Những đóng góp mới, ý nghĩa khoa học hoặc thực tiễn
- Hệ thống hoá lý luận cơ bản về phát triển nông nghiệp bền vững.
Huyện Thanh Sơn hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn và thuận lợi trong quá trình phát triển Thực trạng này cho thấy rõ tiềm năng to lớn của khu vực, nhưng cũng đồng thời chỉ ra những thách thức cần vượt qua để đạt được sự phát triển bền vững Việc nắm bắt những yếu tố này sẽ giúp định hướng chiến lược phát triển hiệu quả hơn cho huyện trong tương lai.
Để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, cần đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái tại khu vực nghiên cứu Các giải pháp này không chỉ giúp gia tăng hiệu quả kinh tế mà còn bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, các quốc gia đều hướng tới mục tiêu phát triển, và khái niệm về phát triển đã trở nên thống nhất Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình gia tăng về mọi mặt của nền kinh tế, bao gồm cả sự biến đổi về lượng và chất Đây là sự kết hợp chặt chẽ giữa quá trình hoàn thiện các vấn đề kinh tế và xã hội trong mỗi quốc gia (Đỗ Kim Chung, 2009) Nội dung phát triển kinh tế được tóm gọn qua ba tiêu chí chính.
Sự gia tăng tổng lượng của cải trong mỗi nền kinh tế dẫn đến việc cải thiện thu nhập bình quân đầu người Điều này không chỉ phản ánh quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết để nâng cao mức sống vật chất của quốc gia và đạt được các mục tiêu phát triển khác.
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế hướng tới gia tăng đóng góp của ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ là yếu tố quan trọng, phản ánh sự biến đổi về chất kinh tế của một quốc gia.
Sự thay đổi tích cực trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội là điều không ngừng diễn ra Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế không chỉ là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu, mà còn là xoá bỏ nghèo đói, giảm suy dinh dưỡng, nâng cao tuổi thọ bình quân và cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, nước sạch, cũng như nâng cao trình độ dân trí của người dân Việc hoàn thiện các tiêu chí này chính là sự thay đổi về chất trong quá trình phát triển xã hội.
Sản xuất là quá trình kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động của con người để tạo ra sản phẩm hữu ích Phát triển sản xuất được xem là quá trình tăng trưởng về quy mô sản lượng và cải thiện về cơ cấu sản xuất.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế cần xác định ba vấn đề kinh tế cơ bản để phát triển sản xuất: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối sản phẩm đúng đắn Việc lựa chọn đúng những vấn đề này sẽ giúp kích thích sự phát triển sản xuất hiệu quả.
Phát triển sản xuất (PTSX) là quá trình tái sản xuất mở rộng, trong đó quy mô sản xuất hiện tại lớn hơn quy mô trước đó, dựa trên sự chấp nhận của thị trường.
Phát triển sản xuất có thể diễn ra theo hai xu hướng là phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu Trong đó:
Phát triển sản xuất theo chiều rộng tập trung vào việc tăng sản lượng thông qua việc mở rộng diện tích đất trồng, trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất không thay đổi và sử dụng các kỹ thuật đơn giản Kết quả đạt được chủ yếu nhờ vào việc tăng diện tích, cải thiện độ phì nhiêu của đất đai và tận dụng điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Phát triển sản xuất theo chiều rộng tập trung vào việc mở rộng diện tích canh tác trong toàn vùng, có thể thông qua việc tăng số lượng hộ dân tham gia sản xuất hoặc mở rộng quy mô đất đai của từng hộ nông dân, hoặc kết hợp cả hai phương thức này.
Phát triển sản xuất theo chiều sâu là một chiến lược tối ưu nhằm gia tăng sản lượng và hiệu quả kinh tế trên mỗi đơn vị diện tích mà không thay đổi vốn đầu vào Điều này được thực hiện thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với điều kiện sản xuất thực tế Đầu tư vào giống, vốn, kỹ thuật và lao động là những yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu này.
Quá trình phát triển sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất sản phẩm, đồng thời thay đổi qui mô và hình thức tổ chức sản xuất Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ giúp hoàn thiện dần dần về cơ cấu, quy mô và chất lượng, nhằm tạo ra một cơ cấu sản xuất hoàn hảo.
