Lý do ch ọn đề tài
Văn học Việt Nam thời trung đại chủ yếu nổi bật với thơ ca, trong khi văn xuôi, mặc dù có nhiều thành tựu, vẫn chưa hoàn thiện bức tranh lịch sử văn học dân tộc Một phần lớn trong kho tàng văn học phong phú này được viết bằng chữ Hán, phản ánh sự vay mượn văn hóa để xây dựng nền văn học mới Sau chiến thắng của Ngô Quyền, chữ Hán trở thành yếu tố quan trọng trong việc hình thành văn hóa độc lập của dân tộc Nghiên cứu truyện văn xuôi chữ Hán, đặc biệt là truyện truyền kỳ, sẽ giúp khám phá di sản văn hóa và văn học phong phú của dân tộc Việt Nam.
Truyện truyền kỳ là thể loại văn xuôi tự sự đặc sắc của Việt Nam thời trung đại, chịu ảnh hưởng từ truyện kỳ ảo Trung Quốc nhưng phát triển độc lập, gắn liền với văn hóa và văn học dân tộc Thể loại này phản ánh nhiều vấn đề quan trọng trong đời sống thực tế và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn học Việt Nam Sự ra đời của truyện truyền kỳ đánh dấu bước tiến vượt bậc trong văn xuôi tự sự, đồng thời tôn vinh trí tuệ, khí phách, phẩm chất và tâm hồn của con người Việt Nam.
Các tác phẩm truyền kỳ trung đại đã phản ánh sâu sắc và sinh động bức tranh hiện thực cùng hình ảnh đời sống của con người Việt Nam.
Truyện truyền kỳ Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, đạt được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt về việc xác lập danh mục tác phẩm, lựa chọn bản dịch và đánh giá vai trò của thể loại này trong lịch sử văn học Việt Nam Tình trạng này ảnh hưởng đến việc nhận định đúng và đầy đủ về diện mạo cũng như thành tựu của tác phẩm truyền kỳ theo đặc trưng thể loại của nó.
Trong những năm gần đây, truyện truyền kỳ đã trở thành một thể loại văn học được các nhà nghiên cứu ở khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc và Triều Tiên, đặc biệt quan tâm.
Nhật Bản và Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, đặc biệt là từ các nước phương Tây, trong việc nghiên cứu thể loại truyện truyền kỳ Các nghiên cứu thường tập trung vào việc đánh giá lại các tác phẩm có ảnh hưởng lớn đến khu vực Đông Á và từng quốc gia cụ thể Hơn nữa, các học giả còn so sánh các tác phẩm tiêu biểu của mỗi nước để khám phá mối giao lưu, ảnh hưởng và sự tiếp thu sáng tạo giữa các nền văn hóa Bên cạnh đó, họ cũng nghiên cứu sâu về yếu tố kỳ ảo trong truyện truyền kỳ để làm rõ những đóng góp của thể loại này cho văn học hiện đại và hậu hiện đại.
Cần thiết phải nghiên cứu hệ thống di sản văn học truyền kỳ, từ việc xác lập tiêu chí đến việc lập danh mục và nghiên cứu văn bản học Mục tiêu là phân tích và đánh giá một cách khoa học để tái hiện diện mạo cũng như chỉ ra những nét đặc trưng nghệ thuật của truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại Đề tài luận án của chúng tôi được hình thành dựa trên nhận thức này.
M ục đích nghiên cứ u và nhi ệ m v ụ c ủ a lu ậ n án
Nghiên cứu truyện truyền kỳ thường chỉ tập trung vào từng tác phẩm cụ thể, thiếu một tiêu chí thống nhất Do đó, mục tiêu chính của luận án là xác định các đặc trưng cơ bản của những tác phẩm chứa yếu tố kỳ lạ và hoang đường, từ đó rút ra tiêu chí phù hợp cho thể loại truyện truyền kỳ và xây dựng danh mục cho nó.
Bài viết này sẽ nhận xét và đánh giá tổng quát về thể loại văn học trung đại, tập trung vào phương thức phản ánh hiện thực của văn học truyền kỳ và các giai tầng xã hội mà nó phản ánh Mục tiêu nghiên cứu là phục dựng diện mạo và làm nổi bật giá trị của thể loại truyền kỳ, đồng thời nêu rõ các đặc trưng nghệ thuật của thể loại này Luận án cũng sẽ khắc họa quá trình hình thành và phát triển của thể loại văn học truyền kỳ tại khu vực Đông Á trong bối cảnh giao lưu và sáng tạo văn hóa.
