%, thấp hơn mức trung bình 2,3% của Đông Nam Á Người Xiêm là nhóm cư dân chủ yếu di cư từ Nam Trung Hoa, trong khi người Môn Khmer đã sinh sống lâu đời tại miền Trung và miền Nam, tiếp thu văn minh Ấn Độ Cộng đồng Hoa kiều đông đảo, đặc biệt tại các thành phố, đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế, xã hội và chính trị Tại Bangkok, tiếng Hoa phổ biến trong lĩnh vực buôn bán, trong khi tiếng Anh được sử dụng rộng rãi tại các cửa hàng lớn và cơ quan giao tiếp.

Dân số Thái Lan khoảng 59 triệu người, với tỷ lệ gia tăng hàng năm khoảng 1,3% Người Hoa là nhóm đông nhất, tiếp theo là người Mã Lai, Khmer, Lào và Việt, cùng với một số dân tộc thiểu số như H’Mông và Môn sống ở vùng núi cao Ngôn ngữ chính là tiếng Thái, có ảnh hưởng từ tiếng Sankrit và tiếng Trung Quốc Tây Tạng, trong khi tiếng Hoa và tiếng Mã Lai cũng phổ biến Tiếng Anh được sử dụng chủ yếu trong hành chính, giáo dục và các thành phố lớn Phật giáo là quốc giáo với hơn 95% dân số theo đạo này, bên cạnh khoảng 4% theo Islam, 1% theo Ki-tô giáo và các tôn giáo khác.

3 Bộ Ngoại giao (1995), Hiệp hội các nước Đông Nam Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.40

4 Trịnh Huy Hóa (2002), Vương quốc Thái Lan: đối thoại với các nền văn hóa, Nhà xuất bản Trẻ, Hồ Chí Minh, tr.20-24

5 Vũ Dương Ninh (1991), Các nước ASEAN, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr.168

6 Bộ Ngoại giao (1995), Hiệp hội các nước Đông Nam Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.40

Thái Lan thực hiện chế độ quân chủ lập hiến Quốc hội vương quốc Thái Lan gồm một

Hạ nghị viện do dân bầu và một Thượng nghị viện được bổ nhiệm Đứng đầu nhà nước là Vua Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng 7

Theo hiến pháp, Thái Lan là một quốc gia dân chủ với Vua là nguyên thủ quốc gia, thực hiện quyền lực thông qua Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng và Tòa án tối cao Quyền lực thực sự chủ yếu thuộc về Quốc hội và Hội đồng Bộ trưởng Tuy nhiên, Vua Bhumibol Adulyadej đã đóng vai trò quan trọng trong chính trị Thái Lan, đặc biệt là trong việc hòa giải giữa các phe phái trong những giai đoạn khủng hoảng chính trị.

Từ sau Thế chiến thứ hai, Thái Lan đã trải qua ba thời kỳ phát triển kinh tế với những chiến lược khác nhau Trong thập niên 1950, Thái Lan tập trung vào phát triển kinh tế thay thế hàng nhập khẩu, quốc hữu hóa xí nghiệp tư bản nước ngoài, và xây dựng khu vực kinh tế nhà nước, với tốc độ tăng trưởng trung bình 5% nhờ vào viện trợ từ Mỹ Thập niên 1960 và 1970 đánh dấu sự chuyển mình với chiến lược phát triển hướng vào xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và kỹ thuật, giúp nền kinh tế tăng trưởng 7,5%/năm trong giai đoạn 1973-1978 Tuy nhiên, đến thập niên 1980, Thái Lan phải đối mặt với những mâu thuẫn trong chiến lược phát triển, lạm phát gia tăng, và giảm khả năng xuất nhập khẩu, trong khi giá năng lượng tăng cao Cuối những năm 80, nhờ chú trọng đầu tư tư nhân, tỷ lệ vốn đầu tư tư nhân đã tăng lên 70%, giúp Thái Lan trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư châu Á, đặc biệt là từ Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc.

Thái Lan hiện đang xếp thứ hai thế giới về sản xuất tungsten và đứng thứ ba trong lĩnh vực sản xuất thiếc Các ngành công nghiệp chủ yếu của đất nước này bao gồm dệt may và chế biến nông sản.

7 Bộ Ngoại giao (1995), Hiệp hội các nước Đông Nam Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.41

8 Lương Ninh-Vũ Dương Ninh (2008), Tri thức Đông Nam Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr.639

Các ngành công nghiệp chủ yếu trong các nước ASEAN bao gồm sản xuất đồ uống, thuốc lá, xi măng, hàng gia dụng, nhựa, thiết bị điện tử, ô tô, máy tính và linh kiện.

Thái Lan là quốc gia hàng đầu thế giới trong sản xuất lúa gạo và du lịch đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nước này Năm 2016, ngành du lịch đã đóng góp 50 tỷ USD vào nền kinh tế quốc gia, khẳng định vị thế nổi bật của dịch vụ này.

Năm 1989, Tổng sản phẩm quốc nội của Thái Lan đạt gần 80 tỷ USD, với tỷ lệ tăng trưởng GDP năm 1994 đạt 7,4% Xuất khẩu đạt 41,2 tỷ USD và nhập khẩu là 25,88 tỷ USD Thu nhập bình quân đầu người năm 1994 là 2.085 USD, trong khi tỷ giá hối đoái là 25 Baht/1 USD Thái Lan nổi bật là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, và dịch vụ cùng ngành công nghiệp chế tạo là hai lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế Mặc dù khoảng 60% lực lượng lao động làm việc trong nông nghiệp, nhưng chỉ đóng góp 5% GDP, trong khi 10% lao động trong ngành công nghiệp chế tạo đóng góp đến 25% GDP Trữ lượng dầu của Thái Lan năm 1987 ước tính khoảng 160 triệu thùng, và sản lượng dầu thô năm 1991 đạt 1,97 triệu tấn, đáp ứng 15% nhu cầu trong nước.

Những quan hệ bước đầu giữa Việt Nam - Thái Lan

Vào đầu Công nguyên, miền Nam bán đảo Đông Dương, nơi Dvaravati của người Môn cổ và Phù Nam, Chân Lạp của người Khmer, đã là cái nôi nghệ thuật Đông Nam Á Sự giao lưu văn hóa giữa người Thái và người Việt diễn ra mạnh mẽ trong thiên niên kỷ thứ 2 sau Công nguyên, đặc biệt trong nghệ thuật tạo hình, cho thấy mối quan hệ văn hóa giữa hai quốc gia Các pho tượng Ấn Độ giáo từ thế kỷ đầu Công nguyên được tìm thấy ở Nam Việt Nam và miền Nam Thái Lan minh chứng cho điều này Tượng thần Visnu mặc áo dài từ vương quốc Dwaravati đã du nhập vào Chân Lạp và Phù Nam, với pho tượng đầu tiên ở Óc Eo, miền Nam Việt Nam, được xếp vào thế kỷ VI, có sự tương đồng đặc biệt với pho tượng ở Chalya, miền Nam Thái Lan từ thế kỷ V Đây là những tác phẩm cổ nhất về thần Visnu của Việt Nam, Thái Lan và Đông Nam Á Bên cạnh đó, pho tượng Phật Thích Ca ở Đồng Dương cũng thể hiện sự gần gũi sâu sắc trong nghệ thuật tôn giáo của khu vực.

10 Phạm Thanh Tịnh (2014), Tìm hiểu lịch sử văn hóa Thái Lan, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, tr.55

Bài viết "Xem người Thái làm du lịch" của Lưu Nhi Dũ (2016) trên trang Người lao động, phân tích cách mà Thái Lan phát triển ngành du lịch Tác giả nhấn mạnh các chiến lược hiệu quả mà Thái Lan áp dụng để thu hút khách du lịch, từ việc cải thiện cơ sở hạ tầng đến việc quảng bá văn hóa đặc sắc Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức mà ngành du lịch Thái Lan không chỉ tạo ra nguồn thu nhập lớn mà còn góp phần vào việc bảo tồn văn hóa và môi trường Tìm hiểu thêm tại , truy cập ngày 07/09/2019.

