ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
2.1.1.1 Dân số mục tiêu: Bệnh nhân có sốt trong vòng 72 giờ đến khám tại phòng khám Nhi của Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang
2.1.1.2 Dân số chọn mẫu: Bệnh nhân có sốt trong vòng 72 giờ đến khám tại phòng khám Nhi của Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang từ ngày 1/6/2011 đến ngày 31/12/2013
- Sốt trong vòng 72 giờ đầu của bệnh
- Có biểu hiện lâm sàng nghi SXHD*
* Nghi SXHD: theo TCYTTG 2009 [104]: Sống/ du lịch đến vùng dịch SXHD, có sốt và 2 trong số các tiêu chuẩn sau:
• Thử nghiệm dấu dây thắt (+)
Tiền sử có một trong các bệnh lí: viêm gan, suy gan, suy thận, di chứng não, bại não, chấn thương cơ xương.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này thuộc dự án đa trung tâm do OUCRU-VN thực hiện tại 7 địa điểm ở 5 tỉnh thành phía Nam Tại Tiền Giang, nghiên cứu diễn ra tại phòng khám Nhi và khoa Nhi của Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang, nơi tiếp nhận và điều trị hầu hết các trường hợp bệnh nhi bị SXHD từ thành phố Mỹ Tho và các huyện lân cận như Chợ Gạo, Châu Thành, Cai Lậy, Tân Phước Bệnh viện này cũng đóng vai trò là tuyến cuối trong điều trị bệnh nhi tại tỉnh Tiền Giang.
2.2.2 Thiết kế nghiên cứu: đoàn hệ tiến cứu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định cỡ mẫu nhằm mục tiêu chính là đánh giá giá trị chẩn đoán của xét nghiệm Dengue NS1 Ag Strip, một xét nghiệm đã được nhiều nghiên cứu trước đây chứng minh có độ đặc hiệu gần 100% Vì vậy, cỡ mẫu được tính toán dựa trên công thức ước tính độ nhạy của xét nghiệm này.
• nse = số lượng cỡ mẫu để ước tính độ nhạy
• TP = số dương tính thật
• FN = số âm tính giả
• Zα= hằng số của phân phối chuẩn, chọn α= 0,05 thì Zα= 1,96
• Pse = Xác suất dương tính thật (độ nhạy) Xét nghiệm NS1 Strip trong nghiên cứu của tác giả V T Hang tại TP.HCM có độ nhạy 72% [64]
• w = sai số giữa 2 xác suất dương tính thật (độ nhạy) và âm tính thật (độ đặc hiệu) = 0,05
Tỉ lệ bệnh trong dân số (Pdis) là một chỉ số quan trọng Trong một nghiên cứu được thực hiện tại Singapore và Việt Nam, tỉ lệ sốt xuất huyết (SXHD) được xác định thông qua xét nghiệm ở những trường hợp sốt cấp trong vòng 72 giờ đầu nghi ngờ SXHD là 30,3%.
Thay vào công thức, tính được: nse= 1022,3 hay nse = 1023 BN
Chọn mẫu không xác suất, lấy trọn mẫu trong thời gian nghiên cứu
2.2.5 Liệt kê và định nghĩa biến số
Nghiên cứu này phân tích các nhóm biến số bao gồm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó có huyết học, sinh hóa và các xét nghiệm chẩn đoán (Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Định nghĩa, phân loại và giá trị các biến số trong nghiên cứu
Biến số Định nghĩa Loại biến
Giá trị/Đơn vị (Giá trị bình thường)
Có một trong các xét nghiệm dương tính: RT-PCR, NS1 Ag ELISA hoặc chuyển dương của kháng thể IgM/IgG
SXHD Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Nhị giá Có, không nặng TCYTTG 2009*
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của TCYTTG 2009** và được xác định SXHD
SXHD Xác định SXHD và không có dấu hiệu nặng cũng như dhcb
Tuổi Tuổi của bệnh nhân Định lượng
Giới tính Giới tính của bệnh nhân Nhị giá Nữ, nam
Nhập viện Nhập viện trong quá trình theo dõi nghiên cứu
Ngày bệnh Ngày bệnh của bệnh nhân tại thời điểm vào nghiên cứu, tính từ ngày sốt đầu tiên (ngày sốt đầu tiên là ngày 1)
1, 2, 3 Ói Bất kỳ lần ói nào trong suốt giai đoạn cấp của đợt bệnh này
Nhị giá Có, không Đau bụng Đau bụng nhiều và liên tục, nhất là ở vùng gan hoặc ấn đau vùng gan
Bất kỳ tình trạng xuất huyết nào ở niêm mạc, như chảy máu mũi, chảy máu nướu, ói ra máu, tiêu ra máu, xuất huyết âm đạo, hoặc tiểu ra máu, đều cần được chú ý qua việc hỏi bệnh và thăm khám kỹ lưỡng.