Trong quản lý sản xuất, cần chú trọng đến tính bền vững, điều này có nghĩa là phải tìm kiếm nguồn đầu vào và đầu ra một cách bền vững nhất, nhằm bảo vệ và không làm ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tăng trưởng sản xuất là sự gia tăng quy mô sản lượng sản phẩm trong một khoảng thời gian xác định, thường là một năm Nó là kết quả của tất cả các hoạt động và dịch vụ sản xuất Hiệu quả sản xuất phản ánh quy mô sản lượng sản phẩm và dịch vụ được tạo ra trong cùng khoảng thời gian đó.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, các quốc gia đều hướng tới mục tiêu phát triển, dẫn đến sự thống nhất về khái niệm này Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng trưởng toàn diện của nền kinh tế, bao gồm cả sự biến đổi về lượng và chất Nó phản ánh sự kết hợp chặt chẽ giữa sự hoàn thiện của các vấn đề kinh tế và xã hội trong từng quốc gia (Đỗ Kim Chung, 2009) Nội dung phát triển kinh tế được tóm tắt qua ba tiêu chí chính.
Sự gia tăng tổng lượng của cải trong mỗi nền kinh tế dẫn đến việc cải thiện thu nhập bình quân trên đầu người Điều này không chỉ phản ánh quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết để nâng cao mức sống vật chất của quốc gia và đạt được các mục tiêu phát triển khác.
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế hướng tới việc gia tăng đóng góp của ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ là một chỉ số quan trọng phản ánh sự biến đổi về chất kinh tế của một quốc gia.
Sự thay đổi tích cực trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội là điều không thể phủ nhận Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế không chỉ là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu, mà còn là xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, nâng cao tuổi thọ bình quân và cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, nước sạch cùng với trình độ dân trí giáo dục của người dân Việc hoàn thiện những tiêu chí này chính là minh chứng cho sự thay đổi chất lượng xã hội trong quá trình phát triển.
Sản xuất là quá trình kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động con người nhằm tạo ra sản phẩm hữu ích Do đó, phát triển sản xuất được xem là quá trình gia tăng quy mô sản lượng và hoàn thiện cơ cấu sản xuất.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, doanh nghiệp và tổ chức kinh tế cần xác định ba vấn đề kinh tế cơ bản để phát triển sản xuất: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối sản phẩm đúng đắn Việc lựa chọn đúng các yếu tố này sẽ giúp kích thích sự phát triển sản xuất hiệu quả.
Phát triển sản xuất (PTSX) là quá trình tái sản xuất mở rộng, trong đó quy mô sản xuất hiện tại lớn hơn quy mô trước đó, dựa trên sự chấp nhận của thị trường.
Phát triển sản xuất có thể diễn ra theo hai xu hướng là phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu Trong đó:
Phát triển sản xuất theo chiều rộng tập trung vào việc gia tăng sản lượng thông qua việc mở rộng diện tích đất trồng mà không thay đổi cơ sở vật chất kỹ thuật Phương pháp này sử dụng kỹ thuật đơn giản và chủ yếu dựa vào việc tăng diện tích và độ phì nhiêu của đất, cùng với điều kiện tự nhiên thuận lợi để đạt được kết quả sản xuất.
Phát triển sản xuất theo chiều rộng liên quan đến việc mở rộng diện tích canh tác trong một khu vực, có thể bao gồm việc tăng số lượng hộ dân hoặc mở rộng quy mô đất canh tác của từng hộ nông dân, hoặc kết hợp cả hai yếu tố này.
Phát triển sản xuất theo chiều sâu là một phương pháp tối ưu hóa giá trị sản xuất mà không thay đổi vốn đầu vào, thông qua việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới Điều này bao gồm việc xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với điều kiện sản xuất thực tế, nhằm tăng khối lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trên mỗi đơn vị diện tích Để đạt được điều này, cần đầu tư vào giống, vốn, kỹ thuật và lao động.
Quá trình phát triển sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất sản phẩm, đồng thời ảnh hưởng đến qui mô và hình thức tổ chức sản xuất Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ dần hoàn thiện cơ cấu, quy mô và chất lượng sản phẩm, hướng tới việc tạo ra một cơ cấu sản xuất hoàn hảo.
