1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đặc điểm của tiếng việt thế kỷ xii qua cứ liệu từ điển annam lusitan latinh

324 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đặc Điểm Của Tiếng Việt Thế Kỷ XVII Qua Cứ Liệu Từ Điển Annam - Lusitan - Latinh
Tác giả Bùi Thị Minh Thùy
Người hướng dẫn PGS. TS. Lê Trung Hoa
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Ngôn ngữ học
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 324
Dung lượng 5,9 MB

Cấu trúc

  • LA25501BH.pdf

    • LATS-Bùi Thị Minh Thùy-(Chính văn).pdf

  • LATS-Bùi Thị Minh Thùy-(Phụ lục).pdf

Nội dung

Đối tượng và mục đích nghiên cứu

2.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng chính của luận án là “đặc điểm của tiếng Việt thế kỷ XVII” được phản ánh qua Từ điển ALL.

Việc thực hiện đề tài nhằm đạt ba mục đích sau:

Luận án xây dựng cơ sở lý thuyết nhằm khám phá đặc điểm ngôn ngữ trong một giai đoạn lịch sử, tập trung vào các khía cạnh ngữ âm, chữ viết và từ vựng.

Luận án nghiên cứu đặc điểm của tiếng Việt thế kỷ XVII qua ba bình diện chính: ngữ âm - chữ viết, từ vựng - ngữ nghĩa, và ngữ pháp Dựa trên dữ liệu từ Từ điển ALL, bài viết xác định những nét đặc trưng của tiếng Việt trong thời kỳ này và làm nổi bật giá trị của Từ điển ALL trong việc hiểu rõ hơn về sự phát triển ngôn ngữ.

Cuối cùng, chúng tôi đã tổng hợp các ngữ liệu nghiên cứu vào phần phụ lục để phục vụ nhu cầu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài mà luận án đã gợi mở.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án nghiên cứu đặc điểm của tiếng Việt thế kỷ XVII dựa trên Từ điển ALL và các văn bản chữ Quốc ngữ tiêu biểu Nghiên cứu này phân tích các khía cạnh ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa và ngữ pháp của tiếng Việt thời kỳ này Các điểm chính được tập trung vào bao gồm sự phát triển ngữ âm, sự thay đổi trong chữ viết, sự phong phú của từ vựng và sự biến đổi ngữ nghĩa, cùng với các quy tắc ngữ pháp đặc trưng.

Luận án nghiên cứu đặc điểm ngữ âm tiếng Việt thế kỷ XVII thông qua hình thức chữ viết mới được ghi lại trong Từ điển ALL.

Luận án tập trung vào việc khám phá những đặc điểm nổi bật trong hệ thống từ vựng tiếng Việt thế kỷ XVII, được thể hiện qua Từ điển ALL.

- Về mặt ngữ pháp: Luận án có nhiệm vụ tìm ra được đặc điểm về ngữ pháp tiếng Việt của thế kỷ XVII qua Từ điển ALL.

Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp thống kê là công cụ chính để phân tích tần số xuất hiện của các đơn vị ngôn ngữ trong Từ điển ALL, bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng và ngữ nghĩa Dựa trên các số liệu định lượng, chúng tôi chứng minh những đặc điểm của tiếng Việt thế kỷ XVII Chúng tôi sử dụng các phần mềm như WsegPotag-XP để tách từ và liệt kê mục từ, cùng với CorpuScan để thống kê tần số từ Tuy nhiên, do hình thức chữ Quốc ngữ ban đầu trong Từ điển ALL chưa thống nhất, nên kết quả từ phần mềm chỉ mang tính tương đối, và chúng tôi cần kiểm tra lại trên văn bản để có kết quả cuối cùng.

- Phương pháp miêu tả và phân tích

Phân tích và mô tả các trường hợp cụ thể trong Từ điển ALL cho thấy những đặc điểm nổi bật của tiếng Việt thế kỷ XVII trên nhiều bình diện ngôn ngữ khác nhau.

- Phương pháp so sánh lịch sử

Phương pháp so sánh lịch sử, theo Nguyễn Thiện Giáp (2012, tr 532-555 và 2016a, tr 425), là phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong ngôn ngữ học lịch sử, tập trung vào việc nghiên cứu sự biến đổi của ngôn ngữ và những hậu quả của nó Mục tiêu của phương pháp này không chỉ là so sánh các ngôn ngữ và hiện tượng của chúng mà còn phân tích sự phát triển của các ngôn ngữ liên quan Tư liệu đóng vai trò quan trọng, là cơ sở cho mọi phân tích Khác với phép đối chiếu đơn giản, phương pháp so sánh lịch sử xem xét các hiện tượng từ tất cả các ngôn ngữ thân thuộc, bao gồm cả sinh ngữ, tử ngữ, ngôn ngữ văn học có văn tự và ngôn ngữ chưa có văn tự.

Ví dụ: (Theo Nguyễn Thiện Giáp, 2012 tr 541)

 So sánh từ vựng của tiếng Việt và tiếng Mường trong các trường hợp sau:

Tiếng Việt gà gái gốc gạo Tiếng Mường ca cải cốc cào

Ví dụ so sánh này cho thấy giữa hai ngôn ngữ thân thuộc có sự tương ứng giữa /k/ và /g/

 So sánh và ghi nhận những hiện tượng biến đổi ngữ âm (nguyên âm, phụ âm, bán âm) ở tiếng Việt do các quy luật ngữ âm chi phối như:

Phụ âm: [k]→ [g] như: cận → gần, ký → ghi, kỷ → ghế, kính → gương,… Nguyên âm: [a] → [ă] gian → căn (nhà), [iê] → [ê] thiêm → thêm,

Thanh điệu: [thanh 3] → [thanh 6] lãnh → lạnh, mãnh → mạnh,…

Chúng tôi áp dụng phương pháp này để so sánh và ghi nhận các hiện tượng luật đồng hoá ngữ âm trong tiếng Việt lịch sử Chẳng hạn, từ "khách thứa" (theo Từ điển ALL) đã chuyển thành "khách khứa" trong ngữ cảnh hiện nay.

Vần: ngoan ngõ (Từ điển ALL) → ngoan ngoãn (hiện nay)

Thanh điệu: lông mí, bồ nhin (Từ điển ALL) → lông mi, bồ nhìn (hiện nay)

Ngữ liệu nghiên cứu và giới hạn đề tài

Nguồn ngữ liệu chính cho đề tài là Từ điển ALL của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651 tại Roma, bao gồm hai phần: báo cáo tóm tắt về tiếng An Nam hay Đông - kinh và Từ điển Annam Lvsitan Latinh Từ điển có 900 cột với 22 mẫu tự theo chữ cái Latinh, và chúng tôi sử dụng bản in 1991 của NXB Khoa học Xã hội để dịch nghĩa các mục từ Toàn bộ các mục từ trong Từ điển ALL được thống kê thành bảng gồm 11.400 đơn vị mục từ, sắp xếp theo thứ tự a, b, c… Đây là nguồn ngữ liệu tin cậy cho việc khảo sát đề tài luận án, tuy nhiên, bảng từ chủ yếu phục vụ cho việc nghiên cứu ngữ âm, chữ viết, từ vựng và ngữ nghĩa Đối với bình diện ngữ pháp, các mục từ không đủ để nghiên cứu ở cấp độ câu, vì vậy, trong những trường hợp đặc biệt, chúng tôi đã sử dụng ngữ liệu từ tác phẩm “Phép giảng tám ngày” của cùng tác giả để hỗ trợ khảo sát.

Chúng tôi đã sử dụng một số ngữ liệu bổ sung để so sánh và đối chiếu, bao gồm: "An Nam dịch ngữ" của Vương Lộc (Nxb Đà Nẵng, 1995), "Tự vị Annam – Latinh" do Pigneaux de Behaine biên soạn và Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch (Nxb Trẻ, 1999), và "Từ điển tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học (Nxb Từ điển Bách Khoa, 2010) Những nguồn ngữ liệu này được chọn để tìm hiểu đặc điểm tiếng Việt thế kỷ XVII được phản ánh trong Từ điển ALL.

5.2 Giới hạn của đề tài

Trong khảo sát về tiếng Việt thế kỷ XVII, chúng tôi tập trung vào các đặc điểm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa và ngữ pháp Những trường hợp có tần suất xuất hiện thấp không đủ thuyết phục để xác định thành đặc điểm nổi bật của tiếng Việt thế kỷ XVII sẽ được loại bỏ.

Đóng góp của luận án

6.1 Đóng góp về lý luận

Luận án trình bày hệ thống lý luận giúp xác định đặc điểm ngôn ngữ của tiếng Việt trên các bình diện trong một giai đoạn lịch sử

Phần lý luận này chứng minh khả năng phản ánh tiếng Việt thế kỷ XVII của

Đề tài này đóng góp quan trọng vào việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, không chỉ hỗ trợ cho ngành ngôn ngữ học mà còn có giá trị cho các lĩnh vực văn hóa, lịch sử, nhân học và dân tộc học.

Luận án này nhằm làm rõ đặc điểm của tiếng Việt thế kỷ XVII, với mục tiêu cung cấp cái nhìn tổng quát cũng như chi tiết về ngữ âm, chữ viết, từ vựng và ngữ pháp Kết quả nghiên cứu hy vọng sẽ hỗ trợ cho những người học và nghiên cứu tiếng Việt lịch sử.

Các ngữ liệu thống kê trong phần phụ lục có thể hỗ trợ nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài luận án, bao gồm bảng thống kê toàn bộ mục từ trong từ điển, bảng đính chính, bảng chính tả, bảng các lớp từ và các cấu trúc ngữ.

Bảng từ thống kê toàn bộ các mục từ trong từ điển, có thể được phát triển thành phần mềm chạy trên máy tính để tra cứu nhanh Từ điển ALL, hoặc được đăng tải trên các website nhằm hỗ trợ tra cứu trực tuyến.

Cấu trúc của luận án

Ngoài Dẫn nhập, phần Kết luận, nội dung luận án gồm 4 chương:

Chương 1 của bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về tiếng Việt thế kỷ XVII thông qua việc nghiên cứu Từ điển ALL Bài viết giới thiệu tác giả và nội dung của Từ điển ALL, đồng thời trình bày các lý thuyết cần thiết để nhận diện đặc điểm ngữ âm và chữ viết của tiếng Việt trong giai đoạn này Những khái niệm quan trọng được đề cập sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn về sự phát triển và biến đổi của tiếng Việt trong thế kỷ XVII.

Luận án tập trung vào các khái niệm như âm vị, âm vị học, ngữ âm học và các loại từ vựng như từ cổ, từ lịch sử, từ dân tộc, từ địa phương, từ nghề nghiệp, từ đa nghĩa và từ đồng âm Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến ngữ pháp với các loại từ, cấu trúc ngữ và cấu trúc câu Ngoài ra, luận án trình bày lý thuyết về từ điển học, bao gồm cấu trúc vĩ mô và vi mô của từ điển, cùng với các khái niệm mục từ, mục từ đầu mục và mục từ con Chúng tôi xác định khả năng và mức độ phản ánh đặc điểm của ngôn ngữ trong từ điển, từ đó phác thảo bức tranh đồng đại của tiếng Việt thế kỷ XVII.