Bất kỳ biểu hiện xuất huyết nào ở thượng bì, qua hỏi bệnh hoặc thăm khám,ví dụ: chấm xuất huyết hay vết bầm máu
Gan to Bờ dưới gan sờ thấy hơn 2cm Nhị giá Có, không
Khi huyết áp tâm thu:
Trẻ 1-10 tuổi: < 70 mmHg + (2x tuổi) Trẻ >10 tuổi: < 90 mmHg
Thở nhanh Trẻ từ 1 đến đến 5 tuổi: nhịp thở ≥ 40 lần/ phút Trẻ ≥ 5 tuổi: nhịp thở ≥ 30 lần/ phút
Bạch cầu Số lượng bạch cầu trong máu Định lượng
Hct Hematocrit trong kết quả công thức máu Định lượng
Tiểu cầu Số lượng tiểu cầu trong máu Định lượng
Albumin Nồng độ albumin trong máu Định lượng g/l (38- 51)
Nồng độ albumin trong máu ≤ 40 g/l Nhị giá Có, không
CK Nồng độ CK trong máu Định lượng
AST Nồng độ AST trong máu Định lượng
Nồng độ AST trong máu ≥ 80 U/L Nhị giá Có, không
ALT Nồng độ ALT trong máu Định lượng
U/L ( 1.000 U/L Nhị giá Có, không
Thay đổi tri giác (lơ mơ hoặc hôn mê, bứt rứt) hay co giật
Suy các tạng khác không nằm trong các tạng liệt kê ở trên
Không, suy thận, viêm cơ tim,…
Sơ nhiễm SXHD và kết quả IgG1 và IgG2 đều âm tính
Tái nhiễm SXHD và 1 trong 2 kết quả IgG1 hoặc
*SXHD nặng [104]: Khi bệnh nhân có một trong các biểu hiện sau:
- Thất thoát huyết tương nặng dẫn đến:
Sốc (hội chứng sốc SXHD)
Tích tụ dịch kèm suy hô hấp
- Xuất huyết nặng: được đánh giá bởi bác sĩ lâm sàng
- Tổn thương cơ quan nặng
Hệ thần kinh trung ương: giảm tri giác
Tim, các cơ quan khác
**SXHD có dhcb: các dhcb bao gồm:
- Đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan
- Tích tụ dịch lâm sàng
Tăng Hct ≥ 20% so với các trị số trước đó của bệnh nhân hoặc so với trị số huyết áp bình thường theo tuổi
Tiểu cầu đếm giảm nhanh và số lượng ≤ 100.000/mm 3
Tất cả triệu chứng, dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng đều được thu thập tại thời điểm tham gia nghiên cứu, ngoại trừ IgM2 và IgG2, được lấy trong giai đoạn hồi phục.
2.2.6 Phương pháp thu thập số liệu:
Trẻ em có triệu chứng sốt khi đến khám tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang sẽ được hướng dẫn đến phòng khám Nhi, nơi có bác sĩ chuyên khoa Nhi có kinh nghiệm chẩn đoán Để thực hiện nghiên cứu, một điều dưỡng nghiên cứu sẽ hỗ trợ thu nhận bệnh nhân và ghi nhận dữ liệu Những trẻ từ 1 đến 15 tuổi, nghi ngờ mắc SXHD và có sốt trong vòng 72 giờ sẽ được chọn tham gia nghiên cứu Điều dưỡng sẽ thảo luận với người giám hộ về mục đích nghiên cứu cũng như những nguy cơ và lợi ích, và mời họ ký vào phiếu chấp thuận cho trẻ tham gia Lưu đồ nghiên cứu được trình bày trong sơ đồ 2.1.
Thu thập dữ liệu lâm sàng và đặc điểm nhân khẩu học:
Chúng tôi thu thập thông tin về tuổi, giới tính của bệnh nhân và số điện thoại liên lạc của phụ huynh hoặc người giám hộ Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi nhận triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng của bệnh nhân khi vào nghiên cứu thông qua việc hỏi bệnh và thăm khám.
Thu thập mẫu máu nghiên cứu và thực hiện xét nghiệm:
Tất cả bệnh nhân tham gia nghiên cứu sẽ được lấy 5ml máu tại thời điểm thu nhận, trong đó 2ml sẽ được sử dụng để thực hiện các xét nghiệm huyết học và sinh hóa tại nơi nghiên cứu 3ml máu còn lại sẽ được lưu trữ để tiến hành xét nghiệm phát hiện NS1, huyết thanh chẩn đoán dengue IgM/IgG và dengue PCR Thời điểm và lượng máu cần lấy được mô tả chi tiết trong Bảng 2.2.
1 : các dấu hiệu và triệu chứng quan tâm bao gồm: ói, đau bụng, gan to, xuất huyết da, xuất huyết niêm mạc
Thu nhận vào nghiên cứu, thu thập:
- Lâm sàng: dấu hiệu và triệu chứng quan tâm 1
❖ Xét nghiệm lúc vào nghiên cứu:
• AST/ALT, CK và Albumin
• Trữ mẫu làm NS1 ELISA (nếu RT-PCR (-) tính) và huyết thanh học
• Gọi điện thoại cho gia đình đến khi hết bệnh
• Đánh giá tình trạng bệnh nhân ngoại trú/nội trú
❖ Xét nghiệm huyết thanh học (IgM, IgG) giai đoạn hồi phục 2 ở 10% bệnh nhân tham gia nghiên cứu
❖ Xét nghiệm lúc vào nghiên cứu:
• AST/ALT, CK và Albumin
• Trữ mẫu làm NS1 ELISA (nếu RT-PCR (-) tính)
❖ Xét nghiệm lúc xuất viện: Huyết thanh học (IgM, IgG) mẫu hồi phục
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ nghiên cứu
SXHD nặng SXHD không nặng
Giai đoạn hồi phục bắt đầu sau 24-48 giờ từ giai đoạn nguy hiểm, thường kéo dài từ ngày thứ 6 và kéo dài trong 48-72 giờ Trong giai đoạn này, bệnh nhân sẽ hết sốt, tình trạng sức khỏe cải thiện, cảm thấy thèm ăn, huyết động ổn định và tiểu nhiều.
Bảng 2.2 Lịch thu nhận máu và lượng máu lấy
Xét nghiệm Thu nhận mẫu a (sốt
Giai đoạn hồi phục bệnh b
Albumin được lấy tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu cho tất cả bệnh nhân tham gia, và tại thời điểm ngày 6-14 hoặc khi xuất viện (cách mẫu máu cấp ít nhất 2 ngày) cho hơn 10% bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên và 100% bệnh nhân nhập viện Mẫu máu được thu thập trong ống K3EDTA với thể tích 3ml cho trẻ trên 2 tuổi và 1ml cho trẻ từ 12 tháng đến 24 tháng tuổi, cùng với 1ml trong ống Li Heparin và 2ml trong ống K3EDTA.
