NHỮ NG V ẤN ĐỀ LÝ LU Ậ N VÀ PHÁP LU Ậ T V Ề T Ộ I ĐÁNH BẠ C, T Ộ I T Ổ CH ỨC ĐÁNH BẠ C HO Ặ C GÁ B Ạ C
Khái ni ệ m, các d ấ u hi ệ u pháp lý c ủ a t ội đánh bạ c, t ộ i t ổ ch ức đánh bạ c
1.1.1 Khái ni ệ m c ủ a t ội đánh bạ c trong lu ậ t hình s ự Vi ệ t Nam
Tội phạm là hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự hình thành của Nhà nước và pháp luật, cũng như sự xuất hiện của sở hữu tư nhân và phân chia giai cấp Khái niệm tội phạm đã có từ sớm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý để xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội và áp dụng chế tài ngăn chặn hậu quả Để bảo vệ quyền lợi, Nhà nước quy định những hành vi nguy hiểm được xem là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
Theo Larry J Siegel, tội phạm được định nghĩa là hành vi vi phạm các nguyên tắc xã hội, được quy định trong luật hình sự do những người nắm giữ quyền lực chính trị và xã hội thiết lập Những cá nhân vi phạm các nguyên tắc này sẽ phải chịu hình phạt từ các cơ quan có thẩm quyền.
So với khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, khái niệm tội phạm trong BLHS năm 2015 đã được bổ sung thêm yếu tố “quyền con người” vào các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ Sự bổ sung này nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là Điều 3 và chương I.
2013 quy định Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân [22, tr.9] Đồng thời, BLHS năm 2015 đã mở rộng
Phạm vi chủ thể áp dụng tội phạm bao gồm cả con người và pháp nhân thương mại Pháp nhân thương mại phải được thành lập và hoạt động theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật doanh nghiệp năm 2014, và các quy định pháp luật liên quan, với mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và chia lợi nhuận cho những người góp vốn Khi pháp nhân này thực hiện hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được Nhà nước và pháp luật bảo vệ, chúng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự Do đó, pháp nhân thương mại cũng được xem là một trong những chủ thể của tội phạm.
Để hiểu rõ về tội phạm đánh bạc, trước tiên cần xác định đánh bạc là hành vi tham gia vào trò chơi bất hợp pháp, trong đó có sự thắng thua liên quan đến lợi ích vật chất đáng kể Theo Từ điển Pháp luật phổ thông của Trần Văn Thắng, đánh bạc dựa trên ba yếu tố chính: sự tính toán, cơ hội và lợi nhuận Trong trò chơi này, kết quả thắng thua phụ thuộc vào may rủi, khả năng suy luận của người chơi, và các yếu tố khác không nằm trong sự kiểm soát của người tham gia hay tổ chức trò chơi.
Đánh bạc trái phép là hành vi thực hiện các hoạt động đánh bạc nhằm mục đích thu lợi bằng tiền hoặc hiện vật mà không có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Hành vi này cũng được coi là trái phép nếu thực hiện không đúng theo quy định trong giấy phép đã được cấp.
Qua các thời kỳ, các cơ quan lập pháp Việt Nam chưa đạt được sự thống nhất trong việc định nghĩa rõ ràng các tội phạm liên quan đến cờ bạc Điều này xuất phát từ việc các hành vi đánh bạc được xem là những hiện tượng xã hội phức tạp.
Tội phạm phát sinh và tiêu vong trong các điều kiện xã hội khác nhau, và ở mỗi giai đoạn lịch sử, nó có những phát triển và biểu hiện riêng Xét từ góc độ pháp lý hình sự, các khái niệm liên quan đến tội phạm được đề cập khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và nhận thức xã hội, nhằm đáp ứng các mục tiêu mà nhà nước đặt ra cho hệ thống pháp luật trong từng thời kỳ.
Sau khi pháp điển hóa Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, các hành vi liên quan đến đánh bạc đã được phân hóa thành ba tội phạm cụ thể: đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc Tuy nhiên, các quy định trong BLHS năm 1985 còn mang tính khái quát Đến khi BLHS năm 1999 ra đời, các tội liên quan đến đánh bạc mới được cụ thể hóa, trong đó tội đánh bạc được quy định rõ ràng hơn.