Bộ Ngoại giao (1995) đã chỉ ra rằng, các tượng Phật theo trường phái Amaravati ở Sungai Golok, miền Nam Thái Lan, có nhiều điểm tương đồng về hình dáng và tư thế Trong thời kỳ phát triển của vương quốc Phù Nam, vùng hạ lưu sông Mê Nam của người Môn đã trở thành một phần của Phù Nam, với Xích Thổ (Đất Đỏ) là một tiểu quốc phụ thuộc có trình độ chế tạo gốm và đồ đồng thau cao Vào thế kỷ VII, một bộ phận Hoàng tộc của Dvaravati đã thành lập vương quốc Haripunjaya ở miền Bắc Thái Lan và tồn tại cho đến thế kỷ XII Đến thế kỷ XIII, người Thái từ vương quốc Đại Lý đã di cư xuống sông Mê Nam, hòa quyện với người Môn và trở thành tộc người chủ đạo từ thế kỷ XIV Thành phố Sukhothay của người Thái đã giành quyền lực và thiết lập quan hệ thương mại với các nước trong khu vực, trong khi vào cuối thế kỷ XII, vua Xiêm đã cử sứ giả đến Vân Đồn để thiết lập giao thương, mang theo nông sản để đổi lấy hàng hóa Trung Hoa Năm 1335, một phái bộ Xiêm La đã được cử đến Nghệ An để nghênh đón Trần Hiến Tông trong chuyến thị sát biên giới.

Ngoài Trung Hoa, Chân Lạp và Trảo Oa, Đại Việt còn có sự hiện diện của thuyền buôn từ các nước Xiêm và Tam Phật, cho thấy mối quan hệ buôn bán đa dạng và phong phú trong khu vực.

Vào mùa Xuân năm 1184, tháng Ba, các thuyền buôn từ Xiêm La và Tam Phật Tế đã cập bến Vân Đồn để dâng vật quý và xin phép buôn bán Tại đây, các thương nhân đã giao thương với các vùng như Tế (Palembang), Lộ Lạc, Ai Lao và Ngưu Hống.

Bảng thống kê các phái đoàn của Xiêm La đến Đại Việt thời Lý-Trần

Năm Thời điểm Trưởng đoàn Cống phẩm Số lượng

1149 Tháng 2 Thuyền buôn Sản vật địa phương 7

13 Trần Thị Lý (1998), “Một số chứng cứ về mối quan hệ văn hóa Việt Nam-Thái Lan”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 31, tr.70-74

14 Trần Thị Mai (2007), Lịch sử bang giao Việt Nam-Đông Nam Á, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,

15 Ngô Sĩ Liên (1972), Dại việt sử ký toàn thư, tập 2, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 137

1184 Mùa xuân Thuyền buôn Vật quý 1

1360 Tháng 10 Thuyền buôn Vật lạ 1

Quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành trong lịch sử luôn căng thẳng như nước với lửa Sau cuộc xung đột năm 1697, Chiêm Thành bị sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt và biến mất khỏi bản đồ Tuy nhiên, trước mối đe dọa xâm lược từ Mông Cổ, hai nước đã tìm cách hợp tác chặt chẽ Năm 1282, khi Mông Cổ tấn công Chiêm Thành, Đại Việt đã kịp thời gửi viện trợ để hỗ trợ.

Đại Việt đã gặp khó khăn trong việc chấp nhận sự chiếm đóng của Thái Lan tại Chiêm Thành, dẫn đến phản ứng vào năm 1313 Sự xâm lược Chiêm Thành bởi vương triều Sukhothai đã làm căng thẳng quan hệ giữa hai nước Ayutthaya, với chính sách bành trướng nhanh chóng, đã gửi sứ giả đến Vân Đồn vào tháng 4/1467, nhưng bị vua Đại Việt từ chối Mặc dù từ triều Lý, Đại Việt không từ chối các yêu cầu quan hệ từ Thái Lan, nhưng từ triều Hậu Lê, quan hệ giữa Đại Việt và Ayutthaya đã trở nên đối lập do cả hai nước đều theo đuổi chính sách mở rộng lãnh thổ riêng.

Khi chúa Nguyễn chiếm Đàng Trong, thương nhân Xiêm phải chịu thuế nặng, lên đến 2000 quan cho hàng hóa như gạo và trầu cau Sang thế kỷ XVIII, thuyền buôn Xiêm vận chuyển sắt và diêm tiêu để đổi lấy tơ, lụa, gạo và vải vóc, với quy định cụ thể về trọng lượng hàng hóa Quan hệ giữa Đại Việt và Xiêm La từ thế kỷ XVI đến XIX chủ yếu dựa trên các dàn xếp chính trị và xung đột quân sự Năm 1750, chúa Nguyễn Phúc Khoát gửi phái bộ ngoại giao sang Xiêm để phản đối sự can thiệp vào công việc nội bộ của Chân Lạp Đến năm 1755, triều đình Xiêm cũng cử phái bộ sang Đại Việt để thương thảo về vấn đề thuế Năm 1771, vua Phìa Tắc Xin tấn công Hà Tiên và chiếm đóng đến năm 1773 Năm 1780, triều đình Xiêm giết phái bộ ngoại giao của chúa Nguyễn Anh và trục xuất người Việt tại Bangkok Tuy nhiên, năm 1781, vua Xiêm cử Chakri-Sosi tấn công Chân Lạp nhưng sau đó xin hòa, dẫn đến việc quan hệ hai nước trở nên hòa hoãn hơn Năm 1784, Rama I hỗ trợ Nguyễn Anh chống lại các cuộc nổi dậy, củng cố mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Trong bài viết của Nguyễn Tiến Dũng và Nguyễn Thị Phương Chi (2007), tác giả đã trình bày về mối quan hệ giao thương giữa Đại Việt và các nước Đông Nam Á trong thời kỳ Lý-Trần Năm 1802, Xiêm xâm lược Ai Lao và Chân Lạp, dẫn đến việc triều Nguyễn được thành lập và tiếp tục duy trì quan hệ ngoại giao Năm 1807, quy định về nghi thức ngoại giao giữa hai nước được thiết lập, với việc sứ giả thường xuyên trao đổi quà tặng và thăm hỏi Đến năm 1827, khi dân Xiêm gặp nạn đói, triều Nguyễn đã phát chẩn gạo muối cứu trợ Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp quyền lợi tại Chân Lạp, mối quan hệ ngoại giao có thể bị thay thế bằng hành động quân sự, như vào năm 1834.

1839, Xiêm lần lượt quấy rối Châu Đốc, xâm lược Hà Tiên, … đến năm 1841, Thiệu Tri đăng quang, quân Xiêm lui binh 17

Quan hệ Việt - Xiêm đã trở thành một yếu tố quan trọng, chi phối các mối quan hệ khác trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt trong bối cảnh chủ nghĩa thực dân phương Tây can thiệp Gia Long, sau nhiều năm sống lưu vong tại Xiêm và nhận được sự hỗ trợ từ vua Xiêm, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước Ông cử Nguyễn Văn Huấn và Mai Văn Hiếu đi sứ, mang theo quà tặng gồm 100 lạng vàng, 1000 lạng bạc, 1 cây thanh long đao và 600 cân sáp ong Đáp lại, vua Xiêm cũng cử sứ thần đến Phú Xuân với quốc thư và vật phẩm chúc mừng Năm 1804, nhà Nguyễn tiếp tục cử sứ thần sang Xiêm với nhiều quà tặng quý giá, bao gồm 100 lạng bạc, 50 lạng vàng, 100 tấm the màu và vải trắng, cùng 500 cân sáp ong.