Nếu kết quả RT-PCR âm tính, bệnh nhân sẽ được thực hiện xét nghiệm NS1 Ag ELISA (Bio-Rad) Tất cả bệnh nhân nhập viện trong quá trình theo dõi và 10% tổng số bệnh nhân tham gia nghiên cứu ban đầu sẽ được chọn ngẫu nhiên để tái khám và xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán kép nhằm tìm sự hiện diện của kháng thể IgM, IgG Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định sốt xuất huyết dengue (SXHD) khi có ít nhất một trong các xét nghiệm dương tính: RT-PCR, NS1Ag ELISA hoặc sự chuyển dương của kháng thể IgM/IgG.
Trong nghiên cứu, bệnh nhân sốt nghi ngờ SXHD sẽ được theo dõi lâm sàng hàng ngày hoặc hai ngày một lần Nhóm điều dưỡng sẽ liên lạc với phụ huynh của trẻ trong 6 ngày liên tiếp để đánh giá tình trạng sức khỏe của trẻ Các câu hỏi trong cuộc phỏng vấn sẽ xác định liệu trẻ còn bệnh hay không, có được chăm sóc tại nhà hay cần nhập viện Đối với bệnh nhân tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang, bác sĩ sẽ lấy mẫu máu thứ hai khi xuất viện và ghi nhận thông tin lâm sàng Chúng tôi cũng sẽ thu nhận mẫu máu tĩnh mạch hoặc máu mao mạch từ 10% trẻ tham gia nghiên cứu trong giai đoạn hồi phục để phục vụ cho chẩn đoán huyết thanh học, với việc lựa chọn ngẫu nhiên các trường hợp thông qua máy tính.
Thử nghiệm nhanh phát hiện NS1
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của xét nghiệm nhanh phát hiện kháng nguyên NS1 trong các mẫu máu cấp tính Chúng tôi đã chọn thử nghiệm Dengue NS1 Ag Strip, một sản phẩm xét nghiệm nhanh chỉ thị màu miễn dịch từ hãng Bio-Rad (Pháp) Quyết định này dựa trên các tài liệu đánh giá chẩn đoán đa dạng liên quan đến sản phẩm trong nhiều nghiên cứu khác nhau, cũng như trên nhóm bệnh nhân tại Việt Nam.
Xác định nhiễm dengue bằng xét nghiệm
Các sai lệch và biện pháp khắc phục
Nghiên cứu này có thể có các sai lệch chọn lựa và sai lệch nhớ lại như sau:
Chúng tôi lựa chọn dân số có sốt nghi ngờ sốt xuất huyết trong 72 giờ đầu Việc xác định thời gian sốt của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào việc khai thác bệnh sử, dựa vào trí nhớ của bệnh nhân hoặc phụ huynh/người giám hộ Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thời điểm khởi phát sốt không được nhớ chính xác Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi tiến hành hỏi bệnh sử một cách cẩn thận, sử dụng các mốc thời gian để giúp người nhà nhớ lại, và trong những trường hợp cần thiết, chúng tôi sẽ liên lạc qua điện thoại với phụ huynh/người giám hộ có kiến thức rõ ràng về bệnh sử của trẻ.
Sai lệch trong việc nhớ lại triệu chứng như ói và đau bụng có thể xảy ra do cách khai thác bệnh sử Ngoài ra, việc phát hiện một số dấu hiệu lâm sàng và chẩn đoán bệnh cũng phụ thuộc vào kinh nghiệm và yếu tố chủ quan của bác sĩ Để giảm thiểu sai lệch trong nghiên cứu, nhóm nghiên cứu của chúng tôi, bao gồm hai điều dưỡng nghiên cứu toàn thời gian, đã được tập huấn kỹ lưỡng trước khi bắt đầu.
Vấn đề y đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu này không vi phạm y đức bởi vì:
Tất cả bệnh nhân và thân nhân tham gia nghiên cứu đều đã tự nguyện đồng ý bằng văn bản, sau khi được giải thích rõ ràng về mục tiêu và phương pháp thực hiện nghiên cứu.
Quản lý và điều trị bệnh nhân có hay không có sốt xuất huyết hoàn toàn phụ thuộc vào các bác sĩ khoa Nhi tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang, đồng thời tuân thủ phác đồ điều trị hiện có của bệnh viện.
- Đây là một nghiên cứu khoa học với mục đích duy nhất là phục vụ y học, không có bất kỳ mục đích nào khác
- Các thông tin của bệnh nhân trong nghiên cứu được bảo mật và lưu trữ trong hồ sơ mã hóa, không để lộ danh tính bệnh nhân
Nghiên cứu này đã được sự chấp thuận của Hội đồng Y đức thuộc Đại học Y Dược TP HCM và Hội đồng Khoa học kỹ thuật của Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang.
- Nghiên cứu có sự ký kết hợp tác với Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford- Việt Nam (OUCRU-VN) bằng văn bản
- Dữ liệu nghiên cứu sử dụng trong luận án có sự đồng thuận của các nghiên cứu viên chính.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng trong 72 giờ đầu của mẫu nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm của dân số nghiên cứu:
Trong nghiên cứu với 1039 bệnh nhân, có 2 trường hợp thiếu dữ liệu xét nghiệm sinh hóa (AST, ALT, CK) do lấy máu không đủ Phân loại bệnh của các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu được thể hiện trong hình 3.1.
Hình 3.1 Sơ đồ phân loại bệnh của những trẻ tham gia nghiên cứu Đặc điểm của mẫu nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.1
Sốt do nguyên nhân khác
Sốt do nguyên nhân khác
Bảng 3.1 Đặc điểm của dân số nghiên cứu
Biến số (n) Tần số (tỉ lệ %) Trung vị
(khoảng tứ vị) Tuổi (năm) (n39)
3.1.2 Đặc điểm của các trường hợp xác định SXHD
Biểu đồ 3.1: Tần số và tỉ lệ SXHD của mẫu nghiên cứu (N39)
Tiêu chuẩn xác định sốt xuất huyết (SXHD) bao gồm ba tiêu chí chính: kết quả RT-PCR dương tính, kết quả NS1 ELISA dương tính, hoặc sự chuyển dương của kháng thể IgM/IgG Hình 3.2 dưới đây mô tả sự phân bố các biện pháp xác định SXHD.