Các tác phẩm truyện truyền kỳ và truyện ký có yếu tố truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam đã trở thành một phần quan trọng trong chương trình giảng dạy Ngữ văn ở các cấp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Cao đẳng và Đại học Điều này cho thấy tính nghiệp vụ sư phạm của những đề tài này, góp phần làm phong phú thêm nội dung học tập cho học sinh và sinh viên.
Trong nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, thể loại truyền kỳ chưa được đánh giá đúng mức và thường bị gộp chung với các thể loại khác như bút ký và chí quái Luận án cần xác lập tiêu chí nhận diện rõ ràng cho thể loại truyền kỳ, đây là nhiệm vụ quan trọng, tạo cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo.
Trong việc xây dựng tiêu chí, chúng tôi tập trung vào việc kế thừa những thành tựu quý báu của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Việt Nam Điều này đặc biệt quan trọng vì truyện truyền kỳ Trung Quốc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến truyện truyền kỳ Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực Đông Á.
Việc xây dựng tiêu chí nhận diện các tác phẩm truyền kỳ cần bắt đầu bằng việc thống kê và phân tích ý kiến của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước Từ đó, chúng ta sẽ rút ra những yếu tố phù hợp, kết hợp với quan điểm riêng để hình thành tiêu chí Cuối cùng, sẽ tiến hành thống kê danh mục các truyện tương ứng với tiêu chí này để phục vụ cho công tác khảo sát.
Bài luận sẽ khảo sát các tác phẩm truyện truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam, bắt đầu từ việc tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của thể loại này, bao gồm hoàn cảnh và thời điểm truyện được du nhập vào Việt Nam, các giai đoạn phát triển của thể truyền kỳ, cũng như đội ngũ sáng tác Chúng tôi sẽ phân tích nội dung, hệ thống nhân vật, nghệ thuật, và phương thức phản ánh hiện thực xã hội của truyện truyền kỳ, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng từ Trung Quốc và các giá trị riêng của Việt Nam Cuối cùng, chúng tôi sẽ xem xét sự phát triển của nội dung và nghệ thuật của truyện truyền kỳ trong mối quan hệ với các nước Đông Á.
Đối tƣợ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u
Đề tài nghiên cứu tập trung vào việc khám phá diện mạo và đặc trưng nghệ thuật của truyện truyền kỳ và truyện ngắn có yếu tố truyền kỳ trong văn học Việt Nam thời trung đại, từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX Các tác phẩm tiêu biểu được đề cập bao gồm Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục, Thiền uyển tập anh ngữ lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục, và Lan Trì Kiến văn lục.
Ngoài các bản dịch riêng lẻ, những tác phẩm này còn được giới thiệu trong các tuyển tập quan trọng như "Truyện truyền kỳ Việt Nam" (3 tập) do Nguyễn Huệ Chi biên soạn và "Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam".
Trần Nghĩa (chủ biên) nhấn mạnh rằng để hiểu sâu sắc các tác phẩm văn học, chúng tôi không chỉ nghiên cứu văn bản trong nước mà còn mở rộng so sánh với các tác phẩm từ một số quốc gia trong khu vực cùng thời kỳ, nhằm có cái nhìn toàn diện về truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam.
Phương pháp nghiên c ứ u
Để thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp loại hình: nghiên cứu truyện truyền kỳ theo loại hình thể loại, đặc trưng thể loại Đây là phương pháp chủ yếu được luận án sử dụng
Phương pháp thống kê và phân loại chủ yếu dựa vào các bản dịch từ những dịch giả uy tín và các nghiên cứu chuyên sâu được công bố rộng rãi Phương pháp này giúp thống kê và phân loại các khía cạnh như nội dung, nghệ thuật, và lượng văn bản qua từng giai đoạn Mục tiêu là xác lập tiêu chí và đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan về từng văn bản truyện truyền kỳ trong mỗi tác phẩm.