Người tham gia đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng, hoặc cải tạo không giam giữ tới 3 năm, hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm nếu số tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 2 triệu đến dưới 50 triệu đồng, hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng đã từng bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc mà chưa xóa án tích Theo thời gian, quy định về tội đánh bạc đã có sự thay đổi để phù hợp với sự phát triển của xã hội và tình hình tội phạm ngày càng phức tạp.
Theo Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, người tham gia đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức sẽ bị xử phạt nếu thua bằng tiền hoặc hiện vật trị giá từ 5 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng Nếu người này đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc mà chưa được xóa án tích, họ sẽ phải chịu hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Tội đánh bạc được định nghĩa là hành vi tham gia vào trò chơi trái pháp luật, với số tiền hoặc hiện vật từ năm triệu đồng trở lên, hoặc dưới năm triệu đồng nhưng đã từng bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc mà chưa được xóa án tích Hành vi này phải được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến trật tự và an toàn công cộng.
Từ những phân tích ở trên, có thể xác định các đặc điểm cơ bản của tội đánh bạc Cụ thểnhư sau:
Tội đánh bạc là hành vi tham gia vào các trò chơi có tính chất cá cược, được thực hiện trái pháp luật, với giá trị vật chất từ năm triệu đồng trở lên, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng Ngoài ra, hành vi này cũng được coi là tội phạm nếu giá trị dưới năm triệu đồng nhưng người vi phạm đã từng bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc mà chưa được xóa án tích.
Hai là, chủ thể thực hiện hành vi đánh bạc là người có đủnăng lực trách nhiệm hình sựvà đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Ba là, về mặt chủ quan của cấu thành tội phạm đánh bạc, hình thức lỗi là cố ý trực tiếp
Tội đánh bạc thuộc nhóm tội phạm xâm phạm trật tự công cộng, mà trật tự công cộng được hiểu là sự tuân thủ các quy phạm pháp luật, đạo đức và phong tục tập quán nhằm tạo ra một môi trường xã hội ổn định, phục vụ lợi ích cộng đồng Trật tự công cộng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển, văn minh và dân chủ của một quốc gia Để duy trì trật tự công cộng, Nhà nước, các tổ chức và mỗi người dân cần có ý thức trong việc xây dựng, thực hiện và bảo vệ các quy tắc sinh hoạt chung.
1.1.2 Khái ni ệ m c ủ a t ộ i t ổ ch ức đánh bạ c ho ặ c gá b ạ c trong lu ậ t hình s ự Vi ệ t Nam Đối với tội tổ chức đánh bạc, do xuất phát đều là các hành vi thuộc về tệ nạn cờ bạc, có những điểm chung nhất định, hành vi được mô tả trong các tội này gắn bó chặt chẽ với nhau (hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc mang tính chất hỗ trợ, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc) Do vậy, để nghiên cứu khái niệm tội tổ chức đánh bạc nhất thiết phải đặt nó trong nhóm các tội đánh bạc Tội tổ chức đánh bạc đã được quy định tại BLHS năm 1985 Tuy nhiên, điều luật quy định một cách chung chung, chưa thể hiện rõ các dấu hiệu cơ bản của tội phạm Đến khi BLHS năm 1999 được thông qua và được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tội tổ chức đánh bạc tiếp tục được quy định tại Điều 249, theo đó: “Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm” [24, tr.230] Đến BLHS năm 2015 đã có những quy định và các hình thức chế tài cụ thể hơn cho các hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép Cụ thể, tại Điều 322 BLHS năm 2015 quy định, “người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản này thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; nếu phạm tội trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 2 Điều 322 thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm” [27, tr.331]
Khái quát quá trình hình thành và phát tri ể n c ủ a lu ậ t hình s ự Vi ệ t Nam
1.2.1 Giai đoạ n t ừ sau Cách m ạng tháng Tám năm 1945 đến trướ c khi ban hành B ộ lu ậ t hình s ự năm 1985
Cờ bạc là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới Đây là một trò chơi giải trí được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau, và cách hiểu về cờ bạc có thể thay đổi tùy theo bối cảnh văn hóa, lịch sử và pháp luật của mỗi quốc gia Tại Việt Nam, cờ bạc đã được đề cập trong các Bộ luật lớn như Quốc triều hình luật triều Lê và Luật Gia Long triều Nguyễn, cho thấy tầm quan trọng và sự quan tâm của xã hội đối với vấn đề này trong thời kỳ phong kiến.
Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị Việt Nam, chính sách nô dịch và ngu dân được áp dụng nhằm mục đích dễ dàng cai trị và làm phai nhòa lý tưởng đấu tranh của nhân dân.
Vào năm 1926, thực dân Pháp đã cho phép mở các tụ điểm hút chích á phiện và các ổ cờ bạc trên đất nước ta, nhằm tạo tâm lý tự ti và đầu độc tư tưởng trong thế hệ trẻ Điều này cho thấy sự thao túng và kiểm soát của thực dân đối với đời sống xã hội, khi mà các sòng bạc được hoạt động tự do mà không bị pháp luật nghiêm cấm.
Sau khi nước Việt Nam ra đời năm 1945, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ tác động tiêu cực của tệ nạn cờ bạc đối với xã hội Trong bối cảnh nhà nước mới hình thành, giai cấp vô sản nắm quyền nhưng các giai cấp bóc lột trước đó vẫn tồn tại và ảnh hưởng đến đời sống xã hội Những giai cấp này đã lợi dụng cờ bạc để đầu độc nhân dân, khiến họ chìm đắm trong tệ nạn và quên đi nhiệm vụ cách mạng, nhằm mục đích phá hoại đất nước.
Vào ngày 14 tháng 4 năm 1948, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh 168/SL, quy định cách trừng trị tội đánh bạc Đây là văn bản pháp luật đầu tiên về các tội cờ bạc, thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến cờ bạc Sắc lệnh này đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác quản lý và phòng chống tội phạm cờ bạc tại Việt Nam.
Sắc lệnh quy định phạm vi xử lý tội tổ chức đánh bạc rất rộng, với hình phạt nặng dành cho người vi phạm, thể hiện sự nghiêm khắc cần thiết của nhà nước trong bối cảnh lúc bấy giờ Tuy nhiên, một nhược điểm của Sắc lệnh là kỹ thuật lập pháp chưa cao, khi các tội phạm về cờ bạc chỉ được liệt kê mà chưa mô tả cụ thể hay giải thích rõ ràng về hành vi tổ chức.
Trong quá trình thực hiện Sắc lệnh 168/SL, miền Bắc đã hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhờ vào sự thay đổi về kinh tế - chính trị Những biến đổi sâu sắc trong xã hội đã diễn ra, đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc ngăn chặn các vấn đề phát sinh.
Sắc lệnh 168/SL đã trở nên không còn phù hợp do tình hình xã hội thay đổi, đặc biệt là việc các phần tử bóc lột và cờ bạc không còn là vấn đề cấp bách Để khắc phục những hạn chế này, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 301/BTBTP vào ngày 14 tháng 01 năm 1957 và Thông tư 2098/VHH-HS vào ngày 31 tháng 5 năm 1957 nhằm mục đích bài trừ tệ nạn cờ bạc và giải quyết một phần những vướng mắc liên quan đến Sắc lệnh 168/SL.
Thông tư 301/BTBTP quy định rằng việc xử lý các tội liên quan đến cờ bạc cần “lấy giáo dục làm chính” và không yêu cầu phải bắt quả tang mới có thể truy tố Chỉ những đối tượng tổ chức, chứa gá, sóc cái, hồ lỳ, canh gác chuyên nghiệp và những con bạc tái phạm hoặc coi thường pháp luật mới bị truy tố Quy định này nhằm hạn chế đối tượng bị xử lý về tội cờ bạc, tập trung vào việc xử lý nghiêm các tổ chức cờ bạc, trong khi chỉ xem xét truy tố đối với những người đánh bạc có đặc điểm nhân thân cụ thể.