Hình 3.2 Phân bố các phương pháp xác định chẩn đoán trong những trường hợp SXHD (N(3)
Trong tổng số 283 trường hợp xác định sốt xuất huyết (SXHD), có 262 trường hợp cho kết quả RT-PCR dương tính, trong khi 21 trường hợp còn lại được xác định thông qua xét nghiệm NS1 ELISA dương tính hoặc sự chuyển dương của kháng thể IgM/IgG.
Phân bố các trường hợp SXHD theo năm được mô tả trong biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.2 Tần số trường hợp SXHD qua các năm (N(3)
SXHD điều trị ngoại trú
SXHD nặng SXHD có DHCB SXHD
Biểu đồ 3.3 Phân loại SXHD trong nghiên cứu (N(3)
3.1.2.2 Phân loại và tỉ lệ nhập viện SXHD
Biểu đồ 3.4 Tần số và tỉ lệ nhập viện của SXHD trong nghiên cứu (N(3)
3.1.2.3 Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng trong 72 giờ đầu của bệnh nhân SXHD trong nghiên cứu
* Đặc điểm dịch tễ SXHD
Bảng 3.2 Đặc điểm dịch tễ của những trường hợp SXHD
Biến số (N(3) Tần số (tỉ lệ %) Trung vị (khoảng tứ vị)
Khi phân tích sự phân bố các trường hợp SXHD theo tháng trong năm, chúng tôi có kết quả như sau:
Biểu đồ 3.5 Sự phân bố các trường hợp SXHD theo tháng trong năm (N(3)
7 tháng cuối năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Tháng 1Tháng 2Tháng 3Tháng 4Tháng 5Tháng 6Tháng 7Tháng 8Tháng 9Tháng 10Tháng 11Tháng 12
* Đặc điểm lâm sàng trong 72 giờ đầu SXHD
Bảng 3.3 Đặc điểm lâm sàng trong 72 giờ đầu của những trường hợp SXHD
Biến số (N(3) Tần số (tỉ lệ %)
Ngày bệnh lúc vào nghiên cứu
Vào ngày 2 và ngày 3, số bệnh nhân mắc SXHD được thu nhận vào nghiên cứu tăng cao so với ngày 1 Không có bệnh nhân nào có triệu chứng gan to khi vào nghiên cứu, trong khi triệu chứng xuất huyết da và xuất huyết niêm mạc chỉ chiếm tỉ lệ thấp Trong 72 giờ đầu, triệu chứng ói và đau bụng là hai triệu chứng phổ biến, với tỉ lệ lần lượt là 42,8% và 27,2%.
3.1.2.4 Đặc điểm cận lâm sàng trong 72 giờ đầu của bệnh nhân SXHD trong nghiên cứu
Bảng 3.4 Đặc điểm cận lâm sàng trong 72 giờ đầu của những trường hợp SXHD
Biến số (N(3) Tần số (tỉ lệ %)
Trung bình Trung vị (khoảng tứ vị)
Bạch cầu đa nhân 2,8 (2-4,1) trung tính (10 3 /mm 3 )
AST² (U/L) 53 (43-72), giá trị nhỏ nhất: 24, giá trị lớn nhất: 354
ALT³ (U/L) 23 (16-33), giá trị nhỏ nhất: 2, giá trị lớn nhất:
*Tất cả cận lâm sàng được ghi nhận tại thời điểm bệnh nhân tham gia nghiên cứu ạALB: albumin, ²AST: aspartate aminotransferase,³ALT:alanine aminotransferase, 4 CK: creatine kinase
Kết quả được trình bày dưới dạng trung bình hoặc trung vị cho các biến số liên tục, trong khi tần số và phần trăm được sử dụng cho các biến số phân loại.
Phân bố týp huyết thanh DENV theo thời gian:
Biểu đồ 3.6 Phân bố týp huyết thanh DENV theo năm (N&2)
3.1.3 Đặc điểm của các trường hợp SXHD nặng
Trong nghiên cứu 1.039 trường hợp nghi ngờ sốt xuất huyết (SXHD), có 13 trường hợp được chẩn đoán mắc SXHD nặng, chiếm tỷ lệ 1,3% trong số các trường hợp sốt nghi SXHD và 4,6% trong tổng số trường hợp SXHD.
Biểu đồ 3.7 Biểu đồ Venn các biến chứng nặng SXHD (N)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các biến chứng nặng được ghi nhận bao gồm sốc (69,2% - 9 trường hợp), suy hô hấp (46,2% - 6 trường hợp) và xuất huyết nặng (38,5% - 5 trường hợp) Một số trường hợp sốc có kèm theo xuất huyết nặng hoặc suy hô hấp, hoặc cả hai Tuy nhiên, các biến chứng như suy gan, tổn thương hệ thần kinh trung ương và suy các tạng khác không được phát hiện trong nghiên cứu này.
3.1.3.2 Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng trong 72 giờ đầu của SXHD nặng
Bảng 3.5 Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của những trường hợp SXHD nặng
Biến số (N) Tần số (tỉ lệ %) Trung bình Đặc điểm dân số học
Nữ 4 (30,8%) Đặc điểm lâm sàng
Ngày bệnh lúc vào nghiên cứu
Tuổi trung bình của các bệnh nhân mắc SXHD nặng là 8 ± 2,6 tuổi, trong đó nam giới chiếm 69,2% Đáng chú ý, 61,5% bệnh nhân được ghi nhận trong nghiên cứu vào ngày thứ ba của bệnh Trong 72 giờ đầu, các triệu chứng như xuất huyết da, xuất huyết niêm mạc và gan to không được phát hiện ở những trường hợp SXHD nặng.