Trong quá trình PTSX, cần chú trọng đến tính bền vững, đảm bảo rằng nguồn đầu vào và đầu ra được lựa chọn một cách hợp lý để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên.
Tăng trưởng sản xuất đề cập đến sự gia tăng quy mô sản lượng sản phẩm trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm Điều này là kết quả của tất cả các hoạt động và dịch vụ sản xuất Hiệu quả sản xuất phản ánh mức độ sản lượng sản phẩm và dịch vụ được tạo ra trong cùng khoảng thời gian đó.
Phát triển bền vững, lần đầu tiên được đề cập trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn Thế giới” vào năm 1980, nhấn mạnh rằng việc phát triển kinh tế không thể tách rời khỏi nhu cầu xã hội và tác động đến môi trường Khái niệm này được phổ biến trong báo cáo “Our Common Future” của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới vào năm 1987, định nghĩa phát triển bền vững là khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai Để đạt được sự phát triển bền vững, cần có sự hợp tác giữa các thành phần kinh tế - xã hội, chính quyền và tổ chức xã hội, với ba lĩnh vực chính là Kinh tế, Xã hội và Môi trường Ngày nay, khái niệm này tiếp tục được các nhà khoa học nghiên cứu và hoàn thiện trong các tài liệu của Hội nghị RIO.
Phát triển bền vững được xác định tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 ở Johannesburg là quá trình kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, cải thiện vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường Để đánh giá sự phát triển bền vững, cần có sự tăng trưởng kinh tế ổn định, thực hiện công bằng xã hội và khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, đồng thời bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Tình hình phát tri ể n s ả n xu ấ t b ưở i Di ễ n ở Vi ệ t Nam
Cây Bưởi được trồng rộng rãi trên khắp Việt Nam, với nhiều giống bưởi nổi tiếng như bưởi Diễn, bưởi Năm Roi và bưởi Đoan Hùng Đây là một loại cây ăn quả có tiềm năng lớn trong sản xuất nông nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của các vùng Hiện tại, Việt Nam có khoảng 25.000 ha trồng bưởi, trong đó 15.000 ha đang cho quả, với sản lượng ước đạt 145.000 tấn Sự tiêu thụ bưởi tăng cao nhờ vào sự quảng bá của các phương tiện truyền thông về các thương hiệu bưởi nổi tiếng như bưởi Năm Roi (Vĩnh Long) và bưởi Tân Triều (Đồng Nai).
Bưởi Diễn là một trong những loại quả đặc sản của người nông dân Hà Nội Với gần 2.500 ha được trồng ở nhiều huyện thuộc khu vực ngoại thành như
Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng (riêng xã Phú Diễn có khoảng 53 ha với
Xã Thượng Mỗ, huyện Hoài Đức hiện có khoảng 600 hộ trồng bưởi Diễn với diện tích khoảng 125 ha Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, diện tích trồng bưởi Diễn đã được mở rộng, hình thành một số vùng trồng tại nhiều tỉnh khác trên cả nước (Nguyễn Công Tiệp, 2011).
Bưởi Phú Diễn, thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội, nổi tiếng với giống bưởi Diễn có trái tròn, vỏ nhẵn và khi chín có màu vàng cam, trọng lượng trung bình từ 0,8-1kg Múi và vách múi dễ tách rời, thịt trái màu vàng xanh, giòn và ngọt Nhờ chương trình phát triển kinh tế ngoại thành của Thành ủy Hà Nội từ năm 1996, diện tích trồng bưởi Diễn chuyên canh ngày càng tăng, góp phần bảo tồn giống bưởi quý Thời gian thu hoạch thường diễn ra khoảng nửa tháng trước Tết Nguyên đán, với kinh nghiệm cho rằng bưởi càng già, vỏ càng thẫm thì chất lượng càng tốt Bưởi ngon có hình dáng nhẹ, tròn đều, trong khi bưởi màu vàng nhạt, bòng bòng thường có chất lượng kém hơn, và khi ăn, bưởi mang lại vị ngọt lịm với cùi mỏng.