Sau hơn 4 tháng triển khai, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 2098/VHH-HS để giải đáp thắc mắc của một số Tòa án nhân dân liên quan đến việc áp dụng Sắc lệnh 168/SL Thông tư này bổ sung cho Thông tư 301/BTBTP trong bối cảnh chờ Chính phủ và Quốc hội phê duyệt văn bản mới Nội dung của Thông tư nhằm giải thích một số điểm trong Sắc lệnh 168/SL, ghi nhận tinh thần của văn bản mà không áp dụng nguyên văn Sự cần thiết của Thông tư này xuất phát từ những khó khăn trong quá trình thực hiện.
Sắc lệnh 168/SL, có một số nội dung không còn phù hợp với hoàn cảnh thực
Sau ngày miền Nam được giải phóng, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 vào ngày 15 tháng 3 năm 1976, quy định về các tội phạm và hình phạt Văn bản này được ban hành trong bối cảnh miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, trật tự cách mạng đã được thiết lập và tình hình an ninh xã hội có những chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều phức tạp, đặc biệt là tội phạm cờ bạc Do đó, Sắc luật 03-SL/76 thể hiện quan điểm và thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với tội phạm này nhằm cải thiện quản lý xã hội.
Nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự của Việt Nam trong giai đoạn này cho thấy hành vi cờ bạc luôn bị xử lý hình sự, với mức độ khác nhau tùy theo từng thời kỳ Nhà nước xác định cờ bạc là hành vi nguy hiểm, xâm hại đến trật tự an toàn xã hội Các văn bản pháp luật đã có những tiến bộ, nêu rõ khái niệm và phân loại các hành vi cờ bạc, xác định phạm vi xử lý hình sự Tuy nhiên, do bối cảnh chiến tranh và là giai đoạn đầu của lập pháp hình sự, các văn bản này còn hạn chế về kỹ thuật, với khái niệm tội phạm chủ yếu mang tính liệt kê và thiếu sự thống nhất trong cách xử lý giữa hai miền.
Trong thời kỳ này, Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật quan trọng liên quan đến vấn đề cờ bạc, bao gồm Chỉ thị 1183 – TATC/TC ngày 01/07/1960 của Tòa án tối cao về xử lý cờ bạc và Thông tư 121 – CP ngày 09/08/1961 của Hội đồng chính phủ nhằm tập trung giáo dục cải cách.
Chỉ thị 14 – CT ngày 16/01/1961 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã nhấn mạnh việc cần thiết phải xử lý các tổ chức đánh bạc và những hành vi nguy hại cho xã hội Chỉ thị yêu cầu lập hồ sơ để truy tố hoặc tập trung cải tạo những đối tượng liên quan đến tệ nạn xã hội và các vấn đề cứu tế xã hội.
1.2 2 Giai đoạ n t ừ khi ban hành B ộ lu ậ t hình s ự năm 1985 đến năm
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985 đánh dấu bước tiến quan trọng trong hoạt động pháp điển hóa, là đạo luật hình sự đầu tiên của Việt Nam, quy định toàn bộ các vấn đề về tội phạm và hình phạt, thay thế cho các văn bản pháp luật trước đó Trong đó, tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc được quy định trong cùng một điều luật, thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp Các nhà làm luật đã nhận thức rõ tính nguy hiểm của hành vi cờ bạc và xác định rõ các tội phạm liên quan, từ đó giúp cho quy phạm pháp luật về các tội này trở nên súc tích và khoa học hơn Đặc biệt, BLHS năm 1985 sử dụng một điều luật duy nhất để quy định ba tội danh cụ thể, tạo nên sự rõ ràng và hiệu quả trong việc xử lý các hành vi vi phạm.
QUY ĐỊ NH C Ủ A PHÁP LU Ậ T HÌNH S Ự HI Ệ N HÀNH
Quy đị nh c ủ a pháp lu ậ t hình s ự hi ệ n hành v ề t ội đánh bạ c, t ộ i t ổ ch ứ c đánh bạ c ho ặ c gá b ạ c
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), việc thi hành các quy định này đã đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước sự phát triển của xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 đã bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập Nhằm khắc phục những vấn đề này, Quốc hội khóa XIII đã đưa việc sửa đổi BLHS năm 1999 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của nhiệm kỳ, cụ thể tại kỳ họp thứ 10.
Quốc hội đã thông qua Luật số 100/2015/QH13 vào ngày 27 tháng 11 năm 2015, ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015, bao gồm ba phần, 26 chương và 426 điều, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 Tội đánh bạc được quy định tại Điều 321, trong khi tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại một điều khác trong bộ luật này.