3.1.3.3 Đặc điểm cận lâm sàng trong 72 giờ đầu của SXHD nặng
Bảng 3.6 Đặc điểm cận lâm sàng của những trường hợp SXHD nặng
Biến số (N) Tần số (tỉ lệ %) Trung bình Trung vị
Nhận xét: trong các trường hợp SXHD nặng, DENV-2 chiếm tỉ lệ cao nhất Đa số các trường hợp SXHD nặng là tái nhiễm (11/13 trường hợp)
3.2 GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA XÉT NGHIỆM NHANH PHÁT HIỆN NS1 VI RÚT DENGUE TRONG CHẨN ĐOÁN SXHD Ở DÂN SỐ NGHIÊN CỨU
3.2.1 Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của xét nghiệm NS1 Ag Strip
Trong 283 trường hợp xác định sốt xuất huyết (SXHD), có 192 trường hợp cho kết quả dương tính với NS1 Strip Ngược lại, trong 756 trường hợp không phải SXHD, 751 trường hợp cho kết quả âm tính với NS1.
Bảng 3.7 Bảng kết quả NS1 Ag Strip (N39)
SXHD Không phải SXHD Nhóm chung NS1 STRIP (+) 67,8% (192) 0,7% (5) 19,0% (197) NS1 STRIP (-) 32,2% (91) 99,3% (751) 81,0% (842)
Chúng tôi đã tính toán độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của thử nghiệm NS1 Strip, như được trình bày trong bảng 3.7.
Bảng 3.8 Giá trị của thử nghiệm NS1 Strip
Giá trị Khoảng tin cậy 95% Độ nhạy 67,8% 62,1% - 73,3% Độ đặc hiệu 99,3 % 98,5% - 99,8%
Giá trị tiên đoán dương 97,5% 94,1% - 98,9%
Giá trị tiên đoán âm 89,2 % 87,5% - 90,7%
3.2.2 Độ nhạy của xét nghiệm NS1 Strip theo độ tuổi, ngày bệnh, týp huyết thanh và phản ứng huyết thanh
Chúng tôi đã sử dụng phép kiểm Chi bình phương để so sánh độ nhạy của xét nghiệm NS1 theo các yếu tố như độ tuổi, ngày bệnh, týp huyết thanh và phản ứng huyết thanh, và đã thu được các kết quả cụ thể.
3.2.2.1 Độ nhạy NS1 Strip theo độ tuổi:
Bảng 3.9 So sánh độ nhạy NS1 Strip theo độ tuổi
Nhận xét: Sự khác biệt tỉ lệ NS1 dương tính ở 2 nhóm 1-5 tuổi và nhóm trên 5 đến 15 tuổi không có ý nghĩa thống kê với P =0,631
3.2.2.2 Độ nhạy NS1 Strip theo ngày bệnh:
Bảng 3.10 So sánh độ nhạy NS1 Strip theo ngày bệnh
Nhận xét: sự khác biệt về độ nhạy NS1 Strip giữa các ngày bệnh 1, 2 và
3 có ý nghĩa thống kê, với P = 0,024 NS1 kém nhạy ở ngày 3 hơn so với ngày 1 và ngày 2
3.2.2.3 Độ nhạy NS1 Strip theo týp huyết thanh
Bảng 3.11 So sánh độ nhạy NS1 Strip theo týp huyết thanh
Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt đáng kể về độ nhạy của NS1 giữa các týp huyết thanh khác nhau, với giá trị P < 0,001 Đặc biệt, NS1 Strip có độ nhạy kém hơn ở nhóm nhiễm DENV-2 so với các týp huyết thanh khác.
3.2.2.4 Độ nhạy NS1 Strip theo đáp ứng miễn dịch
Bảng 3.12 So sánh độ nhạy NS1 Strip theo đáp ứng miễn dịch Đáp ứng miễn dịch
Trong tổng số 283 trường hợp sản xuất huyết thanh, có 153 trường hợp được thực hiện chẩn đoán kép với mẫu cấp và hồi phục Trong số 153 trường hợp này, 45 trường hợp là sơ nhiễm, trong khi 108 trường hợp còn lại là tái nhiễm.
Nhận xét: Tỉ lệ NS1 dương tính ở nhóm sơ nhiễm cao hơn nhóm tái nhiễm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P < 0,001
3.3 MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ DỊCH TỄ, LÂM SÀNG, HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA TRONG 72 GIỜ ĐẦU VỚI CHẨN ĐOÁN SXHD, MÔ HÌNH CHẨN ĐOÁN SỚM SXHD
3.3.1 Mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, huyết học và sinh hóa trong 72 giờ đầu với chẩn đoán SXHD Để xác định mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng trong 72 giờ đầu với SXHD, chúng tôi sử dụng phép kiểm T so sánh 2 trung bình và phép kiểm chi bình phương so sánh tỉ lệ các yếu tố này của nhóm SXHD với nhóm SDNNK và xác định tỉ số chênh (OR) của từng biến số với mức ý nghĩa là P < 0,05 Kết quả như sau:
3.3.1.1 Mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ và lâm sàng trong 72 giờ đầu với chẩn đoán SXHD
Bảng 3.13 Kết quả phân tích đơn biến mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ và lâm sàng trong 72 giờ đầu với chẩn đoán SXHD
3 141 (49,8%) 295 (39,0%) Ói 121 (42,8%) 317 (41,9%) 1,03 (0,78-1,36) 0,811 Đau bụng 77 (27,2%) 213 (28,2%) 0,95 (0,70-1,29) 0,757 Xuất huyết niêm 5 (1,8%) 7 (0,9%) 1,92 (0,61-6,11) 0,259*
*Sử dụng phép kiểm Fisher chính xác
Sau khi thực hiện phân tích đơn biến với 8 yếu tố dịch tễ và lâm sàng, kết quả chỉ ra rằng có 3 yếu tố có liên quan đến chẩn đoán sốt xuất huyết (SXHD).