Chương 2: Đặc điểm ngữ âm và chữ viết tiếng Việt thế kỷ XVII qua cứ liệu

Trong chương này, chúng tôi phân tích và chứng minh đặc điểm ngữ âm và chữ viết tiếng Việt thế kỷ XVII dựa trên dữ liệu từ Từ điển ALL.

Chương 3: Đặc điểm từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt thế kỷ XVII qua cứ liệu

Trong chương này, chúng tôi phân tích và chứng minh các đặc điểm ngữ nghĩa của từ vựng tiếng Việt thế kỷ XVII, được thể hiện rõ nét qua Từ điển ALL.

Chương 4 tập trung vào việc phân tích đặc điểm ngữ pháp tiếng Việt thế kỷ XVII thông qua tài liệu từ Từ điển ALL Chúng tôi sẽ trình bày lý luận và minh chứng cụ thể để làm rõ những nét đặc trưng của ngữ pháp trong giai đoạn này.

Luận án không chỉ bao gồm bốn chương chính mà còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục dài 134 trang Phụ lục này chứa đựng nguồn ngữ liệu khảo cứu, bảng đính chính của Alexandre de Rhodes cùng với các thông tin nghiên cứu liên quan, bảng thống kê các hình thức chữ viết khác nhau giữa Từ điển ALL và Từ điển tiếng Việt hiện đại, cũng như các lớp từ và cấu trúc ngữ của tiếng Việt thế kỷ XVII Đặc biệt, chúng tôi đã tổng hợp toàn bộ các mục từ trong Từ điển ALL thành một bảng từ 173 trang, được sắp xếp theo thứ tự chữ cái tiếng Việt, giúp người nghiên cứu dễ dàng tra cứu bất kỳ mục từ tiếng Việt nào được ghi lại.

Chúng tôi sẽ giới thiệu phụ lục của luận án vào dịp khác do quy định của nhà trường về giới hạn số trang.

TỔNG QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ cuối thế kỷ XIX, nghiên cứu tiếng Việt lịch sử đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước, mang lại những thành tựu đáng kể Đặc biệt, việc nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ XVII trở nên thuận lợi hơn nhờ sự ra đời của chữ Quốc ngữ và sự xuất bản của Từ điển ALL.

1651 tại Roma và cũng kể từ khi chữ Quốc ngữ được sử dụng như một thứ chữ là của dân tộc

Người tiên phong trong nghiên cứu tiếng Việt lịch sử, đặc biệt là tiếng Việt thế kỷ XVII, là học giả người Pháp Henri Maspéro, người đã tiến hành nghiên cứu các phụ âm đầu của tiếng Việt trung đại vào năm 1912 Tiếp nối công trình này, vào năm 1961-1962, Nguyễn Khắc Kham đã thực hiện nghiên cứu “Lược sử công trình biên soạn từ điển Việt ngữ từ thế kỷ XVII” thông qua khảo sát Từ điển ALL.

Năm 1968, Thanh Lãng đã nghiên cứu “Âm vị học Việt Nam theo thiên ‘Sơ thảo tiếng An Nam’”; “Cú pháp Việt Nam theo thiên Sơ thảo tiếng An Nam”;

Ngôn ngữ hình thái học theo thiên "Sơ thảo tiếng An Nam" đã mang đến cái nhìn tổng quát về ngữ pháp tiếng Việt thế kỷ XVII, được trình bày trong phần đầu của quyển sách.

Từ điển ALL của Alexandre de Rhodes nêu rõ các nguyên tắc mà ông đã đề ra và cung cấp nhiều ví dụ minh họa Mặc dù công trình này có giá trị đáng kể trong lĩnh vực sử học, nhưng nó cũng góp phần quan trọng vào việc phát triển ngôn ngữ và văn hóa.

Gregerson (Kenneth J) đã tiếp tục nghiên cứu hệ thống âm vị của tiếng Việt trung đại thông qua Từ điển ALL vào năm 1969 Công trình của ông đã mở ra hướng đi mới cho các nghiên cứu và khám phá về mặt ngữ âm trong tiếng Việt.

Tiếp theo sau là hai học giả người Pháp là Haudricourt A.G (1974) và

M.Ferlus (1981) đã nghiên cứu về tiếng Việt lịch sử và đã đưa ra những giải thích về quy luật phát triển của chúng

Nhiều tác giả đã nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ XVII, như Trần Xuân Ngọc Lan (1981-1991), Đinh Văn Đức (1983), Hoàng Dũng (1991), Hoàng Thị Châu (1993), Shimizu Masaaki (1994), Lý Toàn Thắng, Võ Xuân Quế, và Lê Thanh Kim (1997), cùng Phạm Ngọc Thưởng (1997) Mỗi tác giả đã khảo sát chuyên sâu về các khía cạnh ngôn ngữ, đóng góp những giá trị quan trọng trong việc hiểu rõ đặc điểm ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của tiếng Việt trong giai đoạn này.

Từ năm 1994-1995, Nguyễn Thị Bạch Nhạn đã nghiên cứu và công bố nhiều công trình về chữ quốc ngữ và đặc biệt là chữ Quốc ngữ của tiếng Việt thế kỷ XVII, bao gồm các tác phẩm như "Chữ quốc ngữ trong từ điển Việt-Bồ-La" và "Sự biến đổi các hình thức chữ Quốc ngữ từ 1620 đến 1877." Đến năm 1997 và 1998, Nguyễn Tài Cẩn đã sử dụng ngữ liệu từ Từ điển ALL để làm cơ sở cho "Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt" và phân kỳ lịch sử tiếng Việt trong "Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt," giúp người đọc hiểu rõ hơn về đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt thế kỷ XVII.

Nguyễn Thị Phương Trang (1999) đã thực hiện nghiên cứu về hệ thống vần cái trong tiếng Việt, với công trình mang tên “Hệ thống vần cái tiếng Việt trong lịch sử và hoạt động chức năng của chúng” (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn) Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về đặc điểm của vần cái tiếng Việt thế kỷ XVII, kèm theo các chứng cứ từ Từ điển ALL, giúp người đọc hiểu rõ hơn về cấu trúc âm tiết tiếng Việt.

Nguyễn Ngọc San (2003) trong tác phẩm “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử” và Nguyễn Thiện Giáp cùng các tác giả khác (2005) trong “Lược sử Việt ngữ học” đã thực hiện nghiên cứu tổng quan về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của tiếng Việt lịch sử Những nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về đặc điểm của tiếng Việt thế kỷ XVII, một phần dựa trên Từ điển ALL.

Tác giả có công trình nghiên cứu về từ vựng tiếng Việt thế kỷ XVII dựa trên

Từ điển ALL đã được Vương Lộc (2010) nghiên cứu trong công trình Từ điển từ cổ, tập trung vào các từ vựng hiện có trong từ điển này mà hiện nay đã không còn, thay đổi nghĩa hoặc mất nghĩa Bên cạnh đó, Lê Trung Hoa cũng có nhiều công trình nghiên cứu từ năm 1999 đến 2016, trong đó nổi bật là bài viết “Nhận xét về cách dùng các từ: ‘được’, ‘bị’”, góp phần làm rõ hơn về ngữ nghĩa và cách sử dụng từ trong tiếng Việt.

Nghiên cứu về từ vựng tiếng Việt thế kỷ XVII đã được đóng góp bởi nhiều tác giả, trong đó có việc phân tích các từ như ‘mắc’ và ‘chịu’ trong các văn bản từ thế kỷ XVII Bên cạnh đó, cuốn "Dictonarium Annammiticum, Lusitanum et Latinum" (1651) của A de Rhodes cũng đã giúp tìm hiểu các thành tố mất nghĩa trong từ ghép Ngoài ra, việc khảo sát các phụ từ chẳng (chăng) và không trong các văn bản từ thế kỷ XV đến nay cũng góp phần làm rõ đặc điểm ngôn ngữ thời kỳ này Bùi Thị Hải cũng đã có những đóng góp đáng kể thông qua luận văn Thạc sĩ của mình vào năm 2023.

Năm 2000, nghiên cứu về sự biến đổi ngữ nghĩa của từ Hán Việt trong từ điển Việt-Bồ-La của A.de Rhodes đã đóng góp quan trọng cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi Gần đây, Lê Văn Dũng (2016) đã thực hiện luận văn Thạc sĩ với chủ đề “Một số trường hợp biến đổi ngữ âm chính tả đồng thời biến đổi nghĩa từ Từ điển Việt-Bồ-La đến nay”.

Đóng góp quan trọng về nghiên cứu lịch sử từ vựng tiếng Việt, đặc biệt từ thế kỷ XVII, không thể không nhắc đến công sức của Vũ Đức Nghiệu trong các công trình của ông (1986, 2010) Một trong những công trình nổi bật là “Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt” (2011), đã hỗ trợ đáng kể cho nghiên cứu của chúng tôi.

Công trình "Lịch sử tiếng Việt" của Trần Trí Dõi năm 2011 đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của Từ điển ALL như một mốc lịch sử thiết yếu trong nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ XVII Ông khẳng định rằng việc tham khảo Từ điển ALL là cần thiết cho việc hiểu biết sâu sắc về lịch sử tiếng Việt.

Cuốn Từ điển Việt-Bồ-La chứa đựng tư liệu phong phú và quý giá, tuy nhiên, cho đến nay, nguồn tư liệu này vẫn chưa được khai thác triệt để trong nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ, ngoại trừ công trình xác định hệ thống âm vị tiếng Việt - Trung cổ của nhà nghiên cứu K.J Gregerson vào năm 1969.

Lược sử tiếng Việt - các thời kỳ và đặc điểm

Tiếng Việt được quy định là ngôn ngữ quốc gia (Điều 5, Hiến pháp, 2013)

Tiếng Việt có một lịch sử phong phú, phát triển trong bối cảnh đa ngôn ngữ và đa sắc tộc của Việt Nam Các nhà ngôn ngữ học đã phân chia tiếng Việt thành nhiều thời kỳ khác nhau, dựa trên các tiêu chí cụ thể để nghiên cứu sự tiến hóa của ngôn ngữ này.

H Maspéro (1912) là một trong những nhà ngôn ngữ học quan trọng trong việc phân kỳ lịch sử tiếng Việt thành năm giai đoạn Đầu tiên, tiếng tiền Annam (proto-annamite) xuất hiện trước khi hình thành Hán - Việt Tiếp theo là tiếng Annam cổ xưa (annamite archaique), đánh dấu sự hoàn thiện của Hán - Việt từ thế kỷ X Giai đoạn tiếng Annam cổ (annamite ancien) diễn ra vào thế kỷ XV, khi từ vựng Trung Quốc - Việt được ghi nhận với độ chính xác cao Tiếng Annam trung cổ (annamite moyen) được thể hiện qua cuốn từ điển Việt-Bồ-La của cha cố A de Rhodes vào năm 1651 Cuối cùng, tiếng Annam hiện đại (annamite moderne) bắt đầu từ thế kỷ XIX cho đến nay.