Bưởi Diễn Thượng Mỗ, huyện Đan Phượng (Hà Nội), là một xã tiêu biểu trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây ăn quả có múi Với hơn 130 ha trồng ba loại cây chủ yếu là bưởi Diễn, cam Canh và đu đủ, xã đang nỗ lực xây dựng thương hiệu "Bưởi tôm vàng Đan Phượng" Đảng ủy xã khuyến khích đảng viên và hội viên các đoàn thể vận động người dân bảo vệ diện tích bưởi Diễn hiện có, không chặt phá cây, đồng thời khuyến khích trồng rau màu ngắn ngày dưới tán bưởi để đảm bảo thu nhập.
Bưởi Diễn Tiên Hội, thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên, hiện có khoảng 15 ha bưởi Diễn cho thu hoạch với giá bán trung bình từ 30.000đ - 35.000đ/quả Theo quy hoạch sản xuất trong chương trình xây dựng nông thôn mới, xã Tiên Hội phấn đấu đến năm 2020 sẽ mở rộng diện tích trồng bưởi lên khoảng 100 ha Bưởi Diễn Tiên Hội không chỉ thơm ngon mà còn có khả năng bảo quản lâu mà không cần dùng thuốc bảo quản UBND xã Tiên Hội khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng bưởi và liên kết với Viện rau quả Trung ương để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.
Bưởi Diễn ở xã Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã trở thành cây trồng chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều hộ gia đình Trong những năm qua, người dân đã đầu tư phát triển các loại cây ăn quả giá trị như bưởi Diễn, vải thiều và hồng xiêm Chính quyền địa phương đã khuyến khích việc cải tạo vườn tạp thành vườn kinh tế hàng hóa, góp phần vào xây dựng nông thôn mới Hiện tại, toàn xã có hơn 3.000 cây bưởi, trong đó hơn 700 cây đã cho thu hoạch, với tổng thu nhập ước đạt trên 900 triệu đồng nhờ vào chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật và điều kiện tự nhiên thuận lợi Nhiều hộ gia đình cũng đã áp dụng mô hình sản xuất bưởi Diễn theo tiêu chuẩn VietGap.
Bưởi Diễn tại huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang đã trở thành cây trồng chủ lực nhờ vào sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả của xã Lương Phong Hiện nay, xã có hơn 50 ha bưởi Diễn, trong đó 30 ha đang cho thu hoạch, tập trung chủ yếu ở các thôn Đông, Khánh và An Việc phát huy lợi thế đất vườn đồi đã góp phần nâng cao giá trị kinh tế cho người dân địa phương.
1.2.2 Tình hình phát tri ể n s ả n xu ấ t b ưở i Di ễ n ở Phú Th ọ
Cây bưởi Diễn, mặc dù mới được thử nghiệm trồng tại Phú Thọ, đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng Tỉnh đã xác định bưởi Diễn là một trong những cây ăn quả quan trọng để phát triển kinh tế nông thôn, đồng thời đưa vào Nghị quyết hỗ trợ nông nghiệp các chính sách hỗ trợ trồng bưởi và thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) Nhiều hộ gia đình ở các huyện như Đoan Hùng, Phù Ninh, Thanh Ba, Hạ Hòa, Thanh Sơn, và Tân Sơn đã mở rộng diện tích trồng bưởi Diễn Chỉ sau 3-4 năm, cây bưởi Diễn đã cho năng suất và chất lượng vượt trội so với giống bưởi truyền thống và các loại cây ăn quả khác.
Tỉnh có tổng diện tích trồng bưởi là 4.333 ha, trong đó bưởi Diễn chiếm 2.741 ha và bưởi Đoan Hùng 1.430 ha Nhiều địa phương cũng đang thử nghiệm trồng các giống bưởi khác như bưởi Xuân Vân, bưởi Da Xanh và bưởi Đỏ, cho thấy khả năng thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên và chất lượng sản phẩm ban đầu khá cao Tổng sản lượng bưởi ước đạt 31.740 tấn, trong đó bưởi Diễn đạt 16.800 tấn với năng suất 112 tạ/ha từ 1.500 ha, còn bưởi Đoan Hùng đạt 13.530 tấn với năng suất 123 tạ/ha từ 1.100 ha.