Phương pháp so sánh - đối chiếu giúp phân tích các truyền kỳ trung đại Việt Nam với truyền kỳ trung đại Trung Quốc và Triều Tiên trên hai bình diện đồng đại và lịch đại Qua đó, chúng ta có thể nhận diện những nét tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hóa này.
Phương pháp cấu trúc – hệ thống là cách tiếp cận nghiên cứu truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam, tập trung vào các khía cạnh nội dung và nghệ thuật, đồng thời xem xét tính chỉnh thể đặc trưng của thể loại Phương pháp này cũng đặt truyện truyền kỳ trong bối cảnh quá trình sáng tác và phát triển của các thể loại khác trong văn học trung đại Việt Nam.
Thi pháp học là việc áp dụng cái nhìn mới vào nghiên cứu văn bản truyện truyền kỳ trung đại, xem xét các khía cạnh như con người, thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật.
Trong luận án, các phương pháp chủ yếu được sử dụng bao gồm phương pháp loại hình, phương pháp thống kê - phân loại và phương pháp so sánh - đối chiếu, trong khi các phương pháp khác chỉ đóng vai trò bổ trợ cho việc thực hiện đề tài.
Ý nghĩa lý luậ n và th ự c ti ễ n
Luận án sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc về thể loại truyện truyền kỳ thời trung đại Việt Nam, nhấn mạnh những đặc trưng riêng như tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân văn và cảm hứng thế sự, giúp phân biệt với truyện truyền kỳ của các quốc gia khác trong khu vực Bên cạnh đó, luận án cũng sẽ phân tích quá trình hình thành, phát triển đỉnh cao và sự thoái trào của thể loại văn học độc đáo này.
Luận án khai thác các giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm truyền kỳ trung đại Việt Nam, cho thấy chúng phản ánh xã hội đương thời một cách chân thật nhưng gián tiếp để tránh sự kiểm soát của chính quyền Yếu tố kỳ ảo và bút pháp ghi chép truyện của các tác giả đã tạo nên sức hấp dẫn cho các truyện truyền kỳ Qua đó, chúng ta hiểu thêm về các lớp trầm tích văn hóa ẩn tàng trong tác phẩm văn học, thể hiện nét độc đáo của thể loại truyền kỳ ở khu vực đồng văn Hán ngữ.
6 Đóng góp mới của luận án
Bài viết tổng quan về tình hình dịch thuật và nghiên cứu truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam từ trước đến nay, đồng thời tìm hiểu khái niệm, nguồn gốc và quá trình phát triển của thể loại này trong khu vực Đông Á và Việt Nam Luận án đã đưa ra các tiêu chí và thống kê phân loại nhằm xác lập các văn bản truyện truyền kỳ trong văn học Việt Nam.
Luận án khám phá đặc trưng của truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam qua lăng kính văn hóa tâm linh, nhấn mạnh sự hình thành của các yếu tố tâm linh trong thể loại này Nó chỉ ra những biểu hiện cụ thể như tín ngưỡng thờ Mẫu, hình tượng những người Mẹ, cũng như các chủ đề liên quan đến cái chết, giấc mộng, điềm báo, cầu cúng, khấn vái, sự linh ứng, hồn ma và sự hóa kiếp.
Luận án phân tích đặc trưng của truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam qua nghệ thuật biểu hiện, bao gồm các kiểu kết cấu, hình tượng nhân vật, mô tả thế giới siêu nhiên, cũng như không gian và thời gian trong từng câu chuyện, đồng thời nhấn mạnh việc sử dụng các mô típ dân gian.
Luận án phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam và truyện truyền kỳ khu vực Đông Á, thông qua cái nhìn đối sánh.
C ấ u trúc lu ậ n án
Luận án ngoài phần Mở đầu giới thuyết những vấn đề chung, trọng tâm của luận án được dàn dựng thành 4 chương như sau:
Chương 1 Tổng quan tình hình dịch thuật và nghiên cứu về truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam
Chương này tóm tắt những thành tựu của các nhà nghiên cứu trước đây, tạo nền tảng cho luận án kế thừa và từ đó bổ sung các kết quả nghiên cứu mới.
Chương 2 Khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển và tiêu chí xác lập truyện truyền kỳtrung đại Việt Nam
Chương này của luận án sẽ khám phá khái niệm thể loại, nêu rõ nguồn gốc và trình bày quá trình hình thành, phát triển cũng như xác lập tiêu chí của thể loại truyện truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam.