Cách phân kỳ ngôn ngữ của Nguyễn Tài Cẩn (1998, tr.7-12) được các nhà ngôn ngữ học quan tâm và trích dẫn nhiều Ông dựa vào tình thế ngôn ngữ, tức là mối quan hệ giữa các ngôn ngữ, kiểu văn tự và vai trò xã hội của ngôn ngữ gắn liền với lịch sử dân tộc, để phân chia 12 thế kỷ tiếng Việt thành sáu thời kỳ.

- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Hán (khẩu ngữ của lãnh đạo) và tiếng Việt

- Có 1 kiểu văn tự: chữ Hán

Vào khoảng các thế kỷ VIII, IX

Giai đoạn tiếng Việt tiền cổ

- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt (khẩu ngữ của lãnh đạo) và văn ngôn Hán

- Có 1 kiểu văn tự: chữ Hán

Vào khoảng các thế kỉ X, XI, XII

C Giai đoạn tiếng Việt cổ

- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán

- Có 2 kiểu văn tự: chữ Hán và chữ Nôm

Vào khoảng các thế kỉ XIII - XVI

Giai đoạn tiếng Việt trung đại

- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán

- Có 3 kiểu văn tự: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ

Vào khoảng các thế kỉ XVII, XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX

Giai đoạn tiếng Việt cận đại

- Có 3 ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Việt và văn ngôn Hán

- Có 4 kiểu văn tự: Pháp, Hán, Nôm, Quốc ngữ

Vào thời gian Pháp thuộc

Giai đoạn tiếng Việt hiện nay

- Có 1 ngôn ngữ: tiếng Việt

- Có 1 văn tự: chữ Quốc ngữ Từ năm 1945 trở đi

Tác giả Trần Trí Dõi (2011) đã phân chia lịch sử tiếng Việt thành bảy giai đoạn, trong đó có ba giai đoạn đầu tiên đáng chú ý Giai đoạn Mon - Khmer, cách đây khoảng 4.000 năm, là thời kỳ mà tiếng Việt nằm trong khối ngôn ngữ Mon - Khmer, chưa có thanh điệu Tiếp theo là giai đoạn tiền Việt - Mường (khoảng 1.000 năm trước Công nguyên đến đầu Công nguyên), khi tiếng Việt bắt đầu tách ra khỏi nhóm Đông Mon - Khmer, vẫn chưa có thanh điệu và bảo lưu các đặc điểm ngữ âm như đối lập hữu thanh/vô thanh Cuối cùng, giai đoạn Việt - Mường cổ (thế kỷ I đến VII-VIII sau Công nguyên) diễn ra trong bối cảnh Việt Nam bị đô hộ bởi phong kiến phương Bắc, dẫn đến sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tiếng Hán và chữ Hán lên tiếng Việt.

Thời kỳ ngữ âm, từ vựng và cấu tạo từ tiếng Việt đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển Từ thế kỷ X đến XIV, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ phổ biến, với chữ Hán là chữ viết chính, mặc dù chữ Nôm đã xuất hiện Trong giai đoạn này, tiếng Việt - Mường chung đã hoàn thiện 6 thanh điệu và hình thành lớp từ Hán Việt Đến khoảng đầu thế kỷ XIV, chữ Nôm khẳng định vai trò trong văn học, với lớp từ Hán Việt lớn và ổn định Giai đoạn tiếng Việt trung cổ (cuối thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX) đánh dấu sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ và từ điển A de Rhodes, phản ánh sự tiếp xúc với ngôn ngữ châu Âu Từ nửa cuối thế kỷ XIX, tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tiếng Pháp, và sau khi giành độc lập năm 1945, trở thành ngôn ngữ chính thức của Việt Nam, với vốn từ vựng phong phú phục vụ cho mọi lĩnh vực của đời sống.

Dựa trên các nghiên cứu trước đây của các nhà ngôn ngữ học, chúng tôi tóm tắt lịch sử tiếng Việt nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan và tạo nền tảng cho việc khảo sát “tiếng Việt thế kỷ XVII”.

Các vấn đề liên quan đến từ điển

Nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ XVII thông qua dữ liệu từ Từ điển ALL cho thấy nhiều vấn đề lý thuyết quan trọng trong lĩnh vực từ điển học.

Khi biên soạn từ điển, việc lập bảng từ và sắp xếp chúng theo thứ tự, thường là theo chữ cái, là vấn đề tiên quyết Cấu trúc này được gọi là cấu trúc vĩ mô, tạo nên mối quan hệ dọc xuyên suốt từ đầu đến cuối từ điển, khác với cấu trúc vi mô, là cấu trúc mục từ có mối quan hệ ngang Viện Ngôn ngữ học (1997, tr.26) đã định nghĩa rõ ràng về cấu trúc vĩ mô và vi mô trong từ điển.

Cấu trúc vĩ mô (macrostructure) là tổng thể các mục từ được sắp xếp theo một trật tự nhất định trong từ điển, còn được gọi là cấu trúc tổng thể hay cấu trúc bảng từ Khái niệm này liên quan chặt chẽ đến cấu trúc vi mô (microstructure), là cách trình bày hệ thống thông tin trong mỗi mục từ.

Tổ chức trong một số cuốn từ điển thường bị phi cấu trúc hoá do nhiều lí do, khiến các thành phần của cấu trúc vi mô không nằm trong cấu trúc vĩ mô Một số nhà nghiên cứu từ điển cho rằng không thể yêu cầu tính cấu trúc trong bảng từ rõ ràng như trong một hệ khép kín, vì từ vựng của ngôn ngữ là một tập hợp mở với số lượng đơn vị lớn và thường xuyên biến động Do đó, cấu trúc bảng từ phản ánh sự biến đổi của cấu trúc từ vựng trong ngôn ngữ.

Trước hết, trong cấu trúc vĩ mô của từ điển ta không thể bỏ qua khái niệm mục từ

Mục từ là các đơn vị trong bảng từ, bao gồm danh mục từ được xử lý trong từ điển Đây là tổng thể các từ đầu mục, được phân biệt bằng kiểu chữ riêng và sắp xếp theo sơ đồ thường thấy trong từng loại từ điển (Nguyễn Thiện Giáp, 2016a, tr.280).

Khi biên soạn từ điển tiếng Việt, các nhà làm từ điển thường gặp khó khăn trong việc phân định ranh giới giữa từ và hình vị, từ kép và tổ hợp từ, cũng như giữa tổ hợp từ cố định và tự do (Viện Ngôn ngữ học & Trung tâm Từ điển học, 2008, tr.240) Quan niệm về các đơn vị mục từ trong từ điển không dễ thống nhất; L.Zgusta cho rằng hầu hết các mục từ là đơn vị từ vựng (Nguyễn Đức Tồn, 2016, tr.29) Dù cơ sở của đơn vị trong từ điển chủ yếu là từ, vẫn cần ghi nhận sự tồn tại của những “đơn vị lớn hơn từ” và “đơn vị nhỏ hơn từ.” Đây là thực tế mà các nhà nghiên cứu gặp nhiều khó khăn khi khảo sát các mục từ trong Từ điển ALL.

Có thể nói, đơn vị mục từ trong cấu trúc vĩ mô của từ điển bao gồm các dạng:

Từ được định nghĩa là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức Định nghĩa này bao gồm hai vấn đề cơ bản: khả năng tách biệt của từ và tính hoàn chỉnh của từ Những từ điển mà các đơn vị mục từ đáp ứng khái niệm này sẽ hỗ trợ việc nghiên cứu một cách hiệu quả hơn.

Mục từ là “đơn vị lớn hơn từ” bao gồm các đơn vị như từ ghép có yếu tố không độc lập, từ ghép với ý nghĩa khác so với các thành tố độc lập, tổ hợp định danh mang nội dung khái niệm xác định, và những cụm từ có tần suất sử dụng cao mà chưa có nghĩa tổng hợp Ngoài ra, còn có các tổ hợp mang tính thành ngữ và các cấu trúc ngữ pháp tạo ra ngữ nghĩa mới trong câu Những ví dụ điển hình như “nhà giáo nhân dân”, “yêu quý”, “cao chạy xa bay”, hay “nói đi nói lại” minh họa cho sự đa dạng và phong phú của các đơn vị ngôn ngữ này.

Mục từ là “đơn vị nhỏ hơn từ”, bao gồm các yếu tố có sức sản sinh cao như bất (bất diệt, bất nghĩa, bất tri, bất tri nghĩa, bất sinh), vô (vô đạo, vô hồi, vô nhị, vô sự, vô thỉ vô chung, vô thường), và vi (vi khuẩn, vi tính, siêu vi) Ngoài ra, còn có những yếu tố không có nghĩa độc lập nhưng thường xuất hiện trong các tổ hợp, ví dụ như ngát (bát ngát, ngan ngát) và địa (địa bàn, địa hoàng, địa lí, địa ngục, địa phủ).

Phần hạt nhân quan trọng nhất trong cấu trúc vĩ mô của từ điển giải thích là phần giải thích nghĩa của mỗi mục từ Từ điển ALL không chỉ là từ điển đối chiếu đa ngữ mà còn mang tính chất của một từ điển giải thích Đặc biệt, ngôn ngữ giải thích trong Từ điển ALL là ngôn ngữ được đối chiếu, điều này làm cho phần trung tâm của cấu trúc vĩ mô trở nên phức tạp hơn.

Về cấu trúc vi mô của từ điển, Chu Thị Bích Thu và Đào Thản đã chỉ ra những yếu tố quan trọng trong từ điển học Chu Thị Bích Thu liệt kê 13 yếu tố thông tin như chính tả, ngữ âm, từ loại, phong cách, phạm vi sử dụng, khả năng kết hợp, ngữ dụng, đồng nghĩa - trái nghĩa, trong khi Đào Thản tóm tắt thành 5 yếu tố chính bao gồm ngữ âm – chữ viết, ngữ pháp, nghĩa, từ vựng và tu từ Lý Toàn Thắng (2012) cũng đã có những quan điểm riêng về vấn đề này.

Trong lịch sử châu Âu, từ điển ra đời như một "cẩm nang" giúp tra cứu các từ "khó" nhằm hỗ trợ việc đọc hiểu văn bản Các từ khó này thường được giải thích qua những định nghĩa đơn giản hoặc bằng từ đồng nghĩa thông dụng, tạo nên kiểu từ điển "thụ động" phục vụ cho việc "hiểu" nghĩa từ.

Từ điển ALL, được ra đời vào thế kỷ XVII, nhằm phục vụ cho việc truyền đạo của các giáo sĩ châu Âu, có thể coi là một loại từ điển đa ngữ Nó không chỉ giúp người học tiếng mà còn cung cấp giải thích cho các từ khó, đáp ứng nhu cầu tra cứu và học tập hiệu quả.