Trong những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ bưởi ngày càng tăng, khuyến khích nhiều hộ gia đình đầu tư và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong trồng trọt và chăm sóc cây bưởi Chất lượng bưởi được cải thiện, thu hút sự ưa chuộng của người tiêu dùng Kết quả là, thu nhập trung bình của người trồng bưởi đã tăng lên, đạt từ 150 đến 200 triệu đồng mỗi năm, với một số hộ có thu nhập vượt trên 500 triệu đồng.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 151 vùng sản xuất bưởi tập trung, trong đó:
Vùng trồng bưởi đặc sản Đoan Hùng tập trung tại 18 xã thuộc huyện Đoan Hùng, với tổng diện tích lên đến 793 ha Ngoài ra, còn có 128 vùng trồng bưởi Diễn phân bố ở 13 huyện, thành phố khác nhau.
Tỉnh hiện có 33 trang trại và 5 hợp tác xã, cùng 1 tổ hợp tác, với tổng diện tích cây ăn quả có múi lên tới 222,12 ha, trong đó diện tích trồng bưởi chiếm 207,3 ha.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được tăng cường thông qua các biện pháp kỹ thuật và đầu tư cải tạo thiết kế vườn đồi, cũng như lắp đặt hệ thống tưới, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm Đồng thời, quy trình sản xuất an toàn cũng được áp dụng Các địa phương nên căn cứ vào từng loại đất và tiểu vùng khí hậu để mở rộng diện tích trồng các giống bưởi mới tiềm năng như bưởi Diễn, bưởi Xuân Vân, bưởi Da Xanh và bưởi Đỏ.
Một số mô hình ứng dụng công nghệ cao đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và có thể nhân rộng tại các địa phương, như mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ bưởi đặc sản Đoan Hùng Công ty TNHH Hưởng Lợi đã triển khai mô hình trồng bưởi Diễn và bưởi Da xanh trên diện tích 1,5 ha tại xã Trung Thịnh - Thanh Thủy, ký hợp đồng tiêu thụ hàng năm với VinEco và cung cấp giống cây cho thị trường Ngoài ra, trang trại của anh Đặng Trung Kiên tại Trung Nghĩa - Thanh Thủy cũng sản xuất bưởi Diễn và Da Xanh trên diện tích hơn 1 ha, với thị trường tiêu thụ ổn định tại Hà Nội và các tỉnh lân cận, mang lại thu nhập cao.
Công ty CP Khoa học và Công nghệ nông nghiệp H2 đang triển khai mô hình sản xuất cây ăn quả có múi ứng dụng công nghệ cao trên tổng diện tích 86 ha, với các hệ thống tưới nhỏ giọt và điều khiển thông minh cho việc bón phân và tưới nước Hiện tại, cây trồng đang trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, trong đó có 3 ha bưởi được cấp giấy chứng nhận thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) tại Khu 15, xã Bằng Luân, Đoan Hùng, cùng với mô hình bưởi và cam 8 ha tại xã Cấp Dẫn - Cẩm Khê.
Bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu tài liệu tham khảo cho huyện
Nhà nước cần triển khai đồng bộ các chính sách từ Trung ương đến địa phương, bao gồm cả quy trình sản xuất và tiêu thụ Đặc biệt, cần chú trọng đến việc tạo ra sự liên kết chặt chẽ trong nông nghiệp giữa bốn thành phần: Nhà nước, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp và Nhà nông.
Các địa phương cần xác định định hướng và quy hoạch để phát triển các vùng sản xuất tập trung với quy mô lớn và chuyên môn hóa cao Đồng thời, cần đầu tư vào các khâu thu hoạch và chế biến sản phẩm để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Các địa phương cần xây dựng hệ thống thông tin thị trường để cập nhật và phổ biến thông tin về thị trường và sản xuất qua các phương tiện truyền thông Điều này sẽ giúp các tác nhân tham gia đưa ra quyết định chính xác trong hoạt động của họ Đồng thời, cần phát triển thương hiệu và nhãn hiệu cho sản phẩm bưởi Diễn tại huyện.
