NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thời gian và đia điểm điều tra
Từ tháng 02 đến tháng 6 năm 2020 tại huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
Nội dung nghiên cứu
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của cây Thạch đen tại Lạng Sơn ở vụ Xuân;
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến tình hình sâu, bệnh hại cây Thạch đen tại Lạng Sơn ở vụ Xuân;
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của cây Thạch đen tại Lạng Sơn ở vụ Xuân.
Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm
+ Phương pháp bố trí thí nghiệm: Bố trí thí nghiệm 1 nhân tố (phân bón) theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, 3 lần nhắc lại, diện tích ô thí nghiệm 30 m 2 (6 x 5 m).
Mật độ : 100.000 cây/ha (50x20 cm).
Phân bón : được chia làm 4 mức (P1, P2, P3, P4) trong đó:
P1: 2 tấn phân vi sinh + 35 kg N + 32 kg P 2 O 5 + 60 kg K 2 O/ha
P2: 2,5 tấn phân vi sinh + 26 kg N + 24 kg P 2 O 5 + 45 kg K 2 O/ha
P3: 3 tấn phân vi sinh + 18 kg N + 16 kg P2O5 + 30 kg K2O/ha
P4: 3,5 tấn phân vi sinh + 9 kg N + 8 kg P2O5 + 15 kg
K 2 O/ha Quy ra lượng phân thương phẩm bón trên 1 ha:
P1: 2 tấn phân vi sinh + 76,1 kg đạm urê + 213,3 kg lân nung chảy + 100 kg kali clorua
P2: 2,5 tấn phân vi sinh + 56,6 kg đạm urê + 160 kg lân nung chảy + 75 kg kali clorua
P3: 3 tấn phân vi sinh + 39,1 kg đạm urê + 106,7 kg lân nung chảy + 50 kg kali clorua
P4: 3,5 tấn phân vi sinh + 19,6 kg đạm urê + 53,3 kg lân nung chảy + 25 kg kali clorua
Công thức phân bón đối chứng được phát triển dựa trên quy trình tạm thời về kỹ thuật nhân giống và canh tác cây Thạch đen của Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn tỉnh Lạng Sơn, nhằm tối ưu hóa hiệu quả sản xuất nông nghiệp trong khu vực.
Bón lót: Toàn bộ 2 tấn phân hữu cơ vi sinh và phân lân.
Bón thúc lần 1 cho cây Thạch đen nên được thực hiện sau 30 ngày trồng, khi cây đã bén rễ, hồi xanh và bắt đầu phân cành Đồng thời, cần kết hợp xới xáo và làm cỏ để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho cây.
Lượng phân bón cần thiết là 1/2 đạm urê và 1/2 kaliclorua, được bón vào rãnh giữa hai hàng Thạch đen Thời điểm bón phân thường là sau mưa nhằm giảm thiểu công tưới nước.
Nếu không có mưa, sau bón phân phải tưới nước Cũng có thể hòa phân trong nước và tưới vào giữa 2 hàng Thạch đen.
Bón thúc lần 2 cho cây Thạch đen được thực hiện sau khoảng 30 ngày kể từ bón thúc đợt 1, khi bộ thân cành đã phủ gần kín mặt đất Lượng phân bón sử dụng là số phân còn lại từ lần bón trước Phương pháp bón thúc giống như lần 1, đồng thời kết hợp với việc xới xáo và làm cỏ để hỗ trợ sự phát triển của cây.
Công việc làm cỏ và xới xáo thường được thực hiện đồng thời với việc bón phân cho cây Khi cỏ trong vườn mọc nhanh, cần phải xới cỏ bổ sung Đối với những loại đất có kết cấu kém, sau mưa, việc xới để phá váng là cần thiết.
Cây Thạch đen cần độ ẩm nhưng không chịu ngập úng, vì vậy khi tưới nước, chỉ nên tưới vừa đủ để tránh tình trạng nước đọng Đối với các chân ruộng thấp, cần thiết phải làm mương tiêu để thoát nước hiệu quả.
Khi cây Thạch đen vươn dài thân, bắt đầu xuất hiện nụ hoa là thời điểm thu hoạch Thạch có chất lượng tốt nhất.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
3.3.2 Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
*Theo dõi sự sinh trưởng của cây Thạch đen
+ Tỷ lệ sống: Đếm số hom mọc mầm trên tổng số hom trồng (5 ngày đếm số hom mọc mầm 1 lần).