Vào năm 1807, vua Gia Long nhận được quà từ vua Xiêm gồm 50 hạng vật bằng ngọc thạch, 3 khẩu súng và các gấm đoạn khác Để đáp lại, ông gửi tặng 500 cân đường phèn, 500 cân đường phối và 30 cân đường cát Năm 1807, sứ giả Xiêm tiếp tục mang theo 3 tấm áo Mãn Châu bào rồng 5 móng, 6 chiếc chăn chiên hoa lan và 8 sợi tơ màu lam đến kinh đô Phú Xuân Đến năm 1809, sứ bộ Xiêm lại mang gấm ngọc, bạch đàn hương và lư hương đến Việt Nam để báo tin Phật vương băng hà Gia Long đã cử 2 đoàn sứ sang Xiêm tham dự tang lễ, mang theo phúng điếu gồm 100 cân đường phổi và 1000 cân đường phèn.

Vào năm 1811, vua Xiêm đã cử sứ giả mang bạch đàn, trầm hương, sáp ong và vôi đỏ đến kinh đô Phú Xuân để tạ ơn Hai năm sau, vào năm 1813, sứ Xiêm tiếp tục đến Phú Xuân dâng tặng gấm đoạn, sô ni và vải tây Để đáp lại, vua Gia Long đã tặng Phật vương 2 cân quế thanh, 500 cân đường cát, 500 cân đường phổi, 50 tấm sa màu, 50 tấm the màu, và tặng Nhị vương 1 cân quế thanh, 250 cân đường cát, 250 cân đường phổi, 25 tấm sa màu, 25 tấm the màu Năm 1817, sứ Xiêm đến Phú Xuân để báo tang Nhị vương.

17 Trần Thị Mai (2007), Lịch sử bang giao Việt Nam-Đông Nam Á, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,

Hồ Chí Minh, tr.50-52 sứ sang phúng điếu Phật vương gửi cảm tạ và tặng vua Gia Long nhiều phẩm vật quý Năm

1819, Gia Long băng hà, Minh Mạng lên ngôi, sai sứ sang Xiêm báo tang và đưa tặng phẩm.

Năm năm sau khi Phật vương băng hà, sứ giả từ Xiêm đến Phú Xuân thông báo tin buồn, khiến Minh Mạng quyết định bãi triều ba ngày để tang Năm 1827, vua A Nồ của tiểu quốc Lang Xạn, dưới sự kiểm soát của Xiêm, nổi dậy và cầu viện Sau khi bắt giải A Nồ về Xiêm, Minh Mạng đã phái Phan Văn Điền mang quân sang Lào và gửi thư trách cứ Xiêm về việc gây hấn nhằm bảo vệ biên giới Tây Bắc Để duy trì hòa bình, Xiêm đã rút quân về nước và tiếp tục giao thương với Việt Nam, dẫn đến tình hình Lan Xạn trở nên ổn định.

Quan hệ giữa Xiêm và Việt Nam ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Chân Lạp và Ai Lao, với Xiêm thể hiện tính chất xâm lược, trong khi Việt Nam giữ vai trò bảo hộ Khi mối quan hệ Xiêm-Việt hòa bình, các tranh chấp với Chân Lạp và Ai Lao thường được giải quyết thông qua đối thoại và ngoại giao Trong thời Gia Long, mặc dù có xung đột, các vua đều ưu tiên biện pháp hòa bình Tuy nhiên, dưới triều Minh Mạng, quan hệ này bắt đầu xấu đi, dẫn đến căng thẳng khu vực với các cuộc chiến tại Ai Lao và Chân Lạp do sự cạnh tranh ảnh hưởng Quan hệ Việt-Xiêm không chỉ quan trọng với hai nước mà còn quyết định sự ổn định của Đông Nam Á Việc duy trì hòa bình trong suốt ba thập kỷ giữa hai nước là một điều đặc biệt, nhờ sự hiểu biết và quý mến lẫn nhau, cùng hợp tác giải quyết vấn đề Chân Lạp.

Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan chủ yếu là sự tương tác giữa chính quyền thực dân Pháp và chính quyền Thái Lan, diễn ra với nhiều căng thẳng Mặc dù Pháp đã giành chiến thắng trước Thái Lan trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng tại Ai Lao và Chân Lạp, nhưng độc lập của Thái Lan vẫn bị đe dọa bởi sự hiện diện của Pháp Từ năm 1937-1938, chính quyền Phi Bun đã có những thay đổi đáng kể trong mối quan hệ này.

18 Nguyễn Hoàng Vinh-Đoàn Nguyệt Linh (2005), “Quan hệ Việt-Xiêm nửa đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu khoa học, số 4, tr.238-240

19 Hồng Thái (1986), “Vài nét về quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á trong lịch sử”, Nghiên cứu lịch sử, HàNội, tr.14-21

QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1946-1949

Bối cảnh lịch sử

Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thành công, mở ra kỷ nguyên mới với sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tuy nhiên, ngay sau đó, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa.

Năm 1946, sau khi bản hiến pháp tháng 5/1946 được thông qua, chính phủ Pridi Banomyong đã thực hiện chính sách đối ngoại ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, đặc biệt là phong trào kháng Pháp của nhân dân Đông Dương.

Năm 1947, Thái Lan thiết lập chế độ độc tài quân sự, nhằm chống lại các tư tưởng tự do dân chủ và đàn áp các chiến sĩ cộng sản Quốc gia này thực hiện chính sách thân Mỹ và phản đối cuộc đấu tranh chống Pháp của cách mạng Đông Dương.

Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1946-1949)

2.2.1 Quan hệ chính trị - ngoại giao

Chính phủ Pridi Panomyong cùng với nhân dân Thái Lan đã thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, biến Thái Lan trở thành một đầu cầu ngoại giao quan trọng cho Việt Nam.

Vào ngày 14/04/1947, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức hoạt động cơ quan đại diện đầu tiên tại Bangkok với quy chế ngoại giao.

2.2.2 Quan hệ an ninh-quân sự-quốc phòng

2.2.4 Quan hệ văn hóa - giáo dục - các lĩnh vực khác

Tháng 2 năm 1948, cơ quan thông tấn Việt Nam được thành lập với nhiệm vụ phát hành các bản tin tiếng Việt-Anh-Thái về Việt Nam Các bản tin này đóng vai trò quan trọng góp phần giúp nhân dân thế giới biết đến cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, từ đó nhận lại được không chỉ sự giúp đỡ về vật chất mà còn về tinh thần của nhân dân Thái Lan 21

Khi thực dân Pháp tấn công các đô thị ở Lào, hàng vạn kiều bào Việt Nam buộc phải di tản sang Thái Lan Tại đây, người dân Thái Lan đã tận tình hỗ trợ họ từ chỗ ăn ở đến sinh hoạt.

20 Hoàng Khắc Nam (2006), “Qúa trình phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan”, Thông tin khoa học xã hội, số 279, tr.52-54

Thái Lan đã trở thành căn cứ hậu phương thứ hai cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, cung cấp lương thực, thuốc men và việc làm Tổng hội Việt kiều yêu nước tại Thái Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc tập trung, nuôi giấu và huấn luyện quân đội.

22 Hà Lê Huyền (2015), “Lịch sử quan hệ Thái Lan-Việt Nam trước 1991”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr.33

QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1950-1975

Bối cảnh lịch sử

Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết vào ngày 21/07/1954, Mỹ đã dần thay thế Pháp tại miền Nam Việt Nam với mục tiêu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự Mỹ mong muốn ngăn chặn sự phát triển của làn sóng đỏ ở Đông Nam Á và chống lại phong trào giải phóng dân tộc đang bùng nổ trong khu vực Điều này đã khơi dậy cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam nhằm chống Mỹ và giành độc lập.