Mở thêm các lớp tập huấn kỹ thuật để phổ biến kiến thức, quy trình sản xuất tới người dân.
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Huyện Thanh Sơn nằm ở vị trí giáp ranh với các huyện Tam Nông và Yên Lập thuộc tỉnh Phú Thọ ở phía Bắc, tỉnh Hòa Bình ở phía Nam, huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ ở phía Tây, và huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ cùng tỉnh Hòa Bình ở phía Đông Huyện có Quốc lộ 32A chạy qua, kết nối Hà Nội với Sơn La và Yên Bái, cùng với bảy tuyến đường tỉnh, trong đó có đường Thanh Sơn 313 và 313D.
Huyện Thanh Sơn nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông với các tuyến đường 316, 316C, 316D, 317 và 317B, là đầu mối giao thông quan trọng kết nối đồng bằng với trung du và miền núi Từ đây, huyện có thể mở rộng giao thương với các huyện lân cận như Tam Nông, Thanh Thủy, Yên Lập, Tân Sơn và giao lưu với các tỉnh như Hòa Bình, Yên Bái, Hà Nội Với vai trò là cửa ngõ chuyển tiếp của khu vực trung du miền núi, Thanh Sơn mang lại tiềm năng lớn cho phát triển thị trường và giao lưu hàng hóa giữa các khu vực.
Huyện Thanh Sơn nằm ở đoạn cuối của dãy Hoàng Liên Sơn, với nhiều dãy núi có độ cao trung bình từ 500 đến 700m, tạo nên một vùng thượng lưu của sông Bứa Địa hình huyện nghiêng dần về phía Đông, nơi có các khu vực trũng như Địch Quả và Sơn Hùng, trước khi đổ ra sông Hồng Với đặc trưng địa hình núi đồi dốc và nhiều thung lũng hẹp, huyện Thanh Sơn phát triển một cơ cấu kinh tế nông, lâm đa dạng Tuy nhiên, sự phân cắt phức tạp của địa hình cũng gây ra những thách thức cho sự phát triển của huyện.
Sơn nhiều trở ngại trong phát triển kinh tế và xã hội
Ngoài diện tích đất dốc tụ và phù sa thích hợp với cây hàng năm huyện
Huyện Thanh Sơn có 80% diện tích đất Feralit, phát triển trên phiến thạch sét với độ phì nhiêu tự nhiên cao, rất thích hợp cho cây lâu năm, cây ăn quả và cây lâm nghiệp theo hướng hàng hóa Quỹ đất của huyện còn thuận lợi cho việc quy hoạch các cụm, điểm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, khu du lịch sinh thái và trung tâm thương mại dịch vụ.
Tổng diện tích tự nhiên huyện Thanh Sơn là 62.110,40 ha, trong đó có
56.657,10 ha đất nông nghiệp, có 5.124,25ha đất phi nông nghiệp và 329,05 ha đất chưa sử dụng.
Theo thống kê, đất nông nghiệp chiếm 91,22% tổng diện tích tự nhiên, trong khi đất phi nông nghiệp chỉ đạt 8,25% và đất chưa sử dụng là 0,53% Điều này cho thấy, phát triển kinh tế tại huyện chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp.
Bảng 2.1 Tình hình sử dụng đất của huyện Thanh Sơn
Tổng diện tích đất của đơn (1+2+3)
1,1 Ðất sản xuất nông nghiệp
1.1.1 Ðất trồng cây hàng nãm
1.1.1.2 Ðất trồng cây hàng năm khác
1.1.2 Ðất trồng cây lâu năm
1,3 Ðất nuôi trồng thuỷ sản
2 Nhóm đất phi nông nghiệp
2.2.1 Ðất xây dựng trụ sở cơ quan
2.2.4 Ðất xây dựng công trình sự nghiệp
2.2.5 Ðất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
2.2.6 Ðất sử dụng vào mục đích công cộng
2,3 Ðất cơ sở tôn giáo
2,5 Ðất nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng
2,6 Ðất sông, ngòi, kênh, rạch, suối
2,7 Ðất có mặt nước chuyên dùng
3 Nhóm đất chưa sử dụng
3,1 Ðất bằng chưa sử dụng
3,2 Ðất đồi núi chưa sử dụng
3,3 Núi đá không có rừng cây
(Nguồn: Phòng TN&MT huyện Thanh Sơn, 2019)
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện có tiềm năng lớn cho phát triển trồng trọt và chăn nuôi quy mô tập trung Tuy nhiên, giá trị sản xuất hiện tại còn hạn chế do việc sử dụng đất nông nghiệp chưa hiệu quả, với diện tích sản xuất manh mún và đa dạng về loại cây trồng, vật nuôi Để phát huy lợi thế này, cần thiết phải rà soát, tích tụ ruộng đất và dồn điền đổi thửa nhằm tạo ra vùng sản xuất tập trung, đồng thời xác định các loài cây trồng và vật nuôi chủ lực phù hợp.