Tỷ lệ sống (%) của cây được theo dõi thông qua động thái tăng trưởng chiều dài thân Cố định bằng cách sử dụng 5 cây ngẫu nhiên theo đường chéo góc trong ô thí nghiệm, chiều cao cây sẽ được đo 1 lần mỗi 10 ngày, và số liệu trung bình sẽ được ghi nhận ở mỗi giai đoạn sinh trưởng.
Để theo dõi sự phát triển của cây, chúng tôi tiến hành đo chiều cao trên 5 cây và kiểm tra số lượng lá mới xuất hiện sau mỗi 10 ngày Phương pháp đánh dấu lá được áp dụng để xác định số lá mới, từ đó thu thập số liệu trung bình cho từng giai đoạn sinh trưởng của cây.
+ Số nhánh cấp 1: Theo dõi 5 cây trên ô thí nghiệm.
* Đánh giá tính chống chịu sâu, bệnh
- Sâu cuốn lá: Theo dõi vào thời điểm nhiều sâu nhất, đếm số lá bị cuốn/tổng số lá/cây của 5 cây/ô.
Lá bị hại (%) - Bệnh sương mai (Phytopthora infestans): Quan sát mức độ nhiễm bệnh trên lá.
Mức độ 3: Có dưới 20% diện tích lá nhiễm bệnh
Mức độ 5: Có 20% đến 50% diện tích lá nhiễm bệnh
Mức độ 7: Có trên 50% đến 75% diện tích lá nhiễm bệnh
Mức độ 9: Có trên 75% đến 100% diện tích lá nhiễm bệnh
- Bệnh thối cổ rễ (Phytopthora infestans ): Quan sát mức độ nhiễm bệnh trên cây.
Mức độ 3: Có dưới 20% diện tích thân nhiễm bệnh
Mức độ 5: Có 20% đến 50% diện tích thân nhiễm bệnh
Mức độ 7: Có trên 50% đến 75% diện tích thân nhiễm bệnh
Mức độ 9: Có trên 75% đến 100% diện tích thân nhiễm bệnh
* Theo dõi chiều cao cây cuối cùng và năng suất thân lá cây Thạch đen
Theo dõi một lần khi thu hoạch :
+ Chiều cao cây cuối cùng (cm): Tổng chiều dài của cây đo được khi thu hoạch.
+ Năng suất thân lá (tấn/ha) = Khối lượng trung bình của 1 cây x mật độ cây/ha.
3.3.3 Phương pháp tính toán và xử lý số liệu
- Số liệu thí nghiệm được nhập trên bảng tính Excel.
- Phân tích xử lý thống kê được tiến hành trên phần mềm thống kê SAS.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến động thái tăng trưởng chiều dài của cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020 tại Lạng Sơn
Trong công tác trồng và chăm sóc cây Thạch đen, tổ hợp phân bón đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và chiều dài của cây Các tiêu chí về phân bón có tác động rõ rệt đến sự phát triển của cây, từ đó ảnh hưởng đến động thái tăng trưởng chiều dài của cây Thạch đen Qua quá trình trồng, chăm sóc và theo dõi định kỳ, chúng tôi đã thu thập được những kết quả cụ thể.
Bảng 4 2: Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến động thái tăng trưởng chiều dài của cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020 Đơn vị: cm/ngày
Hình 4.2: Ảnh hưởng của động thái tăng trưởng chiều dài của cây Thạch đen vụ Xuân
Nghiên cứu về ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến tốc độ tăng trưởng chiều dài cây Thạch đen tại tỉnh Lạng Sơn trong vụ Xuân cho thấy, theo bảng số liệu 4.2 và hình 4.2, tốc độ tăng trưởng chiều dài cây cao nhất đạt được ở giai đoạn 2 tháng sau khi trồng, sau đó dần dần chậm lại trong các tháng tiếp theo.
Tốc độ tăng trưởng chiều dài cây Thạch đen trong giai đoạn 1 tháng sau trồng dao động từ 0,19 - 0,42 cm/ngày Trong đó, công thức P2 đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất với 0,42 cm/ngày, cao hơn 0,06 cm/ngày so với công thức đối chứng (0,36 cm/ngày).
Sau 2 tháng trồng, cây Thạch đen cho thấy tốc độ tăng trưởng chiều dài dao động từ 0,44 đến 0,54 cm/ngày Trong đó, công thức P2 có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất đạt 0,54 cm/ngày, cao hơn công thức đối chứng 0,04 cm/ngày, trong khi công thức P3 có tốc độ tăng trưởng chậm nhất là 0,44 cm/ngày, thấp hơn công thức đối chứng 0,06 cm/ngày.