322, mục 4: Các tội phạm khác xâm phạm trật tự công cộng; thuộc Chương XXI: Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
Theo đó, tội đánh bạc được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm
Theo quy định tại Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015, người đánh bạc trái phép với số tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm Nếu vi phạm có tính chất chuyên nghiệp, mức độ xử phạt có thể nghiêm khắc hơn.
Theo quy định pháp luật, người tham gia đánh bạc với số tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên, hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm tội, hoặc tái phạm nguy hiểm sẽ bị phạt tù từ 03 đến 07 năm Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, cụ thể là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Tổng quan về tội đánh bạc theo Bộ luật hình sự năm 1999 và năm 2015 cho thấy mức khởi điểm truy cứu trách nhiệm hình sự đã được nâng từ 2.000.000 đồng lên 5.000.000 đồng cho người phạm tội lần đầu Tuy nhiên, khi bị bắt, mức phạt lại nặng hơn Đối với tội tổ chức đánh bạc, Điều 322 của BLHS năm 2015 quy định rõ ràng về các hình thức vi phạm, bao gồm việc tổ chức đánh bạc cho từ 10 người trở lên hoặc cho 2 chiếu bạc trở lên với số tiền từ 5.000.000 đồng trở lên Hình phạt có thể lên đến 300.000.000 đồng hoặc tù từ 1 đến 5 năm, và trong trường hợp tái phạm hoặc có tính chất chuyên nghiệp, mức phạt tù có thể từ 5 đến 10 năm.
Hình phạt bổ sung đối với 34 trường hợp có thể bao gồm phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản Cần lưu ý rằng hình phạt bổ sung này chỉ được áp dụng khi không có hình phạt tiền là hình phạt chính.
BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng, giúp luật hóa các dấu hiệu phạm tội, đảm bảo tính khoa học và thống nhất trong áp dụng pháp luật Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế, như việc quy định tội tổ chức đánh bạc và gá bạc trong cùng một điều luật, dẫn đến phân hóa trách nhiệm hình sự chưa cao Bên cạnh đó, việc định tội danh và quyết định hình phạt gặp khó khăn trong thực tiễn áp dụng, trong khi hình phạt tiền được quy định là hình phạt chính lại không đủ tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
So với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 và các sửa đổi bổ sung năm 2009, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có những điểm mới nổi bật, đặc biệt là về phạm vi áp dụng đối với chủ thể tội phạm Cụ thể, Điều 8 BLHS năm 2015 đã quy định rõ ràng hơn về dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý Hành vi này xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, cũng như các lĩnh vực như chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội Ngoài ra, tội phạm còn xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cùng với các lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà Bộ luật này quy định phải bị xử lý hình sự.
Chủ thể của tội phạm đánh bạc theo Bộ luật Hình sự năm 2015 bao gồm cả thể nhân và pháp nhân thương mại, mở rộng hơn so với quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 Bất kỳ ai trong xã hội, không phân biệt giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội hay thái độ chính trị, đều có thể tham gia tổ chức đánh bạc Điều này cho thấy sự đa dạng và phức tạp của chủ thể tội phạm trong lĩnh vực này, với nhiều mục đích và động cơ khác nhau.
Ngoài ra, trong mỗi tội đều có những quy định mới, cụ thể như sau:
* Đối với tội đánh bạc(Điều 248 BLHS năm 1999 và Điều 321 BLHS năm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 321, mức tiền đánh bạc để truy cứu trách nhiệm hình sự đã được nâng từ 2.000.000 đồng lên 5.000.000 đồng đối với người phạm tội lần đầu.
Thứ hai, khoản 1 Điều 321 bỏ hình phạt là phạt tiền Nâng mức phạt tù đối với người phạm tội từ 03 tháng đến 03 năm lên thành từ 06 tháng đến 03 năm.
Thứ ba, khoản 2 Điều 248 BLHS năm 2015 đã nâng mức khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm lên thành từ 03 năm đến 07 năm.
Thứ tư, Khoản 2 Điều 321 bổ sung tình tiết định khung tại điểm c: “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội”.