Chương 3 Đặc trưng truyện truyền kỳtrung đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa tâm linh
Chương này của luận án sẽ tập trung nghiên cứu đặc trưng của truyện truyền kỳ qua lăng kính văn hóa tâm linh, bao gồm khái niệm về văn hóa tâm linh, cơ sở hình thành các yếu tố tâm linh trong văn hóa và truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam, cùng với việc phân tích biểu hiện và ý nghĩa của các yếu tố tâm linh trong thể loại truyện này.
Chương 4 Đặc trưng truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam từ góc nhìn nghệ thuật và từ mối quan hệ với truyện truyền kỳ khu vực Đông Á
Chương này của luận án sẽ phân tích các đặc trưng nghệ thuật của truyện truyền kỳ, bao gồm các kiểu kết cấu, nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, và cách miêu tả thế giới siêu nhiên Ngoài ra, chương cũng sẽ xem xét không gian và thời gian trong truyện cũng như các môtip dân gian được sử dụng Mục tiêu là làm nổi bật những đặc điểm riêng của truyện truyền kỳ Việt Nam.
7 triển khai một mục so sánh truyện truyền kỳtrung đại Việt Nam với truyện truyền kỳ khu vực Đông Á với những nét tương đồng và dị biệt của nó
Cuối cùng là Kết luận
Những công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục: Bảng thống kê xác lập tiêu chí phân loại truyện truyền kỳ trung đại
TỔ NG QUAN TÌNH HÌNH D Ị CH THU Ậ T VÀ NGHIÊN C Ứ U V Ề
Quá trình truy ề n b ả n nguyên tác Truyền kỳ mạn lục
Văn bản Truyền kỳ mạn lục đã trải qua nhiều lần khắc in và sao chép Dựa vào tên gọi của các lần in, văn bản này có thể được phân chia thành hai nhóm chính: Cựu biên Truyền kỳ mạn lục và Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú.
Nhóm văn bản Cựu biên hiện chỉ còn một bản khắc in duy nhất, bao gồm 1 Tựa và 1 Mục lục, được khắc vào niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 8 (1712) Hiện nay, văn bản này đang được lưu giữ tại Đông Dương văn khố, Nhật Bản.
Nhóm văn bản Tân biên: căn cứ vào dòng ghi niên đại, hiện có 4 nhóm văn bản
* Bản Vĩnh Thịnh năm thứ 10 (1714), văn bản khắc in, hiện được lưu giữ tại Thư viện Bắc Kinh, Trung Quốc
* Bản Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737), văn bản khắc in, hiện được lưu giữ tại Thư viện Hiệp hội nghiên cứu châu Á, ký hiệu HM.2236
* Bản Cảnh Hưng năm thứ 24 (1763), gồm hai dạng khắc in và chép tay Cụ thể như sau:
Các bản khắc in mang ký hiệu R.1450-1453, đủ 4 quyển, 20 truyện, hiện được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia, Hà Nội
Các bản chép tay mang ký hiệu A.176/1-2; A.3201/1-4, cũng đủ 4 quyển, 20 truyện, hiện được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm
* Bản Cảnh Hưng năm thứ 35 (1774), gồm hai dạng khắc in và chép tay, cụ thể như sau:
Các bản khắc in có ký hiệu VNv.704, VNv.705, VNv.706, VNv.707 và VHv.1491/1-4 đều gồm 4 quyển và 20 truyện, hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Ngoài ra, bản mang ký hiệu HN.257-258 cũng được bảo quản tại Thư viện Viện Văn học Việt Nam.
Các bản chép tay gồm đủ 4 quyển và 20 truyện, được đánh số VNv.708, VNv.709, VNv.710, VNv.1840, hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Ngoài ra, còn có các bản lẻ hoặc bản khắc in như A.1021, cùng với các bản chép tay khác như VHv.1641.
Tình hình gi ớ i thi ệ u, d ị ch thu ật và đánh giá Truyề n k ỳ m ạ n l ụ c t ừ cu ố i th ế
thế kỷ XIX trở vềtrước
Bản dịch đầu tiên từ chữ Hán sang chữ Nôm của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là bản giải âm do Nguyễn Thế Nghi thực hiện vào nửa đầu thế kỷ XVI, người đồng thời với Nguyễn Dữ, mang tên Truyền kỳ mạn lục giải âm.