Vào tháng 9/1950, Mỹ và Thái Lan đã ký Hiệp ước hợp tác kinh tế-khoa học kỹ thuật, tiếp theo là Hiệp ước hợp tác viện trợ quân sự vào tháng 10 cùng năm Chính phủ tư sản Thái Lan đã hỗ trợ đế quốc Mỹ trong kế hoạch xâm lược Đông Dương Sự phân hóa trong chính phủ Thái Lan giữa việc công nhận chính phủ Bảo Đại và chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã diễn ra, với sự thúc ép từ đại sứ Mỹ tại Thái Lan, Jessup, nhằm phục vụ lợi ích của Mỹ, Anh và Pháp Sau ba lần Thống chế Phibun Songkham đưa vấn đề này ra Hội nghị Hội đồng Bộ trưởng vào tháng 2 năm 1950, chính quyền Bangkok đã chính thức công nhận chính phủ Bảo Đại.

Vào tháng 11/1967, Pridi đã lên án hành động ném bom của Mỹ tại Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam Đến tháng 7/1969, sinh viên Đại học Luật Bangkok đã tổ chức biểu tình phản đối Tổng thống Nixon, yêu cầu chính phủ Thái Lan rút quân khỏi Việt Nam 23 trí thức Thái Lan đã gửi thư ngỏ tới Tổng thống Nixon, tố cáo Mỹ về tội ác chiến tranh xâm lược Khi Mỹ dần rút lui khỏi Đông Nam Á, chính phủ Thái Lan cũng đã từng bước thay đổi chính sách đối với Việt Nam, và đến tháng 4/1972, đội quân Thái Lan đã rút khỏi Việt Nam.

Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1950-1975)

Đây là thời kỳ đối đầu mới trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan.

3.2.1 Quan hệ chính trị - ngoại giao

Chính sách đối đầu của Thái Lan tập trung vào bốn vấn đề chính: thứ nhất, việc hợp tác với chính quyền Sài Gòn; thứ hai, những mâu thuẫn với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thứ ba, việc thiết lập liên minh với các quốc gia khác.

23 Hà Lê Huyền (2015) “Lịch sử quan hệ Thái Lan-Việt Nam trước 1991”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr.34

24 Phạm Nguyên Long-Nguyễn Tương Lai (1998), Lịch sử Thái Lan, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.370

Mỹ trực tiếp tham chiến chống lại Việt Nam, 4) can thiệp chống lại phong trào cách mạng trên toàn cõi Đông Dương 25

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhân dân yêu chuộng hòa bình Thái Lan đã nhiều lần phản đối chính sách của chính phủ Thái Lan đối với Việt kiều và người Việt tản cư Tuy nhiên, chính phủ Thái Lan vẫn kiên quyết đưa toàn bộ người Việt tản cư hồi hương về Việt Nam Điều này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề Việt kiều và người Việt tản cư trong quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan trong giai đoạn này.

3.2.2 Quan hệ an ninh-quân sự-quốc phòng

Trong bối cảnh mâu thuẫn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ gia tăng, Thái Lan đã thể hiện rõ chính sách đối đầu với Việt Nam Quốc gia này đã thiết lập quan hệ hợp tác với chính quyền Bảo Đại, đồng thời mâu thuẫn với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Thái Lan cũng tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tại Việt Nam và can thiệp vào phong trào cách mạng tại Lào và Campuchia Vào tháng 9 năm 1954, Thái Lan chính thức gia nhập.

Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á đã trở thành căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ, với 6 sân bay quân sự được xây dựng tại Thái Lan, trong đó sân bay Utapao có khả năng tiếp nhận máy bay chiến lược B52 Cảng Sataship trở thành cảng lớn nhất Thái Lan dành cho tàu chiến Mỹ, từ đó các máy bay và tàu chiến Mỹ thực hiện các chiến dịch tấn công tại Đông Dương Đến tháng 3/1967, 2300 lính Thái Lan từ sư đoàn “rắn hổ mang” đã được điều động sang miền Nam Việt Nam, và đến tháng 7/1968, số lượng lính Thái Lan tại chiến trường Việt Nam đã tăng lên 5200 người.

Vào tháng 8 năm 1973, Thái Lan và Hoa Kỳ đã ký kết tuyên bố chung về việc rút quân Mỹ từng phần khỏi Thái Lan Trong bối cảnh kinh tế xã hội khó khăn và tình hình chính trị căng thẳng, các cuộc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ diễn ra liên tục, Thái Lan buộc phải điều chỉnh mối quan hệ với Việt Nam để đối phó với tình hình rối ren trong nước.

Viện trợ kinh tế của Mỹ cho Thái Lan đã tăng đáng kể qua các giai đoạn, từ 104,6 triệu USD trong giai đoạn 1950-1956 lên 294 triệu USD trong giai đoạn 1957-1965 Sau khi Thái Lan tham gia vào cuộc chiến tại Việt Nam, viện trợ đã tiếp tục gia tăng, đạt 55 triệu USD vào năm 1966, 77 triệu USD vào năm 1967 và 100 triệu USD vào năm 1968.

25 Hoàng Khắc Nam (2006), “Qúa trình phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan”, Thông tin khoa học xã hội, số 279, tr.52-54

26 Trịnh Diệu Thìn (2006), Việt kiều Thái Lan trong mối quan hệ Thái Lan-Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.218

27 Hoàng Khắc Nam (2006), “Qúa trình phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan”, Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, tr.62-70

28 Hà Lê Huyền (2015), “Lịch sử quan hệ Thái Lan-Việt Nam trước 1991”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr.35

29 Vũ Dương Ninh (1990), Vương quốc Thái Lan: lịch sử và hiện tại, Nhà xuất bản Đại học Tổng hợp, Hà Nội, tr.122

Vào ngày 05/08/1950, chính phủ Thái Lan đã công nhận chính phủ Bảo Đại và điều chỉnh quy chế cư trú của Việt kiều, giảm số tỉnh từ 8 xuống còn 5 tỉnh: Nongkhai, Sakonnakhon, Ubonratthani, Nakhonphanom và Prachinburi Mục đích của việc này là để kiểm soát và quản lý hoạt động của Việt kiều, đồng thời ngăn chặn việc quyên góp vàng bạc, vũ khí cho các hoạt động cách mạng tại Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Đến năm 1958, chính quyền Sarit Thanarat đã đưa ra nhiều quy định mới nghiêm ngặt hơn đối với cộng đồng Việt kiều.

- cấm người Việt Nam hoạt động trong 25 ngành như chụp ảnh, sửa radio, sửa autobike, thợ điện, cắt tóc, bán thuốc, sửa xe máy, …;

Người Việt Nam hoạt động trong các ngành nghề khác nhau cần phải nộp thuế 1.000 Baht mỗi năm Đối với những ai mở cửa hàng, họ phải đóng thuế thu nhập và nếu có đăng ký kinh doanh, sẽ phải nộp thêm thuế thương mại 500 Baht mỗi năm.

Bên cạnh đó, chính phủ Thái Lan tiếp tục chủ trương quản lý người Việt tản cư, áp bức và bắt bớ cộng sản 30

3.2.4 Quan hệ văn hóa - giáo dục - các lĩnh vực khác

Vào năm 1951, chính quyền Bangkok đã yêu cầu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngừng hoạt động tuyên truyền về cuộc kháng chiến chống Pháp tại Thái Lan, đồng thời buộc phải đóng cửa cơ quan đại diện của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ngừng hoạt động của cơ quan thông tấn ở Thái Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn căng thẳng trong mối quan hệ giữa Thái Lan và Việt Nam.

Vào ngày 25 tháng 10 năm 1975, Ngoại trưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gửi thư cho Ngoại trưởng Thái Lan, thể hiện sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc bình thường hóa quan hệ hai nước và đề xuất ba nguyên tắc cơ bản cho quá trình này.

Tôn trọng quyền dân tộc và quyền tự quyết của mỗi quốc gia là điều quan trọng, không can thiệp vào công việc nội bộ và không tham gia vào các hành động xâm lược, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.