Thứ năm, khoản 3 Điều 321 đã nâng mức hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng lên 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
* Đối với tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 249 BLHS năm 1999 và Điều 322 BLHS năm 2015)
Thứ nhất, khoản 1 Điều 322 bổ sung một số tình tiết là dấu hiệu cấu
Tội phạm đánh bạc có 36 thành cơ bản, bao gồm: [a] Tổ chức và sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý để cho từ 10 người đánh bạc trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên với tổng giá trị từ 5.000.000 đồng; [b] Tổng giá trị tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc trong một lần phải từ 20.000.000 đồng, bao gồm cả việc tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia; [c] Lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc, phân công người canh gác, phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, và sử dụng phương tiện hỗ trợ cho hoạt động đánh bạc.
Sửa đổi tình tiết "thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn" tại điểm b khoản 2 Điều 249 BLHS năm 1999 thành "thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên" tại điểm b khoản 2 Điều 322 BLHS năm 2015 nhằm làm rõ định nghĩa về mức độ "lớn" và "đặc biệt lớn".
Thứ ba, nâng mức phạt tiền ở khoản 1 từ 10.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng”.
Sửa đổi hình phạt bổ sung tại khoản 3 Điều 249 BLHS năm 1999 từ “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” thành hình phạt bổ sung tại khoản 3 Điều 322 BLHS năm 2015, quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Th ự c ti ễ n áp d ụ ng pháp lu ậ t v ề t ội đánh bạ c, t ộ i t ổ ch ức đánh bạ c ho ặ c gá bạc của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
2.2.1 khái quát v ề tình hình t ổ ch ứ c và ho ạt độ ng xét x ử c ủ a tòa án nhân dân thành ph ố Đà Nẵ ng
Thành phố Đà Nẵng đã trải qua giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ, trở thành trung tâm kinh tế quan trọng của miền Trung – Tây Nguyên Ngoài ra, Đà Nẵng còn nổi bật trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
Nẵng có tất cả 06 quận (Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Sơn Trà, Cẩm
Đà Nẵng, bao gồm các quận như Lệ, Ngũ Hành Sơn và hai huyện Hòa Vang cùng huyện đảo Hoàng Sa, sở hữu sân bay quốc tế, ga tàu lửa, bến cảng, cùng hệ thống giao thông đường bộ hiện đại kết nối Bắc Nam Hiện tại, dân số thành phố đạt khoảng 1.5 triệu người.
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng được thành lập vào năm 1997, cùng với sự tách biệt của thành phố Đà Nẵng từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ Kể từ khi thành lập, cơ cấu tổ chức của tòa án đã hoạt động ổn định, hiện có hơn 60 cán bộ, công chức và người lao động, bao gồm 18 Thẩm phán, 23 Thư ký và 01 Thẩm tra viên Lãnh đạo Tòa án bao gồm 01 Chánh án và 03 Phó Chánh án, cùng với 05 Tòa chuyên trách: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động và Tòa Hành chính, cùng các phòng nghiệp vụ và Văn phòng.
Nẵng có 20 vị Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử theo đúng quy định pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình Họ phối hợp chặt chẽ với Tòa án và các Thẩm phán từ giai đoạn nghiên cứu hồ sơ đến khi kết thúc phiên tòa.
Đà Nẵng, trung tâm kinh tế miền Trung – Tây Nguyên, đang đối mặt với tình trạng đa dạng văn hóa và xung đột văn hóa gia tăng do lượng người nhập cư từ khắp nơi đổ về Tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội tại thành phố diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự gia tăng các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm đánh bạc, nhờ vào vị trí chiến lược của Đà Nẵng trên hành lang kinh tế Đông – Tây nối liền Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Trong công tác phòng chống tội phạm, các cơ quan chức năng tại Đà Nẵng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong việc phát hiện và xử lý kịp thời các vụ đánh bạc quy mô lớn Những nỗ lực này không chỉ đảm bảo thực thi pháp luật mà còn góp phần duy trì ổn định kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội tại thành phố.
Bảng 2.1 thống kê số vụ và số bị cáo phạm tội nói chung, so sánh với số vụ và số bị cáo phạm các tội về đánh bạc trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017 Dữ liệu này cho thấy sự biến động trong tình hình tội phạm và sự gia tăng của các vụ đánh bạc trong khoảng thời gian này.