Trong giai đoạn 3 tháng sau khi trồng, tốc độ tăng trưởng chiều dài cây dao động từ 0,42 - 0,62 cm/ngày Cụ thể, công thức P2 đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất với 0,62 cm/ngày, vượt trội hơn so với công thức đối chứng (0,44 cm/ngày) là 0,18 cm/ngày Ngược lại, công thức P4 và P3 có tốc độ tăng trưởng chậm nhất, chỉ đạt 0,42 cm/ngày, chậm hơn công thức đối chứng 0,02 cm/ngày.
Trong giai đoạn 4 tháng sau khi trồng, cây Thạch đen có tốc độ tăng trưởng chiều dài dao động từ 0,26 - 0,36 cm/ngày Công thức P2 cho thấy tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, nhanh hơn công thức đối chứng 0,08 cm/ngày (0,28 cm/ngày) Ngược lại, công thức P3 và P4 có tốc độ tăng trưởng chậm nhất, chỉ đạt 0,26 cm/ngày, chậm hơn công thức đối chứng 0,02 cm/ngày Đây là giai đoạn quan trọng để hoàn tất việc tích lũy vật chất hữu cơ trước khi thu hoạch.
Trong cùng một mùa vụ và điều kiện chăm sóc giống nhau, chế độ dinh dưỡng và lượng phân bón khác nhau ảnh hưởng đến sự tăng trưởng chiều dài của cây Thạch đen Tốc độ tăng trưởng chiều dài cũng thay đổi theo từng thời điểm trong quá trình phát triển Cụ thể, công thức thí nghiệm P2 cho thấy tốc độ tăng trưởng chiều dài cao nhất, đạt đỉnh 0,62 cm/ngày sau 3 tháng trồng và 0,47 cm/ngày vào giai đoạn thu hoạch.
Kết quả này chứng tỏ rằng chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng chiều cao của cây Thạch đen phụ thuộc tổ hợp phân bón.
Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến động thái ra lá của cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020 tại Lạng Sơn
Tổ hợp phân bón có ảnh hưởng rõ rệt đến sự sinh trưởng của cây Thạch đen, từ đó tác động đến quá trình ra lá của cây Qua quá trình trồng, chăm sóc và theo dõi định kỳ, chúng tôi đã thu thập và xử lý số liệu để đưa ra những kết quả cụ thể về sự phát triển của cây Thạch đen.
Bảng 4 3: Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến động thái ra lá cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020
Hình 4.3: Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến động thái ra lá cây Thạch đen vụ Xuân
Theo bảng số liệu 4.3 và hình 4.3, tốc độ ra lá của cây Thạch đen đạt mức nhanh nhất ở giai đoạn 3 tháng sau khi trồng, đồng thời thể hiện sự khác biệt rõ rệt giữa các công thức tham gia thí nghiệm.
Trong giai đoạn 1 tháng sau khi trồng, cây Thạch đen có tốc độ ra lá tăng nhanh, dao động từ 0,26 đến 0,29 lá/ngày Công thức P2 đạt tốc độ ra lá nhanh nhất với 0,29 lá/ngày, nhanh hơn công thức đối chứng 0,03 lá/ngày và nhanh hơn các công thức P3 và P4 từ 0,02 đến 0,03 lá/ngày.
Tốc độ ra lá của cây Thạch đen sau 2 tháng trồng dao động từ 0,33 đến 0,37 lá/ngày Trong đó, công thức P2 và công thức đối chứng có tốc độ ra lá nhanh nhất, đạt 0,37 lá/ngày, trong khi công thức P3 có tốc độ ra lá chậm nhất, chỉ đạt 0,33 lá/ngày, chậm hơn công thức đối chứng 0,04 lá/ngày.
Sau 3 tháng trồng, tốc độ ra lá của cây Thạch đen trong các công thức thí nghiệm dao động từ 0,35 đến 0,39 lá/ngày Trong đó, công thức P2 và công thức đối chứng có tốc độ ra lá nhanh nhất, đạt 0,39 lá/ngày, nhanh hơn từ 0,02 đến 0,04 lá/ngày so với các công thức khác Ngược lại, công thức P3 có tốc độ ra lá chậm nhất chỉ đạt 0,35 lá/ngày, chậm hơn công thức đối chứng 0,04 lá/ngày.