Việt Nam kiên quyết không cho phép bất kỳ quốc gia nào sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ để xâm lược hay can thiệp vào các nước khác trong khu vực, cả trực tiếp lẫn gián tiếp.

Ba là, thiết lập mối quan hệ hữu nghị và láng giềng tốt đẹp giữa hai quốc gia, đồng thời thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hóa dựa trên nguyên tắc bình đẳng và lợi ích chung.

Nghiên cứu của Thananan Boonwanna (2008) về quan hệ Thái Lan-Việt Nam trong giai đoạn 1976-2004 đã được trình bày trong luận án Tiến sĩ tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển và biến đổi trong mối quan hệ giữa hai quốc gia trong bối cảnh lịch sử và chính trị.

31 Hà Lê Huyền (2015), “Lịch sử quan hệ Thái Lan-Việt Nam trước 1991”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7, tr.33

Tính chất quan hệ Thái Lan-Việt Nam giai đoạn 1950-1975 chủ yếu là đối đầu, với đỉnh cao là sự tham gia trực tiếp của quân đội Thái Lan tại miền Nam Việt Nam và chủ trương cho người Việt tản cư hồi hương Tuy nhiên, sau khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng và trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước đã bắt đầu diễn ra chậm chạp, đánh dấu một dấu hiệu tích cực cho mối quan hệ song phương.

32 Hoàng Khắc Nam (2007), Quan hệ Việt Nam-Thái Lan (1976-2000), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.70

QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1976-1978

Bối cảnh lịch sử

Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển Trong bối cảnh mới, việc thúc đẩy quan hệ với các nước trong khu vực, đặc biệt là Thái Lan, trở thành một chủ trương quan trọng nhằm đáp ứng các yêu cầu và thách thức hiện tại.

Vào cuối năm 1975, Thái Lan chứng kiến cuộc đấu tranh mạnh mẽ đòi dân chủ và xem xét lại chính sách đối ngoại thân Mỹ của chính phủ Trong giai đoạn này, các chính phủ mới liên tiếp thay đổi, phản ánh sự bất ổn chính trị Từ năm 1974 đến 1975, người dân Thái Lan, bao gồm sinh viên, tiểu tư sản và trí thức, đều nhận thức rằng cần điều chỉnh chính sách ngoại giao với ba nước Đông Dương và học cách chung sống hòa bình với các nước láng giềng, dù họ là những quốc gia cộng sản Thủ tướng Seni Pramode đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này.

Chính phủ Thái Lan cam kết thúc đẩy quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng và tích cực hỗ trợ hợp tác trong lĩnh vực ngoại giao với các quốc gia ASEAN Đồng thời, Thái Lan sẽ tăng cường nỗ lực thiết lập quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1976-1978)

4.2.1 Quan hệ chính trị - ngoại giao

Vào ngày 6/8/1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu quốc kết thúc, Ngoại trưởng Thái Lan Phichay Rattakun đã đến Hà Nội ký Hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao với Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh Tiếp theo, trong các năm 1977 và 1978, Việt Nam và Thái Lan đã thảo luận và thống nhất việc mở Lãnh sự quán, ký kết các hiệp định về hàng không và hợp tác kinh tế - khoa học kỹ thuật.

Giai đoạn này thể hiện sự giằng co giữa hai xu hướng đối đầu và cải thiện trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan, đồng thời phản ánh những diễn biến thăng trầm của quá trình chuyển tiếp này.

Tháng 2/1977 và năm 1978, Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh đã đi thăm hữu nghị các nước Đông Nam Á bao gồm Lào, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines Tuy đã thiết lập

33 Khum Vichij Mustra (1973), Đại cương về Thái Lan, Nhà xuất bản Ruôm săn, Bangkok

34 Vụ tuyên huấn Bộ Ngoại giao Thái Lan (1996), Nhìn nhận chung về quan hệ Thái Lan-Việt Nam

Mặc dù quan hệ Việt Nam-Thái Lan đã chính thức phát triển, nhưng vẫn tồn tại những trở ngại và thách thức Sau cuộc đảo chính quân sự vào ngày 06/11/1976, chính quyền Thanin Kraivichian đã thực hiện chính sách chống Cộng sản, gây ra mâu thuẫn và bất đồng giữa hai nước Hệ quả là Việt Nam đã yêu cầu Thái Lan tiến hành lệnh bắt bớ đối với những người Việt Nam tản cư.

- chấm dứt việc bắt vô cớ các công dân Việt Nam;

- đưa người Việt Nam bị giam giữ ở Sikhiu về nơi ở cũ;

- thả những người bị bắt giam vô cớ và bồi thường thiệt hại về tài sản cho họ;

- cho phép người Việt tiếp tục sinh sống và làm ăn bình thường, yên ổn 36

2.2.2 Quan hệ an ninh-quân sự-quốc phòng

4.2.4 Quan hệ văn hóa - giáo dục - các lĩnh vực khác

Ngày 20/10/1977, Đại tướng Kriangsak Chanmanan đã khởi xướng chính sách ngoại giao thúc đẩy hợp tác và hiểu biết lẫn nhau với Việt Nam, Lào, Kampuchea Sự ra thông cáo chung giữa Thái Lan và Việt Nam vào ngày 02/12/1977 đánh dấu sự khôi phục quan hệ rõ nét Chuyến thăm Thái Lan của Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ 06-10/09/1978 đã tạo nền tảng vững chắc cho tình hữu nghị hai nước, với việc ký kết Tuyên bố chung và Thỏa thuận về buôn bán, hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, cũng như khuyến khích trao đổi văn hóa và các lĩnh vực khác Sự cải thiện quan hệ này đã mở ra cơ hội hợp tác kinh tế khu vực, bao gồm việc khai thác tuyến bay Bangkok-Vientiane-Hà Nội và khôi phục tổ chức Uỷ ban sông Mekong.

36 Khachatphay Burutpat (1978), Việt Nam tản cư, Nhà xuất bản Duongkhamon, Bangkok, tr.166-167

37 Hà Lê Huyền (2015), “Lịch sử quan hệ Việt Nam-Thái Lan trước năm 1991”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr.36

QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1979-1989

Bối cảnh lịch sử

5.1.1 Tình hình Việt Nam Đầu năm 1979, một loạt những sự kiện chính trị đã đến với Việt Nam: Khmer Đỏ tấn công biên giới Tây Nam Việt Nam, buộc Việt Nam phải đưa quân tiến sát biên giới Kampuchea-Thái Lan để truy quét Khmer Đỏ Việc Việt Nam tỏ thái độ sẵn sàng hợp tác với Liên Xô để bảo vệ biên giới nếu cần thiết đã khiến người ta nghĩ tới sự lãng quên của Việt Nam với chính nguyên tắc ngoại giao 4 điểm mà Việt Nam đã vừa tuyên bố ở giai đoạn trước.

Do đó, một làn sóng phản đối Việt Nam rộng kháp trên trường quốc tế đã trỗi dậy 38

Với chính sách đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành công ban đầu trong kinh tế, đặc biệt là khi giải quyết dứt điểm vấn đề Kampuchea.

Trong giai đoạn 1979-1989, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội hoạt động như đồng minh của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng này Không có giai đoạn nào trong lịch sử tồn tại các đảng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định hệ thống chính trị nhất nguyên của đất nước Sự đồng thuận của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên sức mạnh vô địch, giúp dân tộc vượt qua thử thách và tiến lên phía trước.