Hệ thống sông Bứa và các suối chảy về sông Đà, cùng với hàng trăm con suối nhỏ, tạo nên nguồn tài nguyên nước phong phú, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân trong huyện.
2.1.1.4 Thời tiết và khí hậu
Huyện Thanh Sơn có địa hình đa dạng với các tiểu vùng khí hậu khác nhau, bao gồm địa hình chia cắt, dốc kéo dài và rừng núi thấp Khu vực này nằm trong lưu vực sông Bứa, kết thúc dãy Hoàng Liên Sơn, tạo nên đặc trưng khí hậu miền núi phía Bắc Mùa hè tại huyện thường nóng ẩm và mưa nhiều, trong khi mùa đông lạnh giá Nhiệt độ trung bình dao động từ 20-21°C, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1850-1950mm, và độ ẩm không khí trung bình đạt 86,8%.
2.1.1.5 Tài nguyên rừng Đất Lâm nghiệp của huyện có diện tích 43.095,94 ha, chiếm 72% diện tích đất tự nhiên của toàn huyện, độ che phủ rừng hiện tại là 62%.
Huyện Thanh Sơn sở hữu nhiều loại khoáng sản quý giá, bao gồm pizít, quắc zít, cao lanh, fenpats, sắt và than Bên cạnh đó, khu vực này còn có nhiều mỏ đá, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng.
Giá trị tăng thêm theo giá so sánh năm 2010 đạt mức tăng trưởng bình quân 7,72%, với nông, lâm, thủy sản tăng 5,04%, công nghiệp - xây dựng tăng 11,07% và các ngành dịch vụ tăng 8,81% Dự kiến, giá trị tăng thêm bình quân đầu người (theo giá thực tế) sẽ đạt 29 triệu đồng/người/năm vào cuối năm 2020.
Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế đang chuyển dịch theo hướng hợp lý với nông, lâm nghiệp chiếm 37,3%, dịch vụ 40,7% và công nghiệp, xây dựng 22% Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2016-2020 ước đạt 4.433,4 tỷ đồng, trong khi thu ngân sách trên địa bàn bình quân tăng 17% Giá trị sản phẩm bình quân trên 1 ha đất canh tác và nuôi trồng thủy sản, tính theo doanh thu giá hiện hành, cũng đạt được kết quả tích cực.
100 triệu đồng.Tỷ lệ đường giao thông nông thôn được cứng hóa đạt 70%.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 1,06%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 8,39% vào cuối năm 2019, với mức giảm bình quân hàng năm là 2,48% Tỷ lệ hộ cận nghèo hiện là 13,14%, giảm 0,24% hàng năm Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt 94%, trong đó 55% lao động được đào tạo và truyền nghề, với 25,5% có bằng cấp, chứng chỉ Cơ cấu lao động hiện tại bao gồm 64,5% trong nông, lâm nghiệp và thủy sản, 15,1% trong công nghiệp - xây dựng, và 20,4% trong dịch vụ Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là 13,9%, trong khi 92,5% dân số tham gia bảo hiểm y tế Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia cho Mầm non, Tiểu học và THCS là 85,7% Tại nông thôn, 95,8% dân cư có nước hợp vệ sinh, trong đó 34,2% sử dụng nước sạch Tỷ lệ khu dân cư ở trung tâm xã được thu gom và xử lý rác thải đạt 73,9%, và độ che phủ rừng duy trì ở mức 50% Đến nay, có 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và xây dựng nông thôn mới.