Các thành phần trong cấu trúc vi mô của Từ điển ALL bao gồm:

Từ điển Khái niệm Ngôn ngữ học của Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa từ đầu mục (lemma) là đề mục chỉ ra chủ đề giải thích trong từ điển (2016a, tr.549) Trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (2003), mỗi mục từ được tách biệt bằng một lần xuống dòng và chỉ có một từ đầu mục in đậm, kèm theo các thông tin, giải thích và ví dụ ngữ cảnh Ngược lại, Từ điển ALL (bản gốc) cho phép mỗi mục từ có thể có nhiều hơn một từ đầu mục, như ví dụ ở mục từ thứ hai với “ác, dữ” và mục từ thứ tư với “ác, thâm” Điều này cho thấy sự đa dạng trong cách trình bày từ điển, với khả năng có một hoặc nhiều từ đầu mục trong mỗi mục từ.

Trong mục từ thứ hai "ác, dữ" ở hình 1.1, bên cạnh phần giải thích đối chiếu, còn có các mục từ con được giải thích và đối chiếu, như "ác tâm, ác ý, ác nghiệt" So với hình 1.2 của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, các từ này được tách thành các mục từ riêng biệt, cho thấy sự khác biệt trong cách tổ chức và trình bày từ vựng giữa hai từ điển.

Hình 1.1 Cột 1 và 2 nguyên bản Từ điển ALL, 1651

Hình 1.2 Trang 2, Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, Nxb Đà Nẵng, 2003

Những vấn đề liên quan đến nghiên cứu ngữ âm lịch sử

1.4.1 Ngữ âm học và âm vị học

Nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ XVII và sự phát triển ngữ âm từ đó đến nay yêu cầu người nghiên cứu phân biệt giữa ngữ âm học và âm vị học Việc hiểu rõ những khác biệt này là cần thiết để nắm bắt các khái niệm liên quan trong quá trình nghiên cứu.

Ngữ âm học (phonetics), âm tố (phone), âm vị (phoneme) và âm vị học (phonology) là những khái niệm quan trọng trong lĩnh vực ngôn ngữ học, đã được nhiều tác giả nghiên cứu và biên soạn, như Cao Xuân Hạo (1998), Nguyễn Như Ý (1998), và Đoàn Thiện Thuật (1999) Chúng tôi lựa chọn theo Nguyễn Thiện Giáp (2016a) trong tác phẩm Từ điển khái niệm Ngôn ngữ học vì công trình này cung cấp một cách tiếp cận rõ ràng và sâu sắc về các khái niệm trên.

“hệ thống khái niệm ngôn ngữ học” chứ không xuất phát từ “hệ thống thuật ngữ ngôn ngữ học” như các nhà nghiên cứu trước đã làm

Ngữ âm học là bộ môn nghiên cứu âm thanh của ngôn ngữ, bao gồm hai mặt: mặt tự nhiên và mặt xã hội Mặt tự nhiên liên quan đến các thuộc tính âm học như cao độ, trường độ, âm sắc, cùng với các thuộc tính cấu âm từ hoạt động của bộ máy hô hấp và các cơ quan phát âm Trong khi đó, mặt xã hội đề cập đến các quy định và giá trị mà cộng đồng ngôn ngữ gán cho các đặc trưng âm thanh Ngữ âm học nghiên cứu toàn bộ phương tiện ngữ âm, các hình thái và chức năng của nó, cũng như mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết trong ngôn ngữ.

Âm tố (phone) là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất trong ngữ âm học, liên quan đến cấu âm và thính giác Nó đại diện cho những âm riêng biệt trong chuỗi lời nói, mỗi âm có sự khác biệt về vị trí và phương thức cấu âm Khi nghe, chúng ta tiếp nhận những âm này như một chuỗi liên tiếp, mỗi âm tố mang một đặc điểm riêng biệt (Nguyễn Thiện Giáp, 2016a, tr 48)

Liên hệ giữa âm tố và âm vị được Đoàn Thiện Thuật phân tích qua ngữ âm học, cho thấy rằng âm tố được tổ chức thành các đơn vị ngữ âm khu biệt, gọi là âm vị Âm tố thể hiện các cách phát âm khác nhau của âm vị.

Âm vị được định nghĩa là đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống biểu đạt âm thanh của ngôn ngữ, thể hiện một tổng thể các nét khu biệt đồng thời (Đoàn Thiện Thuật, 1999, tr 47)

Cao Xuân Hạo cho rằng âm vị cần được hiểu là một “âm đoạn”, với các nét khu biệt phải được “thực hiện đồng thời” Điều này có nghĩa là các đặc điểm này phải được gói gọn trong một âm đoạn duy nhất.

Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất trong một ngôn ngữ, có khả năng phân biệt ý nghĩa của hai từ Các âm tố trong lời nói khác nhau về nhiều khía cạnh như vị trí cấu âm, phương thức cấu âm, và tính chất âm thanh Tuy nhiên, chỉ một số âm có giá trị khu biệt, nghĩa là chúng được sử dụng để phân biệt các từ trong ngôn ngữ Ví dụ, trong tiếng Việt, sự khác biệt giữa các âm như /b/ và /m/, /i/ và /e/, hay /n/ và /t/ có giá trị khu biệt; việc thay thế một âm này bằng âm khác sẽ làm thay đổi nghĩa của từ, như trong các ví dụ bà – mà, tin – têm, tan – tát Những âm không khu biệt thuộc cùng một âm vị được gọi là biến thể âm vị.

Âm hệ học là một lĩnh vực ngôn ngữ học nghiên cứu các hệ thống âm của các ngôn ngữ Trong khi ngữ âm học tập trung vào bản chất ngữ âm của âm tố, âm vị học lại khám phá cách thức hoạt động của các âm tố trong ngôn ngữ Khái niệm nguyên tắc âm vị đóng vai trò trung tâm trong âm hệ học, giúp các nhà ngôn ngữ học phân tích hệ thống âm một cách hiệu quả Nguyên tắc này cho thấy các âm trong một ngôn ngữ không chỉ là tập hợp ngẫu nhiên mà là một hệ thống có trật tự rõ ràng.

Âm vị học và âm hệ học là hai lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ có sự khác biệt Trong khi âm hệ học tập trung vào việc phân tích âm thanh trong cả hai giai đoạn đồng đại và lịch đại, âm vị học chủ yếu được áp dụng trong nghiên cứu đồng đại theo quan điểm của các nhà cấu trúc luận Mỹ.

Sự phân biệt giữa ngữ âm học và âm vị học dựa trên lưỡng phân của F de Saussure về ngôn ngữ và lời nói Ngữ âm thuộc về lời nói, mang tính vô hạn và biến đổi theo hoàn cảnh, thời gian và không gian Ngược lại, ngôn ngữ là thiết chế xã hội, có tính ổn định cao và xác định tộc người của quốc gia Ngữ âm phản ánh bản chất âm thanh chung của tiếng nói, trong khi âm vị là hệ thống âm thanh đặc thù của một cộng đồng cụ thể.

Bảng 1.2 Tiêu chí phân biệt ngữ âm học và âm vị học

Tiêu chí Ngữ âm học Âm vị học

1 Đơn vị - Âm tố (vô hạn) - Âm vị (hữu hạn, đếm được)

2 Phương pháp Khoa học tự nhiên Khoa học xã hội

- Phi quan điểm lịch sử (Tính hợp lí và logic)

- Quan điểm lịch sử (Cái tồn tại là cái có lí)

4 Phạm vi - Cơ chế tạo âm thanh

- Hệ thống âm thanh (một tộc người)

Nghiên cứu diện mạo ngôn ngữ trong một giai đoạn yêu cầu sự liên kết giữa ngữ âm học và âm vị học Để phân biệt các giọng nói khác nhau trong từng vùng của một quốc gia, cần áp dụng kiến thức về ngữ âm học và có thái độ âm vị học, nhằm phân tích sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng giữa các địa phương.

1.4.2 Mối liên hệ giữa âm và chữ

Chữ viết đã phát triển không ngừng và đóng vai trò quan trọng trong các cộng đồng ngôn ngữ, góp phần hoàn thiện và thống nhất ngôn ngữ Nhiều người nhầm tưởng rằng chữ viết là hệ thống quy phạm của ngôn ngữ, dẫn đến việc họ tin tưởng vào chữ viết hơn lời nói F de Saussure từng nhấn mạnh rằng "Chữ viết tự gán cho mình một tầm quan trọng mà nó không đáng có." Thực tế, chữ viết ra đời từ nhu cầu của con người và trải qua quá trình phát triển lâu dài, trong khi lời nói xuất hiện tự nhiên cùng với lịch sử xã hội Con người cần thể hiện lời nói qua các ký tự để lưu giữ và truyền đạt thông tin, từ đó dẫn đến sự ra đời của chữ viết.

Trong thời đại văn minh và tiến bộ khoa học, việc không biết chữ thường bị xem là lạc hậu Tuy nhiên, không biết chữ không đồng nghĩa với việc mất tất cả, vì ngôn ngữ nói không phụ thuộc hoàn toàn vào chữ viết Một người lớn lên trong cộng đồng ngôn ngữ sẽ biết nói, nhưng nếu không biết nói hoặc nói ngọng, họ có thể gặp vấn đề về sức khỏe Ngược lại, một người biết nói mà không biết chữ vẫn có thể là người bình thường và có khả năng học chữ nếu có cơ hội Tuy nhiên, việc không biết chữ sẽ hạn chế khả năng hiểu biết và tiếp thu tri thức của họ.

Nói là khả năng bẩm sinh, trong khi viết là sản phẩm của sự sáng tạo, xuất hiện sau để đại diện cho lời nói Chữ viết không chỉ là công cụ hỗ trợ mà còn bảo tồn lời nói, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa hai hình thức này Khi nói đến ngôn ngữ, người ta thường nghĩ đến cả nói và viết, nhưng thực tế, ngôn ngữ và chữ viết là hai khái niệm khác biệt; một người có thể không biết chữ nhưng vẫn có thể sử dụng ngôn ngữ.

Những vấn đề liên quan đến nghiên cứu từ vựng lịch sử

Từ là đơn vị ngôn ngữ chính trong từ điển, chứa đựng thông tin về ngôn ngữ, lịch sử và cấu trúc của nó Ngoài ra, từ còn phản ánh các yếu tố xã hội và tâm lý Theo cách nhìn hiện đại, từ được coi là một đơn vị thông tin đặc biệt Tập hợp tất cả các đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ tạo thành từ vựng của ngôn ngữ đó.

F de Saussure đã chỉ ra rằng từ là một đơn vị trung tâm trong cấu trúc ngôn ngữ, mặc dù khó định nghĩa Khó khăn trong việc định nghĩa từ xuất phát từ sự khác biệt về hình thức, chức năng và đặc điểm ý nghĩa của chúng Một số từ có chức năng định danh, trong khi những từ khác như số từ, trợ từ hay thán từ không có chức năng này Ngoài ra, có từ biểu thị khái niệm, nhưng cũng có từ không, cùng với hiện tượng đồng âm và đa nghĩa gây khó khăn trong việc phân loại từ Do đó, việc thống nhất trong định nghĩa và mô tả từ là một thách thức lớn Nhiều định nghĩa về từ đã được đưa ra trong nghiên cứu ngôn ngữ.