Năm 1986, Thái Lan bắt đầu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội lần thứ VI dưới sự lãnh đạo của tân thủ tướng Jatjai Chunhavan Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9% vào năm 1987 và kỷ lục 13,2% vào năm 1988, biến Thái Lan từ một nước kêu gọi đầu tư thành một trong những quốc gia xuất khẩu vốn đầu tư nước ngoài Để tìm kiếm thị trường đầu tư và tiêu thụ hàng hóa, Jatjai Chunhavan đã nhận thấy Đông Dương là một thị trường tiềm năng với hơn 100 triệu dân, nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên phong phú, đồng thời đang thực hiện chính sách đổi mới mở cửa Tại cuộc họp báo ngày 22/12/1988 ở Bangkok, ông đã nhấn mạnh tầm quan trọng của khu vực này.

38 Tuyên bố của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh ngày 05/07/1976

39 Nguyễn Thị Quế (2001), “25 năm quan hệ Việt Nam - Thái Lan”, Nghiên cứu lịch sử, số 6, tr.72

40 Tạ Thị Nguyệt Trang (2016), Quan hệ Việt Nam-Thái Lan (2006-2015) dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do, Luận văn Thạc sĩ,

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã ghi nhận phát biểu quan trọng rằng việc tăng cường mối quan hệ với Việt Nam sẽ là ưu tiên hàng đầu Ông cũng nhấn mạnh mục tiêu biến biển Đông từ một khu vực xung đột thành một thị trường phát triển.

Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1979-1989)

Giai đoạn 1979-1989 đánh dấu một bước chuyển mới trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan, khi cả hai nước đối mặt với nguy cơ chiến tranh và sự tàn bạo của chế độ Khmer Đỏ Quan hệ giữa hai quốc gia chủ yếu xoay quanh vấn đề Kampuchea, với năm 1985 mở ra những cơ hội mới nhằm chấm dứt chiến tranh lạnh Từ 1985 đến 1989, mặc dù sự đối đầu giảm bớt và xu thế hòa dịu cũng như đối thoại tăng cường, nhưng những thay đổi cơ bản vẫn chưa diễn ra.

2.2.1 Quan hệ chính trị - ngoại giao

Với sự bùng nổ vấn đề Kampuchea, quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan đã chuyển sang một giai đoạn đối đầu mới, chủ yếu bị ảnh hưởng bởi các diễn biến liên quan đến sự kiện này.

Với những tiến triển trong vấn đề Kampuchea, bao gồm việc Việt Nam rút quân, quan hệ Thái Lan-Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể Sự ra đời của chính phủ mới Thái Lan và nhiều chuyến thăm của các nhà lãnh đạo hai nước đã góp phần thúc đẩy mối quan hệ này Thủ tướng Chatichai Choonhavan từng nhấn mạnh rằng việc tăng cường quan hệ với Việt Nam là một trong những ưu tiên hàng đầu của ông, phản ánh bước phát triển mới trong quan hệ song phương.

2.2.2 Quan hệ an ninh-quân sự-quốc phòng

Quan hệ Thái Lan-Việt Nam giai đoạn 1986-1989 đã chuyển từ đối đầu sang hòa dịu và tăng cường đối thoại Năm 1986, Việt Nam thực hiện đổi mới đường lối đối ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại, nhằm giữ gìn hòa bình ở Đông Dương và góp phần ổn định hòa bình tại Đông Nam Á và toàn cầu Đồng thời, Việt Nam cũng chú trọng củng cố quan hệ hữu nghị với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, tận dụng điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

41 Nguyễn Thị Quế (2001), “25 năm quan hệ Việt Nam - Thái Lan”, Nghiên cứu lịch sử, số 6, tr.72

Trong luận văn Thạc sĩ của Tạ Thị Nguyệt Trang (2016), tác giả phân tích quan hệ Việt Nam-Thái Lan giai đoạn 2006-2015 từ góc nhìn của chủ nghĩa tự do Nghiên cứu này được thực hiện tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, và cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển và biến đổi trong mối quan hệ giữa hai quốc gia.

43 Hoàng Khắc Nam (2006), “Qúa trình phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan”, Thông tin khoa học xã hội, số 279, tr.52-54

44 Leszek Buszynski (1989), “New Aspirations and old Constrains in Thailand’s Foreign Policy”, Asian study, vol 29, no 11, p.1057-1072

Đại tướng Prem Tinsulanonda, Thủ tướng Thái Lan từ 1980 đến 1988, đã thực hiện chính sách đối ngoại tập trung vào việc xây dựng mối quan hệ với các cường quốc và quốc gia phát triển Trong bối cảnh đó, Thái Lan đặc biệt chú trọng đến an ninh quốc gia và tìm kiếm đồng minh để ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam, được Liên Xô hỗ trợ Mối quan hệ giữa Thái Lan và Việt Nam trở nên căng thẳng khi quân tình nguyện Việt Nam truy quét tàn quân Khmer Đỏ tại biên giới Thái Lan Dù vậy, hai nước vẫn duy trì quan hệ ở mức độ nhất định, thể hiện qua chuyến thăm chính thức của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tới Thái Lan.

Năm 1985, Ngoại trưởng Thái Lan công bố sẽ không cản trở các doanh nghiệp tư nhân Thái Lan trong việc buôn bán với Việt Nam, đánh dấu sự khởi đầu của việc thực hiện các hợp đồng thương mại gỗ giữa hai nước, khôi phục lại mối quan hệ thương mại đã bị gián đoạn trước đó.

Giai đoạn 1986-1989 chứng kiến sự cải thiện rõ rệt trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Thái Lan, mặc dù vẫn còn tồn tại những trở ngại chính trị Quan hệ thương mại song phương giữa hai nước tiếp tục tăng trưởng ổn định, dù quy mô còn nhỏ Ngoài ra, các hoạt động thăm dò và xúc tiến đầu tư đã được khởi động, thể hiện niềm tin vào khả năng cải thiện mối quan hệ này.

Vào tháng 1/1989, chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Siddhi Savetsila và Bộ trưởng Thương mại Subin Pinikhayan đã đánh dấu sự chuyển mình từ đối đầu sang hợp tác giữa Thái Lan và Việt Nam Mặc dù quan hệ đầu tư phát triển chậm và gặp nhiều khó khăn, hai bên đã tích cực thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như dầu khí, ngân hàng, du lịch, chế biến nông sản và xuất khẩu gạo, góp phần quan trọng vào sự phát triển mới trong quan hệ song phương.

2.2.4 Quan hệ văn hóa - giáo dục - các lĩnh vực khác

Trong giai đoạn 1976-1989, quan hệ Việt Nam-Thái Lan tồn tại hai xu hướng song song: đối đầu và cải thiện Mặc dù đối đầu chiếm ưu thế và trở thành đặc điểm chính trong quan hệ hai nước, xu hướng cải thiện cũng ngày càng mạnh mẽ, giúp giảm thiểu căng thẳng và ngăn chặn sự leo thang xung đột Sự đan xen giữa hai xu hướng này tạo nên một quá trình quan hệ không đồng nhất, với những lúc căng thẳng và lúc hòa hoãn.

46 Vũ Dương Huân (2003), Hội thảo Quan hệ Việt Nam-Thái Lan hướng tới tương lai, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, tr.35

47 Hoàng Khắc Nam (2006), “Qúa trình phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan”, Thông tin khoa học xã hội, số 279, tr.52-54

48 Phạm Nguyên Long-Nguyễn Tương Lai (1998), Lịch sử Thái Lan, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.405

49 Hoàng Khắc Nam (2006), “Qúa trình phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan”, Thông tin khoa học xã hội, số 279, tr.52-54

QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN 1990 - 2019

Bối cảnh lịch sử

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Việt Nam đã thực hiện đường lối đổi mới, khẳng định sự chuyển mình mạnh mẽ qua thực tiễn Quốc gia này đã thiết lập quan hệ ngoại giao kinh tế với hơn 160 quốc gia và khu vực, đồng thời cải cách cơ cấu chính trị, xóa bỏ các chính sách bao cấp lỗi thời Việt Nam nhanh chóng chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, tạo ra diện mạo hoàn toàn mới và sẵn sàng kêu gọi đầu tư từ khắp nơi trên thế giới.