Tốc độ ra lá của cây Thạch đen sau 4 tháng trồng dao động từ 0,20 - 0,26 lá/ngày, trong đó công thức P2 có tốc độ ra lá nhanh nhất đạt 0,26 lá/ngày, nhanh hơn công thức đối chứng 0,02 lá/ngày Ngược lại, công thức P3 có tốc độ ra lá chậm nhất, chỉ đạt 0,20 lá/ngày, chậm hơn công thức đối chứng 0,04 lá/ngày Giai đoạn này, cây bắt đầu ngừng sinh trưởng thân lá, dinh dưỡng tập trung chủ yếu cho cây, dẫn đến sự giảm tốc độ ra lá.
Trong cùng một mùa vụ, cây Thạch đen thể hiện tốc độ ra lá khác nhau khi được áp dụng các chế độ dinh dưỡng khác nhau, mặc dù mật độ trồng và điều kiện chăm sóc vẫn giữ nguyên.
Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến đặc điểm hình thái của cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020 tại Lạng Sơn
Cây Thạch đen có hình thái đặc trưng chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố môi trường, trong đó sự tác động của tổ hợp phân bón là rõ rệt nhất Qua quá trình trồng, chăm sóc và theo dõi, chúng tôi đã thu thập và xử lý số liệu để đưa ra kết quả cụ thể về đặc điểm hình thái của cây.
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến đặc điểm hình thái của cây
Thạch đen vụ Xuân năm 2020
(cm) Chiều dài cây cuối cùng
Hình 4.4: Biều đồ chiều dài cây cuối cùng - Chiều dài cây cuối cùng:
Chiều dài cuối cùng của cây Thạch đen trong các công thức thí nghiệm dao động từ 48,7 cm đến 67,6 cm, như được thể hiện trong bảng 4.4 và hình 4.4.
Kết quả thống kê cho thấy cây Thạch đen được bón theo công thức P2 có chiều dài cao hơn 11,5 cm so với công thức đối chứng, với độ tin cậy 95% Trong khi đó, công thức P3 và P4 cho chiều dài cây lần lượt là 48,7 cm và 50,8 cm, thấp hơn từ 5,3 cm đến 7,4 cm so với công thức đối chứng.
Qua số liệu bảng 4.4 ta thấy số cành của cây Thạch đen tại các công thức tham gia thí nghiệm dao động từ 5,5 - 6,9 cành cụ thể:
Kết quả thống kê cho thấy công thức P2 có số cành cao hơn đáng kể so với công thức đối chứng, với sự chênh lệch là 0,6 cành, và cũng vượt trội hơn các công thức khác từ 1,2 đến 1,4 cành, đạt mức độ tin cậy 95%.
- Tổng số lá trên thân chính:
Tổng số lá/ thân chính (lá)
Tổng số lá/ thân chính
Hình 4.5: Biểu đồ tổng số lá/ thân chính
Theo số liệu từ bảng 4.4 và hình 4.5, số lượng lá cuối cùng của cây Thạch đen trong các công thức thí nghiệm dao động từ 44,0 đến 49,2 lá.
Kết quả thống kê cho thấy số lá cuối cùng của công thức P2 cao hơn rõ rệt so với công thức đối chứng, với sự khác biệt là 2,3 lá Đồng thời, P2 cũng vượt trội hơn các công thức khác, dao động từ 2,3 đến 5,2 lá, với độ tin cậy đạt 95%.
Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến tình hình sâu bệnh hại cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020 tại Lạng Sơn
Tổ hợp phân bón không chỉ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, chiều dài cây, số lá trên thân chính và khả năng phân cành, mà còn có tác động đáng kể đến mức độ sâu bệnh hại trên cây Thạch đen.
Sâu bệnh là nguyên nhân chính làm giảm năng suất cây trồng, có thể dẫn đến thất thu hoàn toàn Sự phát triển và tác động của sâu bệnh là trở ngại lớn trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất Thạch đen Nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón đến tình hình sâu bệnh hại cây Thạch đen tại tỉnh Lạng Sơn trong vụ xuân năm 2020 được thể hiện rõ qua bảng 4.5.
Bảng 4 5: Ảnh hưởng của phân bón đến tình hình sâu, bệnh hại cây
Thạch đen vụ Xuân năm 2020 CTTN
Theo bảng 4.5, khi cây Thạch đen vụ xuân được trồng với các công thức thí nghiệm và mức phân bón khác nhau, mức độ sâu bệnh hại cũng biến đổi Đặc biệt, mức độ sâu bệnh hại thấp nhất xuất hiện khi bón phân ở mức P2.