Nguyễn Văn Tu (1968, tr.33-34) định nghĩa từ là đơn vị cơ bản và chủ yếu trong ngôn ngữ, có khả năng vận dụng độc lập với nghĩa từ vựng và ngữ pháp Từ được coi là đơn vị trung tâm vì nó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của một đơn vị ngôn ngữ cơ bản và đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống ngôn ngữ.

Theo Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến (1990, tr.170), từ được định nghĩa là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa, sở hữu cấu trúc âm thanh bền vững và hoàn chỉnh Từ có chức năng gọi tên, có thể sử dụng độc lập và được tái hiện linh hoạt trong lời nói để hình thành câu.

Theo Từ điển Khái niệm Ngôn ngữ học của Nguyễn Thiện Giáp (2016), từ được định nghĩa là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, có ý nghĩa và hình thức độc lập Quan niệm này nhấn mạnh các đặc điểm chung về hình thức và ngữ nghĩa mà các nhà nghiên cứu đã thống nhất.

- Là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa;

- Có khả năng vận dụng độc lập;

- Có thể tái hiện tự do trong lời nói;

- Và là những đơn vị thực tại hiển nhiên trong mọi ngôn ngữ

Nguyễn Thiện Giáp (2016a) đã chỉ ra hai vấn đề quan trọng của từ, bao gồm khả năng tách biệt và tính hoàn chỉnh của từ Những vấn đề này phản ánh mối quan hệ giữa từ, tiếng và hình vị, một quan điểm đã được nhiều nhà Việt ngữ học như Nguyễn Văn Tu (1968), Đỗ Hữu Châu (1997, 1998) và Cao Xuân Hạo nghiên cứu.

(1999), Hoàng Tuệ (2001),… đã bàn luận trước đây

Nghiên cứu từ vựng tiếng Việt thế kỷ XVII là một nghiên cứu về vốn từ vựng đồng đại, nhằm miêu tả trạng thái tĩnh của tiếng Việt trong một giai đoạn lịch sử cụ thể Điều này bao gồm việc phân tích các đơn vị từ vựng ổn định mà xã hội đã công nhận Người nghiên cứu cần phải đóng vai trò của một người sống ở thế kỷ XVII để hiểu rõ diện mạo của tiếng Việt thời kỳ đó, đồng thời cũng phải nhìn nhận từ góc độ của người nghiên cứu hiện đại Do đó, việc sử dụng các khái niệm như từ cổ, từ lịch sử, và từ địa phương cần được cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình nghiên cứu.

1.5.2 Phân biệt từ đồng âm và từ đa nghĩa

Các nhà biên soạn từ điển nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân biệt giữa từ đồng âm (homonyms) và từ đa nghĩa (polyseme) trong quá trình biên soạn và khảo sát từ điển Việc lẫn lộn hai khái niệm này có thể ảnh hưởng đến cách sắp xếp các đơn vị mục từ và cấu trúc nghĩa của từng từ Từ điển Khái niệm Ngôn ngữ học đã đề cập đến vấn đề này để làm rõ hơn về hai khái niệm quan trọng này.

Từ đồng âm (homonyms) là những từ có âm thanh giống nhau nhưng mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, bao gồm cả việc trùng lặp về chữ viết trong mọi hình thái ngữ pháp Tiếng Việt là một ngôn ngữ không biến hình, vì vậy tất cả các từ đều là từ đồng âm hoàn toàn Ví dụ, từ "lợi" có thể chỉ phần thịt quanh chân răng hoặc cái có ích mà con người thu được.

Từ đa nghĩa (polyseme) là từ có hai hoặc nhiều ý nghĩa liên quan chặt chẽ với nhau, ví dụ như từ “bám” trong các cụm từ như “đỉa bám chân” (tự giữ không rời), “bám sát” (không rời một chút nào), và “ăn bám” (dựa vào người khác để tồn tại) Trong khi đó, đồng âm là những từ có âm thanh giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, như cưa (danh từ) và cưa (động từ) Việc phân biệt giữa từ đa nghĩa và đồng âm liên quan đến nguồn gốc từ, nhưng việc xác định nguồn gốc từ không phải lúc nào cũng dễ dàng Do đó, quan niệm về từ đa nghĩa là hợp lý, nhưng cách nhìn nhận về từ đồng âm cần được xem xét một cách toàn diện hơn.

Việc phân biệt từ đồng âm và từ đa nghĩa còn liên quan đến hiện tượng chuyển loại từ Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp chuyển loại đều tạo ra hiện tượng đồng âm; chỉ những từ có tính độc lập cao khi chuyển loại mới dẫn đến sự phân biệt này.

Nhận diện đặc điểm từ vựng của một giai đoạn lịch sử trong một quyển từ điển yêu cầu người nghiên cứu phân biệt rõ hai loại từ Đồng thời, cần nhận diện quy cách phân biệt hai loại từ này mà tác giả biên soạn đã áp dụng.

1.5.3 Phân biệt từ cổ và từ lịch sử

Từ ngữ cổ trong tiếng Việt không chỉ là những từ có tuổi đời lâu, mà là những từ đã được sử dụng trong các tài liệu cổ và hiện nay ít được sử dụng Chúng được xem là "cổ" không phải vì thời gian xuất hiện mà vì ý nghĩa và phạm vi sử dụng đã trở nên hạn chế.

Trên cơ sở kế thừa những cách định nghĩa của các nhà Việt ngữ học như Nguyễn Văn Tu (1968, tr.171); Nguyễn Thiện Giáp (1998, tr.278); Vương Lộc

(2011, tr.2), chúng tôi tổng hợp lại như sau:

Từ ngữ cổ là những từ đã từng tồn tại nhưng hiện nay không còn phổ biến trong ngôn ngữ hàng ngày, hoặc chỉ xuất hiện trong các cấu trúc ngôn ngữ hạn chế Chúng thuộc lớp từ ngữ cũ, không bao gồm từ ngữ lịch sử hay điển tích, điển cố Những từ này biểu thị các đối tượng mà hiện nay trong tiếng Việt đã có từ đồng nghĩa tương ứng, chẳng hạn như "trốc" có nghĩa là "đầu", "đăm" là "bên phải", "chiêu" là "bên trái", và "nhin" có nghĩa là "người".

Theo khái niệm này, từ ngữ cổ được hiểu là những từ thuộc tiếng Việt thế kỷ XVII khi nhìn từ góc độ thế kỷ XXI Tuy nhiên, nếu xem xét tiếng Việt thế kỷ XVII từ cái nhìn của người đương thời, chúng ta có thể nhận diện lớp từ này như những từ ngữ đặc trưng của thời kỳ đó, hiện vẫn có từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ hiện đại Sự tồn tại của các từ đồng nghĩa này trong giai đoạn hiện nay không chỉ làm cho những từ ngữ cổ trở nên lỗi thời mà còn khẳng định đặc điểm riêng của từ ngữ thế kỷ XVII.

Những vấn đề liên quan đến nghiên cứu ngữ pháp lịch sử

Tiếng Việt, chịu ảnh hưởng của 1000 năm văn hóa chữ Hán, sử dụng hư từ (từ công cụ) thay vì dấu câu như trong chữ Việt Latinh hóa Tác giả A de Rhodes trong Từ điển ALL đã chỉ ra rằng ngữ pháp tiếng Việt dựa vào trật tự từ và hư từ Hệ thống hư từ phong phú và đa dạng là một trong những đặc điểm nổi bật của ngữ pháp tiếng Việt thế kỷ XVII Nhiều tác giả như Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn và Đinh Văn Đức đã có những định nghĩa và lý luận về hư từ tiếng Việt, trong khi Hoàng Trọng Phiến cũng đã giải thích vấn đề này trong Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt (2008).

10) đã đưa ra khái niệm về hư từ cùng một số nhận xét mà chúng tôi cũng đồng quan điểm như sau: Hư từ là một lớp từ làm phương tiện biểu hiện các quan hệ ngữ pháp… Hư từ là một tập hợp từ không lớn về số lượng trong hệ thống từ loại tiếng Việt, nhưng tần số sử dụng khá cao.Về bản chất lớp từ loại này làm công cụ biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp, với những đặc điểm sau:

 Nghĩa của hư từ gắn với cách thức tư duy và hành vi tư duy

 Hư từ tham gia kiến tạo lập luận

 Hư từ không làm trung tâm của cụm từ, của ngữ đoạn và không độc lập làm thành phần câu cũng như không độc lập tạo ra câu

Hư từ không thể tự biểu hiện sắc thái nghĩa mà chỉ thể hiện được khi kết hợp trong một cấu trúc cú pháp cụ thể và trong ngữ cảnh nhất định.

Theo Nguyễn Thiện Giáp (2016a, tr.208), hư từ (form word) là những từ không thể đứng độc lập trong câu, mà được sử dụng để thể hiện các mối quan hệ ngữ nghĩa và cú pháp giữa các thực từ Trong tiếng Việt, hư từ bao gồm liên từ, giới từ, hệ từ và trợ từ.

Trong tiếng Việt thế kỷ XVII, một số từ đã có từ tương ứng hiện nay, trong khi một số khác lại trải qua sự biến đổi về nghĩa và chức năng sử dụng.

Đoản ngữ trong tiếng Việt được định nghĩa bởi các nhà nghiên cứu ngữ pháp theo nhiều cách khác nhau Nguyễn Như Ý mô tả đoản ngữ là cụm từ chính phụ, trong đó các thành tố có sự không bình đẳng về mặt ngữ pháp, bao gồm thành tố chính và thành tố phụ (Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, 1998, tr.64) Ngoài ra, một số tác giả khác cho rằng ngữ là đơn vị ngữ pháp nằm ở bậc trung gian giữa từ và câu.

Nguyễn Tài Cẩn (1981) đã đề xuất khái niệm Đoản ngữ, được nhiều nhà Việt ngữ học, bao gồm Nguyễn Thiện Giáp (2016a, tr.164), công nhận Đoản ngữ được định nghĩa là một tổ hợp gồm một trung tâm kết nối với các thành tố phụ thông qua mối quan hệ chính phụ Đoản ngữ có ba đặc điểm nổi bật, cho thấy tính tự do trong cấu trúc của nó.

Đoản ngữ bao gồm một thành tố trung tâm và các thành tố phụ xung quanh, tạo ra mối quan hệ chính phụ để bổ sung ý nghĩa Mặc dù đoản ngữ có cấu trúc phức tạp hơn và mang ý nghĩa đầy đủ hơn so với thành tố trung tâm, nó vẫn duy trì các đặc trưng ngữ pháp của trung tâm Có ba loại đoản ngữ chính: danh ngữ với danh từ làm trung tâm, động ngữ với động từ làm trung tâm, và tính ngữ với tính từ làm trung tâm.

Ngữ là một cấu trúc ngữ nghĩa có vai trò hiện thực hóa nghĩa của chính tố Về mặt ngữ pháp, ngữ thể hiện mối quan hệ chính phụ thông qua trật tự từ, kết từ, và ngữ điệu Đặc biệt, khi phụ tố sau do thực từ đảm nhiệm, phụ tố này có khả năng trở thành một ngữ (Nguyễn Tài Cẩn, 1975, tr.107-111)

Khi nghiên cứu các cấu trúc đoản ngữ trong tiếng Việt, nhiều nhà nghiên cứu thường áp dụng mô thức do Nguyễn Tài Cẩn (1981) đề xuất Chúng tôi cũng thực hiện khảo sát các đoản ngữ tiếng Việt từ thế kỷ XVII dựa trên những mô thức này.