Năm 2015, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 6,8% so với năm 2014, với sự đóng góp từ các khu vực khác nhau Khu vực nông lâm-ngư nghiệp chỉ đóng góp 0,4 điểm % với mức tăng trưởng 2,4%, thấp hơn 3,4% của năm 2014 Ngược lại, khu vực công nghiệp - xây dựng có sự đóng góp lớn hơn, đạt 3,2 điểm % và tăng trưởng 9,6%, cao hơn 6,4% của năm trước Khu vực dịch vụ đóng góp 2,4 điểm % với mức tăng trưởng 6,3%, trong đó ngành bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp theo là tài chính ngân hàng và bảo hiểm, và cuối cùng là kinh doanh bất động sản Quy mô nền kinh tế năm 2015 đạt 4,192,900 tỷ đồng, với GDP bình quân đầu người là 47 triệu đồng.

2014 là khu vực nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 18%, khu vực công nghiệp-xây dựng chiếm 33%, khu vực dịch vụ chiếm 39% 51

50 Nguyễn Thị Quế (2006), “30 năm quan hệ Việt Nam - Thái Lan”, Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 14, tr.12

Trong luận văn Thạc sĩ của Tạ Thị Nguyệt Trang (2016), tác giả phân tích quan hệ Việt Nam-Thái Lan giai đoạn 2006-2015 từ góc nhìn của chủ nghĩa tự do Nghiên cứu được thực hiện tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, và trình bày những điểm nổi bật về sự phát triển trong mối quan hệ hai nước.

Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ 6 (1986-1991) đã giúp Thái Lan tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành một nước công nghiệp mới (NICs) Việc mở rộng thị trường đầu tư ra nước ngoài trở thành nhu cầu cấp thiết cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

Cuộc đảo chính ngày 19/09/2006 đã xảy ra tại Bangkok, khi Thaksin đang ở New York tham dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc để phát biểu về “Tương lai dân chủ ở châu Á” Nguyên nhân của cuộc đảo chính này là do “phương cách Thaksin” đã tạo ra những lực lượng đối lập mạnh mẽ.

Trong bài viết của Nguyễn Thị Quế (2006) về quan hệ Việt Nam - Thái Lan, tác giả chỉ ra rằng vào đầu năm 2006, lực lượng trung lưu và thượng lưu thành thị đã tổ chức các cuộc biểu tình chống chính phủ, làm trầm trọng thêm khủng hoảng chính trị Quân đội đóng vai trò chủ chốt trong việc đẩy cuộc khủng hoảng lên đỉnh điểm và kết thúc bằng một cuộc đảo chính Ngoài ra, tình trạng tham nhũng trong bộ máy quan liêu, gia tăng tệ nạn xã hội, buôn bán và sử dụng ma túy, cùng với bạo loạn tái phát ở miền Nam từ cuối năm 2004 cũng là những vấn đề nghiêm trọng cần được chú ý.

“phương cách ASEAN” chính là nguồn gốc quyết định nhất dẫn đến sự kiện ngày 19/09/2006.

Sau cuộc đảo chính, Thái Lan rơi vào tình trạng hỗn loạn với các cuộc biểu tình từ nhiều phe phái khác nhau, bao gồm phe Áo Đỏ ủng hộ Thaksin, phe Áo Vàng chống đối, và người Hồi giáo gốc Malay ở miền Nam Những cuộc đụng độ giữa các phe diễn ra liên tục, đặc biệt là vào năm 2008 khi chính phủ Abhisit Vejjapava được bầu lên, phải đối mặt với 20,000 người biểu tình bao vây văn phòng thủ tướng Dù Yungluck Shinawatra lên nắm quyền vào năm 2011 đã tạm thời làm dịu tình hình, nhưng mâu thuẫn giữa các phe phái vẫn còn âm ỉ.

Năm 2013, bất ổn chính trị gia tăng khi Yingluck Shinawattra cố gắng thông qua dự luật ân xá cho những người biểu tình tại Bangkok vào ngày 13/01/2014, nhằm "xóa tội" cho cựu thủ tướng Thaksin Để giảm căng thẳng, Yingluck đã giải tán Quốc hội và kêu gọi bầu cử vào tháng 2 năm 2014, nhưng người biểu tình từ chối vì lo ngại Đảng Vì nước Thái sẽ thắng lợi nhờ sự ủng hộ từ nông thôn Kết quả là cuộc tổng tuyển cử tháng 2/2014 thất bại Đến tháng 5/2014, Tư lệnh lục quân Prayut Chanocha đã thực hiện đảo chính, và đến tháng 8/2015, phe Áo Đỏ đã phản đối chính quyền quân sự, dẫn đến sự gia tăng căng thẳng trong bối cảnh chính trị chia rẽ tại Thái Lan.

Vào ngày 23 tháng 7 năm 2015, chính quyền quân sự Thái Lan đã công bố chi tiết bản Hiến pháp lâm thời, qua đó cho phép Prayut Chan-o-cha giữ chức vụ Thủ tướng lâm thời cho đến khi diễn ra cuộc bầu cử theo lịch trình của Hiến pháp mới Tuyên bố này cũng bao gồm việc tổ chức trưng cầu dân ý về bản dự thảo Hiến pháp.

Bài luận văn Thạc sĩ của Tạ Thị Nguyệt Trang (2016) nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam - Thái Lan trong giai đoạn 2006-2015 từ góc nhìn của chủ nghĩa tự do, được thực hiện tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Nội dung bài viết tập trung vào các yếu tố chính trị, kinh tế và văn hóa ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ giữa hai quốc gia trong thời kỳ này.

Chính quyền của Thủ tướng Prayut đã công bố lộ trình cải cách Thái Lan, với cuộc tổng tuyển cử dự kiến vào năm 2017 Tuy nhiên, tình hình chính trị bất ổn có thể tác động tiêu cực đến chính sách đối ngoại của đất nước.

Năm 1998, tỷ lệ đầu tư công so với GDP trung bình đạt 10%, sau cuộc đảo chính năm

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 và bất ổn chính trị đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư tại Thái Lan, với tỷ lệ đầu tư công so với GDP chỉ đạt 5%, chủ yếu từ các nhà đầu tư nội địa Năm 2009, chính phủ Thái Lan đã công bố gói kích thích kinh tế trị giá khoảng 45 tỷ USD Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới cho biết rằng sự hạn chế trong đầu tư không chỉ do thiếu hụt ngân sách cho các dự án hạ tầng mà còn do tình trạng biểu tình và xung đột chính trị thường xuyên, gây khủng hoảng lòng tin và lo ngại về ổn định chính trị trong nước.

Thủ tướng Thái Lan khẳng định cam kết tổ chức tổng tuyển cử vào năm 2017, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc tiến tới dân chủ Thông tin này được đăng tải trên trang VOV vào ngày 27 tháng 1 năm 2016 và đã thu hút sự chú ý của công chúng.

56 http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&id3100

Năm 2015, kinh tế Thái Lan phục hồi chậm do tình hình kinh tế toàn cầu và việc các ưu đãi thuế quan của Liên minh châu Âu hết hiệu lực, ảnh hưởng đến hàng hóa Thái Lan Kể từ tháng 5/2014, Thủ tướng Prayut Chanocha đã tiến hành cải cách nhiều lĩnh vực kinh tế, bao gồm thay đổi ưu đãi, thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển sản xuất tập trung vào thị trường nội địa thay vì xuất khẩu Những nỗ lực này của chính phủ đã góp phần vào sự phục hồi kinh tế trong 9 tháng đầu năm.

Năm 2015, nền kinh tế Thái Lan ghi nhận mức tăng trưởng 2,9% so với năm trước, với kim ngạch xuất khẩu đạt 161,56 tỷ USD Tuy nhiên, đầu tư nước ngoài lại sụt giảm mạnh 33% so với cùng kỳ năm trước.