Tỷ lệ sâu cuốn lá gây hại cây Thạch đen trong các công thức thí nghiệm dao động từ 20,7% đến 24,7% Trong đó, công thức P2 ghi nhận tỷ lệ sâu hại thấp nhất là 20,7%, thấp hơn công thức đối chứng 2,6% Ngược lại, công thức P3 có tỷ lệ sâu cuốn lá cao nhất đạt 24,7%, vượt hơn công thức đối chứng 1,4%.
Bệnh thối cổ rễ ở cây Thạch đen trong các thí nghiệm cho thấy mức độ nhiễm bệnh dao động từ 3,7 đến 5,0 Trong đó, công thức P2 ghi nhận mức độ bệnh hại thấp nhất với 3,7, trong khi ba công thức còn lại (đối chứng, P3 và P4) đều có mức độ bệnh hại nặng hơn, đạt mức 5,0.
Bệnh sương mai trên cây Thạch đen có mức độ gây hại dao động từ 2,0 đến 3,7 trong các công thức thí nghiệm Cụ thể, công thức P2 ghi nhận mức độ nhiễm bệnh nhẹ nhất với chỉ số 2,0, trong khi các công thức đối chứng, P3 và P4 đều bị nhiễm bệnh ở mức độ 3,7.
Trong cùng một mùa vụ với mật độ trồng và điều kiện chăm sóc đồng nhất, chế độ dinh dưỡng khác nhau sẽ ảnh hưởng đến mức độ sâu bệnh trên cây Thạch đen Cụ thể, công thức P2 cho thấy mức độ nhiễm sâu bệnh thấp nhất.
Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến năng suất của cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020 tại Lạng Sơn
Năng suất thân lá là yếu tố cuối cùng có vai trò quyết định đến việc đánh giá hiệu quả của các tổ hợp phân bón.
Trong quá trình theo dõi và xử lý số liệu, ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến năng suất cây Thạch đen tại tỉnh Lạng Sơn trong vụ xuân năm 2020 được thể hiện rõ qua bảng 4.6.
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của phân bón đến năng xuất của cây thạch đen năm
Hình 4.6: Biểu đồ năng suất thân lá
Năng suất thân lá của cây Thạch đen trong thí nghiệm dao động từ 46,3 đến 68,0 tấn/ha Kết quả cho thấy công thức P2 đạt năng suất cao nhất là 68,0 tấn/ha, vượt trội hơn 7,3 tấn/ha so với công thức đối chứng với độ tin cậy 95% Ngược lại, công thức có năng suất thấp nhất là 46,3 tấn/ha, thấp hơn 14,4 tấn/ha so với công thức đối chứng đạt 60,7 tấn/ha.
Trong cùng một mùa vụ, khi mật độ trồng và điều kiện chăm sóc được giữ nguyên, chế độ dinh dưỡng khác nhau sẽ ảnh hưởng đến năng suất cố định của cây Thạch đen Đặc biệt, công thức P2 đã cho thấy năng suất cố định cao nhất trong các công thức thử nghiệm.
Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến hiệu quả kinh tế cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020 tại Lạng Sơn
vụ Xuân năm 2020 tại Lạng Sơn
Mục tiêu hàng đầu của người sản xuất không chỉ là đạt năng suất tối đa mà còn là tối ưu hóa hiệu quả kinh tế thông qua việc xác định tổ hợp phân bón mang lại giá trị lợi nhuận cao nhất trên mỗi đơn vị diện tích đất canh tác Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến năng suất cây Thạch đen tại tỉnh Lạng Sơn trong vụ xuân năm 2020 được thể hiện rõ qua bảng 4.7.
Bảng 4.7: Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến hiệu quả kinh tế cây Thạch đen vụ Xuân năm 2020
Theo bảng 4.7, hiệu quả kinh tế của cây Thạch đen tại các công thức thí nghiệm dao động từ 5,43 đến 52,10 triệu đồng/ha Cụ thể, công thức P4 có lãi thuần thấp nhất chỉ đạt 5,43 triệu đồng/ha, thấp hơn công thức đối chứng 39,13 triệu đồng/ha tới 33,7 triệu đồng/ha Ngược lại, công thức P2 đạt lãi thuần cao nhất là 52,10 triệu đồng/ha, cao hơn công thức đối chứng 12,97 triệu đồng/ha.
Trong cùng một vụ trồng cây Thạch đen, khi mật độ gieo trồng và điều kiện chăm sóc được giữ nguyên, chế độ dinh dưỡng khác nhau sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế Đặc biệt, công thức dinh dưỡng P2 đã chứng minh mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong nghiên cứu này.