- Tuổi: tuổi trung vị của trẻ SXHD lớn hơn trẻ bị SDNNK (8 (6-10) tuổi so với 5 (3,8-7) tuổi), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P < 0,001
- Xuất huyết da trong 72 giờ đầu, với OR = 16,35 (KTC 95% 1,96- 136,45; P < 0,001)
- Ngày bệnh: có sự khác nhau về ngày bệnh vào nghiên cứu giữa SXHD và SDNNK, p = 0,004
Kết quả phân tích cho thấy chưa có mối liên quan giữa bệnh SXHD với các yếu tố giới, ói, đau bụng, xuất huyết niêm và gan to với P > 0,05
3.3.1.2 Mối liên quan giữa các yếu tố cận lâm sàng trong 72 giờ đầu với chẩn đoán SXHD
Bảng 3.14 Kết quả phân tích đơn biến mối liên quan giữa các yếu tố cận lâm sàng trong 72 giờ đầu với chẩn đoán SXHD
Trung bình/ Trung vị Bạch cầu (10 3 /mm 3 ) 4,3 (3,4-5,9) 8,45 (5,9-12,3) < 0,001
Bạch cầu đa nhân trung tính (10 3 /mm 3 )
Giá trị của xét nghiệm nhanh phát hiện NS1 virút dengue trong chẩn đoán SXHD ở dân số nghiên cứu
4.1 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG TRONG 72 GIỜ ĐẦU CỦA MẪU NGHIÊN CỨU Đây là nghiên cứu dựa trên bệnh nhân ngoại trú, tiến cứu với cỡ mẫu khá lớn về SXHD thực hiện tại Tiền Giang Nghiên cứu đã cung cấp số liệu sơ lược về lâm sàng và cận lâm sàng của gánh nặng SXHD ngay từ trong giai đoạn sớm (trong vòng 72 giờ đầu của bệnh) cũng như lịch sử tự nhiên và kết cuộc lâm sàng Nghiên cứu được thực hiện qua 31 tháng từ 6/2011 đến tháng 12/2013 đã cung cấp hình ảnh về sự thay đổi tần suất mắc SXHD qua các năm cũng như sự chuyển đổi týp huyết thanh lưu hành qua các năm trong thời gian trên
4.1.1 Đặc điểm của dân số nghiên cứu
Về đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung vị của mẫu là 6 tuổi (khoảng từ 4 đến 9 tuổi), phù hợp với kết quả của nghiên cứu của Kalayanarooj S, trong đó tuổi trung bình của các trường hợp sốt trong 72 giờ đầu nghi ngờ sốt xuất huyết là 6,8 ± 3,2 tuổi.
Trong nghiên cứu của Potts, tuổi trung bình của trẻ em sốt trong 72 giờ đầu nghi ngờ sốt xuất huyết là 7,9 tuổi (KTC 95%: 7,7 – 8,1 tuổi) Cả hai nghiên cứu đều được thực hiện tại Thái Lan trong các năm 1994-1997, 1999-2002 và 2004-2007, cùng với nghiên cứu của tác giả Kalayanarooj S vào năm 1994, đều tập trung vào nhóm trẻ em có sốt trong vòng 72 giờ đầu nghi ngờ sốt xuất huyết.
Trong dân số nghiên cứu chúng tôi, nam chiếm 56,8%, nói cách khác, tỉ số nam: nữ là 1,3:1 Kết quả của chúng tôi tương đương nghiên cứu của tác
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trong 72 giờ đầu của mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện trên bệnh nhân ngoại trú tại Tiền Giang, với cỡ mẫu lớn và mang tính tiến cứu về bệnh sốt xuất huyết (SXHD) Nó cung cấp dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng về gánh nặng SXHD trong 72 giờ đầu tiên của bệnh, cùng với lịch sử tự nhiên và kết quả lâm sàng Thời gian nghiên cứu kéo dài 31 tháng, từ tháng 6/2011 đến tháng 12/2013, đã ghi nhận sự thay đổi tần suất mắc SXHD và sự chuyển đổi týp huyết thanh lưu hành trong giai đoạn này.
4.1.1 Đặc điểm của dân số nghiên cứu
Về đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung vị là 6 tuổi (khoảng 4-9 tuổi), tương đồng với kết quả nghiên cứu của Kalayanarooj S, trong đó tuổi trung bình của các trường hợp sốt trong 72 giờ đầu nghi ngờ sốt xuất huyết là 6,8 ± 3,2 tuổi.
Trong nghiên cứu của Potts, tuổi trung bình của trẻ em sốt trong 72 giờ đầu nghi ngờ sốt xuất huyết là 7,9 tuổi (KTC 95%: 7,7 – 8,1 tuổi) Các nghiên cứu này được thực hiện tại Thái Lan vào các năm 1994-1997, 1999-2002 và 2004-2007, cùng với nghiên cứu của tác giả Kalayanarooj S vào năm 1994, đều tập trung vào trẻ em sốt trong vòng 72 giờ đầu nghi ngờ sốt xuất huyết.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nam giới chiếm 56,8%, tương đương với tỷ số nam: nữ là 1,3:1 Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Potts, trong đó trẻ nam chiếm 55% dân số nghiên cứu Ngoài ra, nghiên cứu của Kalayanarooj S cũng cho thấy tỷ số nam: nữ là 1,1:1.
Số trường hợp RT-PCR dương tính trong mẫu nghiên cứu là 262, chiếm tỉ lệ 25,2% Trong 777 trường hợp RT-PCR âm tính được tiến hành làm NS1
ELISA, chúng tôi phát hiện có 19 trường hợp dương tính chiếm tỉ lệ 2,4% Có
Trong 299 trường hợp làm xét nghiệm huyết thanh kép, chỉ phát hiện thêm 2 trường hợp SXHD có kết quả RT-PCR và NS1 ELISA âm tính trước đó Số trường hợp chuyển dương còn lại là 148, đã được chẩn đoán xác định bằng kết quả dương tính với RT-PCR hoặc NS1 ELISA Điều này cho thấy, mặc dù không thực hiện xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán kép cho tất cả các trường hợp, nhưng số lượng bỏ sót chẩn đoán SXHD là tối thiểu khi đã thực hiện RT-PCR và NS1 ELISA, nếu RT-PCR âm tính.