Diễn Nôm được coi là khởi nguồn của văn học dịch trong lịch sử văn học Việt Nam Hiện nay, bản diễn Nôm này đã được giáo sư Nguyễn Quang Hồng tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm phiên âm sang quốc ngữ và đã được xuất bản cũng như tái bản.
Nhận xét đánh giá đầu tiên về tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là
Hà Thiện Hán, một nhân vật cùng thời với Nguyễn Dữ, đã viết Lời Tựa vào tháng 7 năm 1547, trong bản Cựu biên Truyền kỳ mạn lục Trong tác phẩm này, ông đã đề cập đến Nguyễn Dữ và tập Truyền kỳ mạn lục, thể hiện sự tôn trọng và ghi nhận giá trị văn học của tác giả.
Ông là người chăm chỉ học hành từ thuở nhỏ, có niềm đam mê với văn chương và mong muốn xây dựng sự nghiệp từ đó Sau khi vượt qua kỳ thi Hương và nhiều lần thi đỗ trường thi Hội, ông được bổ nhiệm làm quan Tri huyện Thanh Tuyền Tuy nhiên, sau một năm công tác, ông đã quyết định từ quan để về nhà chăm sóc mẹ già, thể hiện lòng hiếu thảo Kể từ đó, ông không còn đặt chân đến thành phố mà dành thời gian soạn thảo tập truyện này, mong muốn gửi gắm tâm tư của mình qua từng trang viết.
Mười ông không ra ngoài "rào giậu" của Tông Cát, nhưng trong đó có ý khuyên răn và lời dạy dỗ, thực sự liên quan đến giáo hóa trong đời sống Điều này không phải là chuyện vặt vãnh hay tầm thường, mà mang ý nghĩa sâu sắc trong việc truyền đạt tri thức và văn hóa.
Hội thí trường tại huyện Tể Vu Thanh Tuyền nổi bật với tài năng xuất sắc, luôn chú trọng đến việc dưỡng mẫu và hiếu đạo Mặc dù không sống ở thành phố, nhưng ông vẫn để lại dấu ấn sâu sắc qua những tác phẩm văn chương Quan điểm của ông về văn học không chỉ dừng lại ở việc sáng tác mà còn thể hiện sự quan tâm đến cảnh giới và qui châm trong giáo dục Những ý tưởng này đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học đương thời.
Vũ Khâm Lân, trong bài Phả ký “Bạch vân am tiên sinh Nguyễn công Văn Đạt phả ký” viết vào mùa đông năm Kỷ Hợi (1743), đã ca ngợi tác phẩm Truyền kỳ mạn lục là một áng “thiên cổ kỳ bút”.
Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, Hải Dương, là con trai của Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1496) và từng giữ chức Thượng thư bộ Hộ Ông nổi bật từ nhỏ với trí thông minh và khả năng văn chương xuất sắc, thi đỗ Hương cống và trúng nhiều kỳ thi Hội Tuy nhiên, sau một năm làm Tri huyện Thanh Tuyền, ông xin từ chức để chăm sóc cha mẹ Khi triều đại nhà Mạc cướp ngôi, Nguyễn Dữ thề không ra làm quan, sống ẩn dật ở thôn quê và dạy học trò Ông để lại tác phẩm nổi tiếng "Truyền kỳ mạn lục" với ngôn từ thanh tao, được contemporaries ca ngợi.
Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển đã sử dụng các bài thơ từ nhân vật trong truyện Truyền kỳ mạn lục, ghi nhận Nguyễn Dữ là tác giả Ông tuyển chọn 4 bài thơ với 3 đầu đề, bao gồm bài số 3 và số 5 trong tổng số 10 bài, như bài thơ “Làm thay Từ Thức đề ở bức bình phong trắng tại nơi ở của nàng tiên Giang Hương” trong truyện Từ Thức lấy vợ Tiên, bài “Làm thay nữ học sĩ Kim Hoa đề núi Vệ Linh” từ Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa của Ngô Chi Lan, và bài “Mây núi, trăng núi” trong Nghiệp oan của Đào thị, kèm theo ghi chú phỏng theo thơ nhà sư Vô Kỉ và nàng Hàn Than.