Tất cả/ các/ cái/ con /mèo / đen/ ấy

Thành tố phụ trước + TRUNG TÂM + thành tố phụ sau

- Thành tố phụ trước của danh ngữ có các vị trí (-3;-2;-1) tương ứng sau:

+ Yếu tố chỉ tổng thể, toàn bộ (-3): tất cả, hết thảy, toàn bộ, cả…

+ Yếu tố chỉ số lượng (-2): những, các, một, hai, ba (số từ), nghìn, ức, triệu + Định tố “cái” (-1)

- Trung tâm danh ngữ là danh từ có thể là một yếu tố nhưng cũng có thể hơn

- Thành tố phụ sau của danh từ gồm:

Yếu tố hạn định có thể được thể hiện qua nhiều từ loại khác nhau, bao gồm tính từ, động từ, danh từ, và cả đại từ xưng hô.

+ Yếu tố chỉ định: do từ loại đại từ không gian, thời gian là những từ: này, nọ, kia, ấy, đó.v.v… đảm nhiệm

Cũng / đã / không / được + V + B / cho

Thành phần phụ trước + ĐTTT + thành phần phụ sau

+ Vị trí (-4) yếu tố thời gianchỉ sự tiếp diễn tương tự của hành động: cũng, đều, vẫn, cứ, còn …

+ Vị trí (-3) chỉ quan hệ thời gian: từng, vừa, mới,… đã, đang, sẽ,…

+ Vị trí (-2) chỉ ý khẳng định phủ định: không, chưa, chẳng,…

+ Vị trí (-1) yếu tố dạng: bị, được

- Trung tâm động ngữ là động từ

+ Vị trí (1): yếu tố phụ bổ nghĩa cho động từ có thể là danh từ, danh ngữ… + Vị trí (2): vị trí sử dụng phần nhiều là các giới từ…

Thành tố phụ sau của động ngữ rất đa dạng, có thể bao gồm từ, ngữ hoặc cấu trúc chủ vị, với số lượng không giới hạn.

 Cấu trúc của tính ngữ

Rất, hơi, khá + TTTT + TPPs

TPPTr + Tính từ TT + bằng, kém, hơn

Thành tố phụ trước + trung tâm + thành tố phụ sau

+ Thành phần phụ trước: thường là các phụ từ rất, hơi, khí (khá),…

+ Trung tâm luôn luôn là tính từ

+ Thành phần phụ sau rất đa dạng

Theo tác giả Nguyễn Tài Cẩn, mô hình tổng quát của động ngữ hay tính ngữ bao gồm ba phần: thành tố phụ trước, trung tâm và thành tố phụ sau Ông chỉ ra rằng việc xác định từng yếu tố trong các thành phần này là rất khó khăn Động ngữ không thể tạo thành những đoản ngữ lý tưởng như danh ngữ và không có khả năng quy định vị trí rõ ràng cho các thành tố phụ Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc phân tích và tách bạch từng yếu tố Ông cũng lưu ý rằng các thành tố phụ có ý nghĩa từ vựng thường đứng ngay sau động từ hay tính từ trung tâm, tạo nên sự phong phú cho phần cuối của động ngữ, trong khi các từ có ý nghĩa ngữ pháp thường đứng trước và chủ yếu là từ đơn với số lượng hạn chế.

Tiểu kết

Trong chương này, chúng tôi giới thiệu tiểu sử tác giả và trình bày các khái niệm cơ bản làm nền tảng cho luận án Đối tượng nghiên cứu là đặc điểm tiếng Việt thế kỷ XVII, bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa và ngữ pháp, với tư liệu chính là cuốn từ điển của thế kỷ XVII Do đó, chúng tôi chọn lọc các khái niệm cơ sở một cách cô đọng và ngắn gọn, không đi sâu vào từng bình diện lý thuyết.

Chúng tôi nhận thấy rằng Từ điển ALL có cấu trúc vĩ mô và vi mô khác biệt so với các từ điển giải thích và đối chiếu thông thường Cấu trúc vĩ mô của Từ điển này không đồng nhất xuyên suốt, trong khi cấu trúc vi mô lại phức tạp, với các mục từ bao gồm từ đầu mục đơn lẻ, cũng như các mục từ bao gồm nhiều từ đầu mục và các mục từ con Do đó, việc thống nhất các khái niệm cơ sở như mục từ, từ đầu mục và mục từ con đã được áp dụng trong toàn bộ nội dung luận án.

Khảo cứu tiếng Việt thế kỷ XVII qua ngữ âm, chữ viết, từ vựng và ngữ pháp bằng Từ điển ALL cho thấy khả năng phản ánh chính xác của từ điển này về ngôn ngữ thời kỳ đó Dựa trên những nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã xác định được giá trị của Từ điển ALL và sẽ phát triển các bước tiếp theo trong các chương tiếp theo một cách cụ thể và rõ ràng hơn.

Chương này tập trung vào việc lược qua các thời kỳ trong "lịch sử tiếng Việt" để xác định "tiếng Việt thế kỷ XVII" từ cả góc nhìn đồng đại và lịch đại Tiếp theo, chúng tôi sẽ trình bày các khái niệm cần thiết để làm sáng tỏ các cứ liệu đã khảo cứu, nhằm xác định đặc điểm của tiếng Việt thế kỷ XVII, bao gồm âm vị, âm tố, từ, từ đa nghĩa, từ đồng âm, từ cổ, từ lịch sử, từ địa phương, từ nghề nghiệp, cũng như các khái niệm hư từ, đoản ngữ và các mô thức của các loại đoản ngữ.

CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM NGỮ ÂM VÀ CHỮ VIẾT TIẾNG VIỆT THẾ KỶ XVII QUA CỨ LIỆU TỪ ĐIỂN ANNAM - LUSITAN - LATINH

Về Từ điển ALL, Vương Lộc nhận xét (1995):

Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes, ra đời vào giữa thế kỷ XVII, là tài liệu quan trọng cho việc nghiên cứu tiếng Việt thời kỳ này Với số lượng từ vựng phong phú và việc áp dụng hệ thống chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt, cuốn từ điển đóng vai trò không thể thiếu trong việc tìm hiểu các khía cạnh ngữ âm của tiếng Việt thế kỷ XVII.

Trong "Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt", Nguyễn Tài Cẩn đã sử dụng dữ liệu từ Từ điển ALL để bắt đầu hành trình khám phá lịch sử ngữ âm, đóng góp nhiều giá trị và hữu ích cho nghiên cứu này.

Qua việc khảo cứu Từ điển ALL, chúng tôi mong muốn đóng góp những kết quả nghiên cứu về đặc điểm ngữ âm và chữ viết của tiếng Việt trong thế kỷ XVII.

Đặc điểm về chữ viết

Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành khảo sát về phần I - Báo cáo tóm tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (BCTT) và phần II - Từ điển ALL Chúng tôi sẽ phân tích nội dung và ý nghĩa của từng phần để làm rõ những điểm quan trọng liên quan đến ngôn ngữ và từ vựng trong nghiên cứu này.

II này tác giả đã có sự khác biệt trong việc miêu tả số lượng chữ cái

 Ở phần I-BCTT, trong chương I: Chữ và vần gồm trong tiếng này tác giả

Từ điển ALL đã tổng hợp 23 chữ cái cơ bản: a, b, c, d, e, f, g, h, i, k, l, m, n, o, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, x Ngoài ra, trong mục a, tác giả đã bổ sung chữ õ; mục b có thêm chữ ọ và v; mục d có chữ đ; mục e có chữ ê; mục i có chữ y; và mục o có chữ ô Như vậy, tổng cộng theo BCTT có 30 chữ cái, bao gồm: a (õ), b (ọ) (v), c, d (đ), e (ờ), f, g, h, i (y), k, l, m, n, o (ô), ơ, p, q, r, s, t, u, ư, x.

Trong Từ điển ALL, tác giả sắp xếp 23 chữ cái theo thứ tự a, b, ọ, c, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n, o, p, q, r, s, t, u, x Tuy nhiên, khi khảo sát các từ đầu mục, chúng tôi nhận thấy có sự không nhất quán: ở mục a, tác giả viết thêm ă và â với thứ tự không đồng nhất; mục e có thêm ê; mục f thì không có; mục i có thêm y và j; mục o có thêm ô, ơ, ŏ mà không theo quy tắc; và mục u có thêm ü, v, ư.

Tính đến các chữ cái ở vị trí từ đầu mục trong từ điển, tổng số chữ cái đã đạt 33, bao gồm: a (ă, õ), b, ọ, c, d, đ, e (ờ), g, h, i (y, j), k, l, m, n, o (ụ, ơ, ŏ), p, q, r, s, t, u (ỹ, v, ư), x Thêm vào đó, tác giả còn sử dụng một số chữ cái khác như: ồ, ỗ, ĕ, không nằm ở vị trí từ đầu mục nhưng thường xuất hiện trong Từ điển ALL, nâng tổng số chữ cái lên 36.

 Chúng tôi so sánh với hệ thống chữ cái trong tiếng Việt hiện nay gồm 29 chữ cái: a, ă, â, b, c, d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y qua bảng 2.1 sau đây:

Bảng 2.1 So sánh hệ thống chữ cái tiếng Việt thế kỷ XVII với hiện nay

Thời gian Nguồn Tổng số chữ cái So với hiện nay

(không giống Từ điển ALL)

Từ điển ALL 36 cú thờm ọ, j, ŏ, ỹ, (ĕ, ỗ, ồ,)

Hiện nay Từ điển tiếng

Bộ chữ cái từ thời A de Rhodes có sự khác biệt rõ rệt so với bộ chữ cái hiện nay, với bốn chữ cái ở vị trí đầu mục là ọ, j, ŏ, ỹ và các chữ cỏi ě, ỗ, ồ, chiếm 1/6 tổng số chữ cỏi trong hệ thống Sự khác biệt này sẽ dẫn đến nhiều thay đổi khác trong các nghiên cứu tiếp theo Tuy nhiên, những khác biệt này đã được tác giả Từ điển giải thích Khi nhìn nhận từ góc độ thế kỷ XVII và sự phát triển của chữ Quốc ngữ từ chữ viết Latinh, việc lý giải những khác biệt này trở nên dễ hiểu hơn.

2.1.2.1 Các trường hợp đặt dấu thanh trên âm tiết

Một số ý kiến cho rằng việc đặt dấu thanh theo Từ điển ALL sẽ giúp đơn giản hóa quy tắc đặt dấu thanh hiện tại Khảo sát từ Từ điển ALL cho thấy hầu hết âm tiết tiếng Việt được đặt dấu thanh trên âm chính, tuy nhiên có 154 trường hợp dấu thanh được đặt ở vị trí khác Chúng tôi đã cố gắng tìm ra quy tắc chung cho các trường hợp này nhưng không thành công Dựa vào bảng phụ lục của tác giả, chúng tôi nhận thấy có những hình thức chữ được ghi nước đôi, vừa đúng như hiện tại, vừa có một số trường hợp ghi khác.