4.1.2 Đặc điểm của các trường hợp xác định SXHD
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, trong số 1039 trẻ sốt nghi ngờ sốt xuất huyết (SXHD), có 283 trường hợp được xác định mắc SXHD, chiếm tỷ lệ 27,2% Tỷ lệ này thấp hơn một chút so với nghiên cứu của Kalayanarooj S và thấp hơn đáng kể so với nghiên cứu của tác giả Potts.
Trong một nghiên cứu về sốt ở trẻ em, 172 trẻ đã sốt trong 72 giờ đầu và 60 trường hợp được xác định là sốt xuất huyết dengue (SXHD), chiếm tỉ lệ 35% Nghiên cứu của Potts trên 1.227 trẻ cho thấy rằng 50% số trường hợp sốt ≤ 72 giờ nghi ngờ SXHD được xác định là SXHD Tuy nhiên, tỉ lệ SXHD trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Biswas thực hiện ở Nicaragua từ năm 2004.
Năm 2009, trong số 1.974 trường hợp nghi ngờ sốt xuất huyết (SXHD), chỉ có 181 trường hợp (9%) được xác định là SXHD Tỷ lệ SXHD trong dân số nghi ngờ giữa các nghiên cứu có sự khác biệt, có thể do mô hình bệnh tật, phương pháp xét nghiệm xác định SXHD và kinh nghiệm chẩn đoán lâm sàng của bác sĩ ở các khu vực khác nhau Halstead và cộng sự đã báo cáo rằng 29% trẻ em mắc sốt cấp tại phòng khám ở Bangkok trong giai đoạn 1962-1964 có liên quan đến SXHD, tuy nhiên nghiên cứu này bao gồm cả những trẻ có triệu chứng sốt cao.
Trong tổng số 283 trường hợp sốt xuất huyết (SXHD), 262 trường hợp được xác nhận bằng phương pháp RT-PCR dương tính, trong khi 21 trường hợp còn lại được chẩn đoán dựa trên kết quả dương tính của xét nghiệm NS1 ELISA và sự chuyển dương của kháng thể IgM, IgG Chúng tôi đã nỗ lực để hạn chế bỏ sót các trường hợp SXHD thực sự, từ đó giúp đánh giá chính xác giá trị chẩn đoán của xét nghiệm NS1 Strip.
Trong nghiên cứu từ năm 2011 đến 2013, chúng tôi ghi nhận số trường hợp SXHD cao nhất vào năm 2011 với 159 trường hợp trong 7 tháng cuối năm Tuy nhiên, đến năm 2012, số trường hợp giảm xuống còn 110, và năm 2013 tiếp tục giảm mạnh chỉ còn 14 trường hợp Tình trạng này phản ánh đúng số liệu của Bộ Y tế, cho thấy năm 2013, số mắc SXHD ở khu vực phía Nam đạt mức thấp nhất kể từ năm 2003 với 33.390 trường hợp.
4.1.2.2 Phân loại và tỉ lệ nhập viện SXHD
Trong nghiên cứu về 283 trường hợp sản khoa, chỉ có 4,6% là sản khoa nặng và 12,7% có dấu hiệu cần can thiệp, dẫn đến tỷ lệ nhập viện cần thiết là 17,3% Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỷ lệ nhập viện lên tới 50,9%, cho thấy khoảng 33,6% trường hợp nhập viện không thực sự cần thiết Hiện tượng này phản ánh xu hướng của bác sĩ trong việc cẩn trọng nhập viện để theo dõi và điều trị kịp thời các trường hợp diễn tiến nặng, nhưng cũng tạo ra gánh nặng cho hệ thống y tế và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình bệnh nhân.
4.1.2.3 Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng trong 72 giờ đầu của SXHD
Tuổi trung vị của các bệnh nhân mắc sốt xuất huyết trong nghiên cứu là 8 tuổi (khoảng từ 6 đến 10 tuổi), phù hợp với các nghiên cứu trước đây Cụ thể, nghiên cứu của Biswas ghi nhận tuổi trung vị là 8 tuổi (từ 2 đến 13 tuổi), trong khi nghiên cứu của tác giả Potts cho thấy độ tuổi trung bình là 8,8 tuổi (KTC 95% từ 8,3 đến 9,3 tuổi).
Tỉ lệ nam giới trong các trường hợp sản xuất hàng hóa (SXHD) đạt 57,2%, tương tự như nghiên cứu của Potts, cho thấy tỉ lệ này là 55,5%.
Nghiên cứu cho thấy, số trường hợp mắc bệnh thường đạt đỉnh vào tháng 7 và tháng 8, phù hợp với thực tế y văn rằng bệnh sốt xuất huyết thường gia tăng trong mùa mưa.
Ngày bệnh vào nghiên cứu của bệnh nhân SXHD đa số là ngày 3 và ngày
Chỉ có 6,4% bệnh nhân được đưa đến khám vào ngày đầu tiên của bệnh, trong khi 49,8% và 43,8% bệnh nhân được khám vào ngày thứ hai và thứ ba Điều này cho thấy đa số phụ huynh thường đưa trẻ đi khám sau khi theo dõi tình trạng sốt tại nhà trong 1-2 ngày mà không thấy cải thiện.
Giá trị của xét nghiệm nhanh phát hiện NS1 virút dengue trong chẩn đoán SXHD ở dân số nghiên cứu
4.2.1 Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của thử nghiệm nhanh Dengue NS1 Ag Strip Độ nhạy của test NS1 Strip ở trẻ nghi SXHD trong vòng 72 giờ đầu tại Tiền Giang là 67,8% Một số báo cáo cho thấy độ nhạy của NS1 Strip thay đổi từ 34% đến 96% và khác nhau tùy theo vùng địa lý So với một số nghiên cứu trước đây về NS1 Strip tại các nơi khác, chúng tôi nhận thấy, nghiên cứu chúng tôi có độ nhạy tương đương ở Venezuela 67,8%, cao hơn tại thành phố
Hồ Chí Minh có tỷ lệ phát hiện NS1 ELISA đạt 61,6%, thấp hơn so với một số quốc gia như Đài Loan (77,3%), Singapore (78,9%), Guyana (81,5%), Brazil (89,6%), Malaysia (90,4%) và Thái Lan (98,9%) Điều này cho thấy rằng độ nhạy của phương pháp NS1 Strip thường thấp hơn so với các thử nghiệm NS1 ELISA.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, xét nghiệm NS1 Ag Strip đạt độ đặc hiệu cao 99,3%, điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đây về độ đặc hiệu của xét nghiệm NS1.