Tình hình tội phạm nói chung
Các tội phạm về cờ bạc Tỷ lệ %
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
Nguồn:Văn phòng Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Bi ểu đồ 2.1 Bi ểu đồ th ố ng kê s ố v ụ án nói chung so sánh v ớ i s ố v ụ án v ề đánh bạc nói riêng trong giai đoạ n t ừ năm 2013 đến năm 2017
S ố vụ án h ình s ự đưa ra xét x ử
Số bị cáo đưa ra xét xử
Số vụ án đưa ra xét xử ph ạm các tộivề đánh bạc
S ố bị cáo đưa ra xét xử ph ạm các tội đánh bạc đưa ra xét xử
Từ năm 2013 đến năm 2017, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã thụ lý và giải quyết 287 vụ án liên quan đến tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, với tổng cộng 1151 bị cáo Các vụ án về đánh bạc chiếm tỷ lệ trung bình 12,5% trong tổng số vụ án được xét xử, trong khi số bị cáo phạm tội đánh bạc chiếm 23,1% trên tổng số bị cáo đưa ra xét xử.
Từ năm 2016 đến 2017, số vụ xét xử liên quan đến tội phạm đánh bạc đã tăng đáng kể, với 62 vụ vào năm 2016 và 75 vụ vào năm 2017 Dữ liệu và biểu đồ minh họa cho thấy xu hướng gia tăng cả về số lượng vụ án và số bị cáo trong các vụ đánh bạc.
2.2.2 Th ự c ti ễn đị nh t ội danh đố i v ớ i t ội đánh bạ c, t ộ i t ổ ch ức đánh b ạ c ho ặ c gá b ạ c c ủ a Tòa án nhân dân thành ph ố Đà Nẵng trong giai đoạ n t ừ năm 2013 đến năm 2017 và m ộ t s ố vướ ng m ắ c, b ấ t c ậ p
2.2.2.1 Th ự c ti ễn đị nh t ội danh đố i v ớ i t ội đánh bạ c, t ộ i t ổ ch ức đánh b ạ c ho ặ c gá b ạ c Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu
Định tội danh là quá trình đánh giá pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội, thể hiện ý chí của nhân dân trong luật pháp Việc định tội danh chính xác không chỉ bảo vệ lợi ích của xã hội, Nhà nước, con người và công dân, mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để đưa ra quyết định hình phạt đúng đắn Đây là hai giai đoạn then chốt trong công tác xét xử, giúp xác định đúng người, đúng tội.
Qua nghiên cứu thực tiễn về kết quả xét xử các tội liên quan đến đánh bạc tại thành phố Đà Nẵng, tác giả đã tổng hợp được bảng thống kê chi tiết.
Bảng 2.2 Bảng thống kê kết quả định tội danh về tội đánh bạc, tội tổ chứcđánh bạc hoặc gá bạc trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017
Các tội về cờ bạc
Tội tổ chức đánh bạc (Đ 249) Gá bạc (Đ 249)
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng, trong giai đoạn 05 năm có đến
Trong giai đoạn từ năm 2013 đến 2017, TAND thành phố Đà Nẵng đã xét xử 287 vụ án liên quan đến tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc, với 162 vụ/626 bị cáo bị kết án về tội đánh bạc, 119 vụ/708 bị cáo về tội tổ chức đánh bạc, và 16 vụ/16 bị cáo về tội gá bạc Các bản án đều được xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội và theo quy định pháp luật, không có trường hợp oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
2.2.2.2 Một số bất cập, vướng mắc khi định tội danh đối với tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
BLHS năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, đã xác định rõ các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc, cùng với Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 248 và Điều 249 BLHS Văn bản hiện hành là BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cung cấp cơ sở pháp lý quan trọng cho việc định tội danh Tuy nhiên, thực tiễn xét xử tại một số Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng vẫn gặp khó khăn trong việc xác định tội danh đối với các tội phạm về cờ bạc.
Một là, vướng mắc đối với việc xác định tiền hoặc hiện vật dùng đểđánh bạc
Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc được xác định từ các nguồn sau: a)