1 Một số các trường hợp chúng tôi cho là sai sót khi xuất bản như: nưả/nửa, nứơc/nước, raị/rào, riù/rìu, rụơng/ruộng, tá/tàu, thaĩ/tháo, thaỏ/thảo, vaỉ/vải, thaú/tháu, trửơng/trưởng, xaó/xáo, caỏ/cảo,.v.v

2 Một số trường hợp, ngay từ thời Từ điển ALL tác giả đã có sự chọn lựa đặt dấu thanh trên âm chính, chứ không đặt dấu thanh trên âm đệm như: thuỷ (16 5 )/thủy

Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số lỗi đánh máy và sắp chữ liên quan đến các từ có dấu thanh trong tiếng Việt Cụ thể, các trường hợp như "huỷ" và "hủy", "quạ" và "qụa", cùng với các từ như "hŏà", "hŏá", "hŏả", "hŏạ", "thŏả", "thŏế", "thŏở", "thüế", và "thüở" cho thấy sự nhầm lẫn trong việc ghi dấu thanh Chúng tôi cho rằng những lỗi này có thể là do sai sót trong quá trình đánh máy hoặc sắp chữ để in.

2.1.2.2 Các trường hợp thừa thiếu dấu phụ trên chữ “đ, ơ, ô, ê, ư, ”

Theo bảng phụ lục, tác giả đã đính chính nhiều lần các lỗi chính tả như o thành ô (họt = hột, lọn = lộn, họ = hộ, ho = hô, vo = vô, chon = chôn ) Trong từ điển, từ "vô" được ghi rất chính xác, nhưng có vài lần tác giả ghi "vo" mà vẫn mang nghĩa của "vô", điều này có thể xem là lỗi morasse trong quá trình sắp chữ để in Tương tự, từ "tlộm" được ghi chính xác, do đó một lần xuất hiện "tlóm" với nghĩa "tlộm" nên được hiểu là sai sót chính tả Qua khảo cứu Từ điển ALL, chúng tôi nhận thấy

106 lần âm chính o xuất hiện với nghĩa âm ô Nhưng với các đính chính của tác giả

5 Số lần xuất hiện trong Từ điển ALL chúng tôi cho rằng các trường hợp trên là lỗi do đánh máy

Chúng tôi cho rằng 55 trường hợp chữ cái đ viết thành d (thiếu dấu gạch ngang) là các lỗi morasse, vì mỗi trường hợp đều có chữ đúng tương đương Ví dụ, dịa tương đương với địa, dất với đất, dạp với đạp, dổi với đổi, dúc với đúc, và dáo với đáo.

Chữ viết tiếng Việt thế kỷ XVII có nhiều hình thức đặc biệt với các ký tự như aỗ, coồ, baỗ, bỏỗ, blũồ, blọt, cở, blở, ọěào, ọuầng, cỹŏn, děaớc, děạoc, và làỗ Những trường hợp này hiện nay đã không còn tồn tại trong ngôn ngữ hiện đại.

Chúng tôi chú ý đến sự đặc biệt của hai chữ i và y theo cách ghi của tác giả Từ điển Trong phần "phụ lục" ở cuối Từ điển ALL, tác giả đã có những ghi chú cụ thể về hai chữ này.

Trong phương ngữ An Nam, chữ i được sử dụng như nguyên âm duy nhất, do đó, cần lưu ý rằng ở đầu và giữa từ, i phải được đọc theo cách Ý, không theo cách Bồ Đào Tác giả nhấn mạnh rằng i và y không phân biệt trong các từ như yeo và ieo, thuièn và thuyèn, cuyen và cuien, vì điều này không ảnh hưởng đến nghĩa của từ Tuy nhiên, ở cuối từ, tác giả lại phân biệt giữa i và y, điều này được chứng minh qua bảng phụ lục mà tác giả đã ghi chú.

Với ghi chú ở phần phụ lục, chúng ta chấp nhận 94 trường hợp lẫn lộn giữa i

Bảng 2.2.Phân biệt i và y trong phụ lục của Từ điển ALL cột dòng chữ sai sửa lại

Trong Từ điển ALL, có 876 từ chứa yếu tố "13 ọai vay" và "y" xuất hiện ở vị trí đầu và giữa từ Còn lại 21 trường hợp lẫn lộn giữa "i" và "y" ở vị trí cuối từ Bản đính chính cho thấy tác giả đã nhận thức về bán nguyên âm cuối /-ĭ/ và đã điều chỉnh một số từ như "bày" thành "bài" và "thải" thành "thảy".

Đặc điểm ngữ âm

Cao Xuân Hạo (1999) cho rằng:

Hệ thống âm vị học của tiếng Việt lần đầu tiên được phân tích có hệ thống vào giữa thế kỷ XVII, cùng với sự ra đời của chữ Quốc ngữ, một hệ thống văn tự hoàn chỉnh vào giữa thế kỷ XIX Bộ chữ viết này gần gũi với hệ thống phiên âm âm vị học, và những chỉnh lý sau này trong nghiên cứu âm vị học chủ yếu chỉ là sự thay thế Tuy nhiên, những khác biệt nhỏ trong các giải pháp âm vị học gần đây không phải lúc nào cũng đáng tự hào Vì vậy, việc khảo cứu Từ điển ALL để tìm hiểu thêm về đặc điểm hệ thống âm vị của tiếng Việt thế kỷ XVII là rất có ý nghĩa.

Chúng tôi đã tổng hợp các nghiên cứu trước đây về hệ thống âm vị phụ âm đầu tiếng Việt thế kỷ XVII, được phản ánh trong Từ điển ALL, thành một bảng thống kê Qua đó, chúng tôi đưa ra những nhận xét về đặc điểm của hệ thống âm vị này nhằm đóng góp cái nhìn sâu sắc về ngữ âm tiếng Việt trong thế kỷ XVII Các phụ âm đầu trong bảng được sắp xếp theo thứ tự chữ cái như trong Từ điển ALL.

Bảng 2.3 Các phụ âm đầu theo Từ điển ALL

STT Phụ âm đầu Hình thức chữ viết

Ghi chú về những hình thức tồn tại trong tiếng Việt thế kỷ XVII

2 /bl/ bl phổ biến trong Từ điển ALL

3 /Bj/ ọ phổ biến trong Từ điển ALL

14 /ml/ ml phổ biến trong Từ điển ALL

15 / mɲ/ mnh xuất hiện trong Từ điển ALL 5 lần

20 /pl/ pl xuất hiện một lần duy nhất ở BCTT

25 /tl/ tl phổ biến trong Từ điển ALL

Qua bảng 2.3 có thể ghi nhận một số đặc điểm của hệ thống âm vị phụ âm đầu của tiếng Việt thế kỷ XVII như sau:

‒ Phụ âm /k/ được ghi bằng ba con chữ c, k, q

‒ Các phụ âm bật hơi /р h / (ph), /t h / (th), /k h / (kh)

Tác giả Từ điển ALL giải thích rằng ông đã thêm h vào các âm p, t, và k để tạo ra các âm ph, th, và kh Ông kết luận rằng những âm bật hơi này tương đương với các âm Hy Lạp φ, θ, và χ.

Về âm vị /p h / “ph” Nguyễn Tài Cẩn (1997) nhận xét:

Âm "ph" xuất hiện trong mọi phương ngữ tiếng Việt, nhưng cách phát âm có sự khác biệt tùy theo vùng miền Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, "ph" được phát âm là âm /f/, tức là âm xát môi răng Trong khi đó, ở phần lớn Trung Bộ và một số thổ ngữ Bắc Bộ, "ph" lại được phát âm thành "pf" hoặc "pΦ", tức là âm tắc xát với tắc nhẹ và khe xát môi răng (pf) hoặc khe xát môi môi (pΦ) Đặc biệt, ở thổ ngữ Huế, Quảng Nam và một số khu vực Bắc Bộ, "ph" được phát âm thành âm tắc bật hơi (р).

A de Rhodes đã đến Quảng Nam để học tiếng Việt, điều này giải thích tại sao ông mô tả âm /p h/ ph là âm môi - môi thay vì âm môi - răng [f] Hiện nay, vùng Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên vẫn duy trì âm [ph] bật hơi, phản ánh cách phát âm đặc trưng của người Quảng Nam.

Về âm vị /t h / th đã có mặt từ thế kỷ XVII, là âm ít thay đổi nếu so với các trường hợp như /p h / ph và /k h / kh

Âm vị /k h/ kh có nhiều điểm tương đồng với âm /p h/ và /t h/ Tại các thổ ngữ vùng Huế, Quảng Nam và một số nơi ở Bắc Bộ, âm /p h/ được phát âm như âm tắc bật hơi /p h/ và âm /k h/ cũng được đọc với đặc điểm bật hơi Trong giai đoạn từ điển ALL, A de Rhodes đã coi âm /k h/ là một âm bật hơi tương tự như âm χ trong tiếng Hi-lạp, bên cạnh âm /p h/ và /t h/.

A de Rhodes đã ghi nhận ba âm bật hơi trong tiếng Việt thế kỷ XVII, bao gồm /р h/ (ph), /t h/ (th) và /k h/ (kh) Chúng tôi không loại trừ khả năng rằng tác giả đã ghi âm các âm này dựa trên cách phát âm của các vùng phương ngữ, nơi mà ph, kh và th được phát âm như âm bật hơi Điều này cũng tương tự với các phương ngữ Trung hiện nay, nơi tồn tại dãy âm [ph, kh, th] bật hơi.

Theo Hoàng Thị Châu (2004, tr.102), quá trình xát hóa các phụ âm tắc bật hơi như p h > f và k h > χ chỉ diễn ra sau thế kỷ XVII tại một số vùng phương ngữ phía Bắc.

Về con chữ h trong các phụ âm /р h / (ph), /t h / (th), /k h / (kh) Trịnh Sâm (Đi tìm bản sắc tiếng Việt, 2018, tr.204) ghi nhận:

Sự không nhất quán trong việc ghi âm các yếu tố bật hơi và xát trong chữ Quốc ngữ được giải thích bởi A G Haudicourt, cho rằng các nhà sáng chế chữ Quốc ngữ chịu ảnh hưởng từ hệ thống chữ viết Latinh, Hy Lạp, Ý và tiếng Pháp Cụ thể, yếu tố h trong tiếng Latinh thường được dùng để ghi nhận các yếu tố bật hơi.

Theo ý kiến của các tác giả như Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Thị Châu và Trịnh Sâm, cùng với ghi nhận từ tài liệu lịch sử, A de Rhodes đã học tiếng Việt cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài Điều này cho thấy cách ghi các phụ âm như /ph/, /th/, /kh/ với yếu tố bật hơi của những người sáng chế ra chữ Quốc ngữ chưa phản ánh chính xác tiếng Việt thế kỷ XVII, và có thể chịu ảnh hưởng từ hệ thống chữ viết Latinh.