Giá trị tiên đoán dương của NS1 Ag Strip trong nghiên cứu của chúng tôi đạt 97,5%, trong khi giá trị tiên đoán âm là 89,2% Giá trị tiên đoán dương cao này phù hợp với nghiên cứu của Kwoon-Yong Pok, nhưng giá trị tiên đoán âm của chúng tôi lại cao hơn so với Kwoon-Yong Pok và Bessoff K, đồng thời thấp hơn so với nghiên cứu của Kumarasamy W.
Giá trị của NS1 Ag Strip trong nghiên cứu chúng tôi so với các nghiên cứu trước đây được trình bày trong bảng 4.1
Bảng 4.1: So sánh giá trị thử nghiệm nhanh NS1 Strip ở các nơi và so với các xét nghiệm NS1 ELISA và xét nghiệm nhanh khác
Test (số mẫu thử) Độ nhạy (%) Độ đặc hiệu
ELISA và Test nhanh NS1- LFRT (138)
ELISA (Platelia), Dengue Early ELISA và NS1 Strip (123)
Test (số mẫu thử) Độ nhạy (%) Độ đặc hiệu
ELISA (Platelia và PAN-E) và NS1 Strip (321)
Test nhanh: NS1 STRIP và 3 test khác
Dussart P NS1 Strip và 2 NS1 Strip: NS1 Strip và - -
[50] test ELISA (Platelia và Pan- E)
2 test ELISA (253): Pan-E và Platelia
*PPV (positive predictive value): giá trị tiên đoán dương, **NPV (negative predictive value): giá trị tiên đoán âm
4.2.2 Sự thay đổi độ nhạy NS1 Ag Strip theo tuổi, ngày bệnh, týp huyết thanh và đáp ứng miễn dịch
Nghiên cứu cho thấy nhóm trẻ từ 1 đến 5 tuổi có tỉ lệ dương tính với NS1 Strip cao hơn (70,3%) so với nhóm từ 5 đến 15 tuổi (67,1%), mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,631) Theo nghiên cứu của Hermann, tỉ lệ NS1 dương tính ở trẻ dưới 5 tuổi đạt 95,1%, cao hơn so với 83,8% ở trẻ trên 5 tuổi Đặc biệt, nhóm trẻ dưới 5 tuổi có tỉ lệ sơ nhiễm cao hơn (40,9%) so với nhóm trên 5 tuổi (10,3%), và xét nghiệm NS1 cho thấy độ nhạy cao hơn trong trường hợp sơ nhiễm so với tái nhiễm.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra sự khác biệt về độ nhạy của xét nghiệm NS1 Strip giữa các ngày bệnh 1, 2 và 3 với p = 0,024, cho thấy ngày 3 có độ nhạy kém hơn so với ngày 1 và 2 Một số nghiên cứu trước đây cũng cho thấy xét nghiệm NS1 đạt độ nhạy cao nhất vào ngày 3-4 của bệnh Đối với test Inbios NS1 ELISA, độ nhạy có thể đạt 100% trong giai đoạn sớm nhưng giảm xuống dưới 50% vào ngày thứ 7 Nghiên cứu của V T Hang cũng xác nhận rằng xét nghiệm NS1 nhạy hơn trong 3 ngày đầu so với những ngày sau.
4.2.2.3 Týp huyết thanh Đối với các týp huyết thanh khác nhau, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt độ nhạy NS1 giữa các týp huyết thanh Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 NS1 Strip kém nhạy ở nhóm nhiễm týp 2 hơn các týp khác, tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả V.T.Hang [64], Hermann [66] và A H Ramirez [115] Có thể giải thích điều này là nhiễm DENV-2 trên lâm sàng nhiều khả năng xảy ra trong tái nhiễm hơn sơ nhiễm, do đó kéo theo việc giảm độ nhạy với NS1 Strip [64] Một số báo cáo trước đây không thấy sự khác biệt ý nghĩa về độ nhạy của NS1 Strip giữa các týp huyết thanh [50] Nghiên cứu của Subhamoy Pal cho thấy độ nhạy xét nghiệm NS1 thấp hơn với DENV-4 [106], tương tự với nghiên cứu của Hermann đối với xét nghiệm InBios: ít nhạy với DENV-4 nhất [66] Bessoff nghiên cứu thấy xét nghiệm NS1 của Bio-Rad nhạy nhất với DENV-1 (92,9%), ít nhạy với DENV-4 nhất (70,9%) [30]
4.2.2.4 Đáp ứng miễn dịch Độ nhạy của NS1 Strip thấp hơn trong tái nhiễm khi so với trong sơ nhiễm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trước đó Test InBios NS1 kit có độ nhạy cao hơn trong sơ nhiễm (98,8%) so với tái nhiễm (83,5%) [66] Trong tái nhiễm, kháng thể kháng NS1 đã có từ trước trong huyết tương có thể hạn chế sự phát hiện kháng nguyên NS1 [50],[64],[106],[115],[134] Do đó, đối với những dân số bệnh nhân trong các quốc gia có dịch cao với sự đồng lưu hành nhiều týp huyết thanh, NS1 Strip có thể không đủ để chẩn đoán xác định SXHD tại giường.
Mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, huyết học và sinh hóa trong 72 giờ đầu với chẩn đoán SXHD, mô hình chẩn đoán sớm
4.3.1 Mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, huyết học và sinh hóa trong 72 giờ đầu với chẩn đoán SXHD
Tuổi trung vị của bệnh nhân SXHD trong nghiên cứu là 8 tuổi (khoảng 6-10 tuổi), cao hơn so với nhóm bệnh nhân SDNNK với tuổi trung vị là 5 tuổi (khoảng 3,8-7 tuổi), và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p