2014 Bên cạnh đó, ngành du lịch góp phần không nhỏ cho nền kinh tế Thái Lan khởi sắc với lượng du khách tăng 9% so với cùng kỳ năm 2014 57

Quan hệ Việt Nam - Thái Lan (1990-2019)

Giai đoạn 1990-2000, quan hệ Việt Nam-Thái Lan trải qua sự cải thiện và phát triển hợp tác mạnh mẽ Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong mối quan hệ giữa hai nước.

6.2.1 Quan hệ chính trị - ngoại giao

Tiếp đó, tháng 3/1994, Thái Lan chính thức tuyên bố ủng hộ Việt Nam tham gia hiệp ước Bali 1 và trở thành thành viên của ASEAN.

Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, mối quan hệ chính trị và ngoại giao giữa Việt Nam và các nước thành viên đã được củng cố mạnh mẽ Nhiều chuyến thăm cấp cao từ cả hai phía đã được tổ chức một cách khẩn trương, thể hiện sự cam kết trong việc tăng cường hợp tác và phát triển quan hệ đa phương.

Báo cáo của Bộ Công thương về tình hình kinh tế Thái Lan năm 2015 cung cấp cái nhìn tổng quan về các chỉ số kinh tế quan trọng và xu hướng phát triển của quốc gia này Thái Lan đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực xuất khẩu và đầu tư, mặc dù vẫn đối mặt với một số thách thức trong việc duy trì tăng trưởng bền vững Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại trang web chính thức của Bộ Công thương.

Trong luận văn Thạc sĩ của Tạ Thị Nguyệt Trang (2016), tác giả phân tích quan hệ Việt Nam-Thái Lan giai đoạn 2006-2015 từ góc nhìn của chủ nghĩa tự do Nghiên cứu này được thực hiện tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, với những thông tin quan trọng được trình bày trên trang 25.

Quốc hội Nông Đức Mạnh (09/1996), Ngoại trưởng Kasem Kasemri (04/1996), Chủ tịch nước Trần Đức Lương (10/1998), Thủ tướng Chavalit Yongchaiyudh (07/1997), …

Sau khi nhậm chức, Thủ tướng Thaksin đã chọn Việt Nam là điểm đến đầu tiên trong chuyến thăm các nước ASEAN, đánh dấu mốc kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ Thái Lan-Việt Nam Các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo hai nước, như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An vào tháng 9/2003 và Thủ tướng Samak Sundaravej năm 2007, đã củng cố mối quan hệ Những chương trình hợp tác quan trọng như Nội các chung Việt Nam-Thái Lan và các cuộc họp giữa các bộ trưởng đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, thúc đẩy sự phát triển quan hệ chính trị-an ninh giữa hai nước trong suốt thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI.

Với 10 năm kinh nghiệm từ 1991 đến 2001, Việt Nam và Thái Lan nhận ra rằng để phát triển đất nước, họ cần hợp tác thay vì đối đầu Đây là con đường duy nhất trong bối cảnh quốc tế hiện tại sau Chiến tranh Lạnh Mối quan hệ Việt Nam - Thái Lan từ năm 1990 không chỉ quan trọng đối với mỗi quốc gia mà còn góp phần thúc đẩy lý tưởng mở rộng ASEAN, giúp Hiệp hội các nước Đông Nam Á trở thành hiện thực.

Quan hệ Việt Nam-Thái Lan là một minh chứng rõ ràng cho mối liên kết giữa Đông Dương và các quốc gia trong khối ASEAN, với Thái Lan đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa Đông Dương và ASEAN.

Năm 2013, Việt Nam và Thái Lan đã nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược”, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hợp tác song phương Trong bối cảnh xung đột biển Đông ngày càng gay gắt, việc củng cố mối quan hệ bền chặt giữa hai nước trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

6.2.2 Quan hệ an ninh-quân sự-quốc phòng

Việt Nam và Thái Lan đã thành lập Uỷ ban hỗn hợp cấp Thứ trưởng ngoại giao nhằm giải quyết tranh chấp tại Vịnh Thái Lan, đồng thời thiết lập các Uỷ ban hỗn hợp khác để xử lý những vấn đề còn tồn đọng như vùng chồng lấn trên biển, thềm lục địa và các vấn đề liên quan đến Việt kiều.

Vào tháng 10 năm 1991, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có chuyến thăm chính thức đến Thái Lan, mang lại nhiều kết quả tích cực trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và ngoại giao, đồng thời cải thiện cách nhìn nhận giữa hai nước.

Vào năm 2001, Nguyễn Thị Quế đã nêu rõ trong bài viết "25 năm quan hệ Việt Nam - Thái Lan" rằng sự quan tâm của giới quân sự Thái Lan đối với Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể Đặc biệt, từ ngày 6 đến 8 tháng 1 năm 1992, tư lệnh quân lực Thái Lan, Suchinda, đã có chuyến thăm Việt Nam, đánh dấu bước khởi đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và nâng cao mức độ tin cậy lẫn nhau.

Vào tháng 6 năm 1999, hai nước đã ký kết Hiệp định tuần tra chung trên biển, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hợp tác quốc phòng Tiếp theo, vào tháng 5 năm 2000, hai bên tiếp tục ký Hiệp định miễn thị thực 30 ngày cho hộ chiếu phổ thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giữa công dân hai nước.

Việt Nam và Thái Lan ưu tiên giải quyết các vấn đề như ma túy, tuần tra chung tại Vịnh Thái Lan, và nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em Hai nước đang thiết lập hành lang pháp lý và xây dựng các chương trình, kế hoạch hợp tác nhằm phối hợp hành động và đề ra các biện pháp quan trọng để đối phó với những thách thức an ninh hiện nay.

Từ năm 1988 đến 1991, nhiều doanh nghiệp Thái Lan đã đến Việt Nam để tìm hiểu thị trường và thiết lập quan hệ hợp tác Dưới sự chỉ đạo của ngoại trưởng Thái Lan Anxa Paraxin, các công ty Thái Lan đã thành lập 5 liên doanh đầu tiên với Việt Nam, đầu tư vào các lĩnh vực như nuôi tôm đông lạnh, khai thác đá quý và lắp ráp xe máy, với tổng vốn 7,242,000 USD Từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1990, Thái Lan tiếp tục lập thêm 5 doanh nghiệp liên doanh khác, nâng tổng vốn đầu tư lên 8,100,092 USD Trong 2 quý đầu năm 1991, thêm 10 công ty liên doanh ra đời, đưa tổng số lên 20 công ty, mở rộng sang các lĩnh vực chế biến thực phẩm xuất khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, khai thác nước khoáng, dịch vụ nhà hàng và xây dựng khách sạn.

Tính đến tháng 7/1992, Việt Nam đã thiết lập 27 công ty liên doanh với Thái Lan, với tổng vốn đầu tư đạt 48,6 triệu USD, một thành tựu ấn tượng trong chỉ ba năm từ 1990 đến 1992 Mối quan hệ Việt Nam-Thái Lan không chỉ tạo dựng niềm tin lẫn nhau trong hợp tác đầu tư, mà còn thúc đẩy sự đồng thuận trong chính giới Thái Lan về việc coi Việt Nam là một đối tác quan trọng Thủ tướng Thái Lan, Chuôn-lik-phay, cam kết tiếp tục phát triển mối quan hệ với Việt Nam và khu vực Đông Dương, duy trì những nỗ lực của các chính phủ trước đó.

60 Bộ Kế hoạch và đầu tư (MPI) Việt Nam (1997), Bản thống kê, Kỷ yếu hội thảo Việt Nam học, Đại học Chulalongkon,

61 TTXVN (1992), Bản tin tham khảo đặc biệt,

ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG, VỊ THẾ VÀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN

Ngày đăng: 27/07/2021, 11:41

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w