‒ Hai phụ õm /b/ (b) và /òj/ ( ọ)

Về hai phụ âm này tác giả Từ điển ALL đãmô tả:

B trong tiếng Việt có hai cách phát âm: thứ nhất là phát âm giống như "ba" (tria), nhưng khác với cách phát âm của chúng ta ở chỗ không tống hơi ra mà hít hơi vào khi mở miệng Thứ hai, âm "b" này gần giống với âm β trong tiếng Hy Lạp, ví dụ như trong từ "ingredí" (vào), nhưng phát âm ít cứng hơn và cảm giác như âm này thuộc về môi, tương tự như cách phát âm của người Do Thái, chứ không phải là âm phát ra từ răng.

Theo Gregerson K.J (1969, tr.150), âm /ɔ/ được xác định là âm xót mũi – mũi, hữu thanh Hoàng Thị Châu (2004) cũng khẳng định rằng âm này có đặc điểm ngạc hóa, và tác giả đã đưa ra các dẫn chứng để minh họa cho nhận định này.

A de Rhodes đã mô tả âm vị học một cách rõ ràng, tương tự như các nhà ngữ âm học hiện đại Ông gọi âm “b” trong từ "ba" và âm “ọ” trong từ "ọěaũ" là “hai âm B” để nhấn mạnh sự tương đồng Sau đó, ông phân biệt sự khác nhau trong cách phát âm: âm “b” được phát ra bằng cách thổi hơi vào, trong khi âm “ọ” là một phụ âm xốp mũi, không phải là âm môi-răng Mặc dù tác giả không đề cập đến hiện tượng ngạc hóa như chúng ta thấy trong các thổ ngữ Bình Trị Thiên ngày nay, nhưng việc ông chọn từ "ọěaũ" để minh họa cho thấy rõ ràng dụng ý của người viết.

Trong Từ điển ALL, chữ cỏi ọ là mẫu tự đứng sau b, biểu thị âm vị của nó là âm xỏt mụi - mụi Nhiều từ có phụ âm đầu ghi bằng ọ khác với những từ ghi bằng v hoặc b Tuy nhiên, A de Rhodes ghi nhận một số trường hợp lẫn lộn giữa ọ và v Ví dụ: ọiet/viết Ngoài ra, còn có trường hợp ọ trựng với b như trong từ ọi cỏ/bi cỏ Hoàng Thị Chõu (2004, tr.141) cho rằng âm v của tiếng Việt hiện đại có thể là kết quả của hai âm khác nhau mà A de Rhodes ghi lại bằng hai chữ cái b và u Trong thời kỳ này, mối quan hệ giữa các âm /òj/, /v/ và /b/ khá phức tạp, với sự lẫn lộn giữa chúng Cụ thể, quá trình biến đổi từ /òj/, /u/ sang /v/ đang diễn ra.

Thống kê Từ điển ALL, chúng tôi ghi nhận:

Bảng 2.4 Các hình thức ghi âm song song trong Từ điển ALL

Chỉ có các trường hợp sau: "ọ" được phát âm như "v" trong các từ "ọỏ/vỏ", "ọút/vút", "ọỏn/vỏn", "ọỏng/vỏng", "ọơ ọết/vơ vết", "ọai/vai", "ọật/vật", "ọạt/vạt", "ọiột/viột", "ọời/vời", "ọạt ọanh/vạt vanh" Đối với "ọě", phát âm như "v" trong "ọěỏ/vỏ", "ọěai/vai" Còn "b" được phát âm như "b" trong "b ọõy cỏ/bõy cỏ", "b ọầi cỏ/bầy cỏ", "b ọi cỏ/bi cỏ", "ruầi ọõu/ruồi bõu", "ọố đỏnh uoi/bố đỏnh voi" Bảng 2.5 liệt kê các hình thức chữ "ọě": "ọěỏ", "ọěai", "ọěaỉ", "ọěài", "ọěải", "ọěói", "ọěỏn", "ọěao", "ọěaũ", "ọěào" (92 lần).

‒ Phụ âm /v/ (v và u) Âm /v/ xuất hiện ở vị trí phụ âm đầu trong Từ điển ALL bằng chữ cái v

ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA TIẾNG VIỆT THẾ KỶ XVII

Ngày đăng: 26/07/2021, 08:44

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1) An Chi. (2006). Chuyện Đông chuyện Tây, tập 4, mục số 690, trang 306-311. TPHCM: Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuyện Đông chuyện Tây, tập 4
Tác giả: An Chi
Nhà XB: TPHCM: Trẻ
Năm: 2006
2) Bạch Hồng Việt. (2016). “Khảo sát mục từ kinh tế của Từ điển Việt-Bồ-La trong sự hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ”. Kỷ yếu hội thảo Bình Định với chữ Quốc ngữ, trang 119-125. Bình Định: Tổng hợp TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo sát mục từ kinh tế của Từ điển Việt-Bồ-La trong sự hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ
Tác giả: Bạch Hồng Việt
Nhà XB: Kỷ yếu hội thảo Bình Định với chữ Quốc ngữ
Năm: 2016
3) Behaine, PJ and Taberd, JL. (1999). Tự vị Annam Latinh (Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu). TPHCM: NXB Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự vị Annam Latinh
Tác giả: Behaine, PJ, Taberd, JL
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 1999
4) Bùi Huy Hồng. (1981). “Một tiếp đầu ngữ của tiếng Việt cổ cần được khôi phục để đơn giản hoá chữ quốc ngữ trong tương lai.” Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ - tập 2, trang 375-379. Hà Nội: Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một tiếp đầu ngữ của tiếng Việt cổ cần được khôi phục để đơn giản hoá chữ quốc ngữ trong tương lai
Tác giả: Bùi Huy Hồng
Nhà XB: Hà Nội: Khoa học Xã hội
Năm: 1981
5) Bùi Khánh Thế. (1997). “Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng của tiếng Việt.” Kỷ yếu hội nghị khoa học Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt . TPHCM: Đại học KHXH và NV Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng của tiếng Việt
Tác giả: Bùi Khánh Thế
Năm: 1997
6) Bùi Thị Minh Thùy. (2014). “Từ địa phương trong Từ điển Việt-Bồ-La.” Ngôn ngữ, 7 (302), trang 28-37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ địa phương trong Từ điển Việt-Bồ-La
Tác giả: Bùi Thị Minh Thùy
Năm: 2014
7) Bùi Thị Minh Thùy. (2014). “Từ điển Việt-Bồ-La giúp hiểu rõ ý nghĩa một số kinh đọc.” Công giáo và dân tộc , tháng 4 đến tháng 9/2014 (từ số 1953 đến số1975) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Việt-Bồ-La giúp hiểu rõ ý nghĩa một số kinh đọc
Tác giả: Bùi Thị Minh Thùy
Nhà XB: Công giáo và dân tộc
Năm: 2014
8) Bùi Thị Minh Thùy. (2014). Ý nghĩa lời kinh – giải thích từ cổ trong sách kinh (dựa theo Từ điển Việt-Bồ-La). Sandiego–Montreal: Anton và Đuốc Sáng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ý nghĩa lời kinh – giải thích từ cổ trong sách kinh (dựa theo Từ điển Việt-Bồ-La)
Tác giả: Bùi Thị Minh Thùy
Nhà XB: Anton và Đuốc Sáng
Năm: 2014
9) Bùi Thị Minh Thùy. (2015). “Cấu trúc từ vựng trong Từ điển Việt-Bồ-La.” Từ điển học và Bách khoa thư, 6 (11), trang 19-24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cấu trúc từ vựng trong Từ điển Việt-Bồ-La
Tác giả: Bùi Thị Minh Thùy
Nhà XB: Từ điển học và Bách khoa thư
Năm: 2015
11) Bùi Thị Minh Thùy. (2016). “Từ hô gọi trong Từ điển Việt-Bồ-La nhìn từ góc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ hô gọi trong Từ điển Việt-Bồ-La nhìn từ góc
Tác giả: Bùi Thị Minh Thùy
Năm: 2016
12) Bửu Kế. (1961). “Xã hội Việt Nam trong con mắt của Đắc Lộ.” Đại học Huế, 2, trang 58-70 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xã hội Việt Nam trong con mắt của Đắc Lộ
Tác giả: Bửu Kế
Nhà XB: Đại học Huế
Năm: 1961
14) Bửu Thảo. (1981). “ Tiếp nhận và Việt hóa từ ngữ nước ngoài.” Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ - tập 2 , trang 216-219. Hà Nội: Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp nhận và Việt hóa từ ngữ nước ngoài
Tác giả: Bửu Thảo
Nhà XB: Hà Nội: Khoa học Xã hội
Năm: 1981
15) Cao Thành Việt. (2016). “Nguồn gốc những điểm dị biệt trong bảng chữ cái tiếng Việt (A. G. Haudricourt) [Bản dịch]. ” Chữ Quốc ngữ sự hình thành, phát triển và đóng góp vào văn hóa Việt Nam, trang 678-706. TPHCM: Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chữ Quốc ngữ sự hình thành, phát triển và đóng góp vào văn hóa Việt Nam
Tác giả: Cao Thành Việt
Nhà XB: Đại học Quốc gia
Năm: 2016
16) Cao Xuân Hạo. (1997). “Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt.” Kỷ yếu Hội nghị khoa học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn , trang 118-124. TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt
Tác giả: Cao Xuân Hạo
Nhà XB: Kỷ yếu Hội nghị khoa học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Năm: 1997
19) Cao Xuân Hạo. (2004). Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng . TPHCM: Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng
Tác giả: Cao Xuân Hạo
Nhà XB: Giáo dục
Năm: 2004
20) Diệp Quang Ban. (2008). Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (theo định hướng ngữ pháp chức năng) tập 1,2. Hà Nội: Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (theo định hướng ngữ pháp chức năng) tập 1,2
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: Giáo dục
Năm: 2008
21) Dư Ngọc Ngân. (1991). Từ chỉ không gian, thời gian khái quát trong tiếng Việt (Từ thế kỷ XV- nay). (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn). TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ chỉ không gian, thời gian khái quát trong tiếng Việt (Từ thế kỷ XV- nay)
Tác giả: Dư Ngọc Ngân
Nhà XB: TPHCM
Năm: 1991
22) Dương Hữu Biên. (2016). “Chữ quốc ngữ và sự phát triển của tiếng Việt.” Kỷ yếu hội thảo Bình Định với chữ Quốc ngữ , trang 519-525. Bình Định:Tổng hợp TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chữ quốc ngữ và sự phát triển của tiếng Việt
Tác giả: Dương Hữu Biên
Nhà XB: Kỷ yếu hội thảo Bình Định với chữ Quốc ngữ
Năm: 2016
23) Đào Thản. (1988). Vấn đề cấu tạo bảng từ trong từ điển, trong Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á , trang 168-172. Hà Nội: Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề cấu tạo bảng từ trong từ điển, trong Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á
Tác giả: Đào Thản
Nhà XB: Hà Nội: Khoa học Xã hội
Năm: 1988
24) Đào Thản. (1997). Một số vấn đề từ điển học , trang 136-161. Hà Nội: Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề từ điển học
Tác giả: Đào Thản
Nhà XB: Hà Nội: Khoa học Xã hội
Năm: 1997

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w