Phan Huy Chú trong bộ bách khoa thư Lịch triều hiến chương loại chí, mục
Văn tịch chí đã giới thiệu sơ lược như sau: Truyền kỳ mạn lục, 4 quyển Dật sĩ Nguyễn
Dữ soạn là một tác phẩm mang tính chất bắt chước Tiễn đăng tân thoại của một nhà nho thời Nguyên, bao gồm 22 truyện Nhân vật chính là Dữ, một người sống ở Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc, và là con trai của Tiến sĩ Tường Phiêu (Tập 4, bản dịch, trang 121).
Tình hình d ị ch thu ậ t và nghiên c ứ u truy ệ n truy ề n k ỳ t ừ đầ u th ế k ỷ XX đế n năm 1975
Về các bản Việt dịch Truy ề n k ỳ m ạ n l ụ c
Bản dịch sang quốc ngữ đầu tiên được thực hiện bởi Cát Thành, với 12 truyện nổi bật được xuất bản bởi nhà in Thạch Thái Bưởi tại Hà Nội vào năm 1912 Những tác phẩm này bao gồm: Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Mộc miên thụ truyện, Tây viên kỳ ngộ ký, Đà Giang dạ ẩm ký, Từ Thức tiên hôn lục, Đông Triều phế tự lục, Long đình đối tụng lục, và Phạm Tử Hư du Thiên tào lục.
Tản Viên từ Phán sự lục, Dạ Xoa bộ suý lục, Nam Xang nữ tử truyện, Đào thị nghiệp oan ký
Trúc Khê Ngô Văn Triện đã hoàn thành bản dịch đầy đủ tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục", lần đầu được công bố vào năm 1935 Bản dịch này sau đó được đăng trên Phổ thông bán nguyệt san trong các số 124, 125 tháng 2-1943 và số 126 tháng 3-1943 Năm 1952, tác phẩm được Nxb Tân Việt, Sài Gòn in lại và đã trải qua nhiều lần tái bản sau đó.
Bản dịch của Trúc Khê, được xuất bản lần đầu năm 1957 bởi Nxb Văn hoá và sau đó tái bản bởi Nxb Văn học năm 1971 và Nxb Trẻ TP HCM năm 1989, đã được các nhà nghiên cứu và độc giả công nhận là bản dịch tốt nhất Bản dịch này không chỉ được lưu hành rộng rãi mà còn được sử dụng trong sách giáo khoa và giáo trình ở các cấp học để giảng dạy.
Lê Huy Hạp đã dịch tác phẩm "Người thiếu phụ Nam Xương" cùng một số truyện truyền kỳ khác sang tiếng Anh, tạo nên cuốn sách "The Lady of Nam Xương and Other Vietnamese Legends", được xuất bản bởi nhà in Phan Thanh Giản tại Sài Gòn vào năm 1957.
Tại Sài Gòn, Thứ Lang Bùi Xuân Trang đã dịch tác phẩm "Tân biên Truyền kỳ mạn lục" thành hai quyển, với quyển thượng được in vào năm 1962 và quyển hạ vào năm 1963, do Bộ Quốc gia Giáo dục phát hành.
Một số câu chuyện trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục đã được dịch sang tiếng Pháp, nổi bật là Khoái Châu nghĩa phụ truyện do Phạm Duy Khiêm dịch và Từ Thức tiên hôn lục.
1 Ch ỗ này thì c ụ Phan Huy Chú ghi nh ầ m, th ự c t ế Truyền kỳ mạn lục ch ỉ có 20 truy ệ n, g ồ m 4 quy ể n, m ỗ i quy ể n chép 5 truy ệ n
12 bố lần đầu vào năm 1944 và 1951 tại Pháp Tiếp theo, Bùi Quang Tung dịch truyện
Bài viết "Tây viên kỳ ngộ ký" được đăng trên Tạp chí của Hiệp hội nghiên cứu Đông Dương vào năm 1955 tại Sài Gòn Nguyễn Trần Huấn đã dịch tác phẩm "Mộc miên thụ truyện" và công bố vào năm 1959 tại Paris bởi Nxb Club Français.
Dịch giả đã sử dụng bản in năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763) để dịch 20 truyện trong 4 quyển của Truyền kỳ mạn lục, được Nxb Gallimard (Pháp) xuất bản năm 1962 và Nxb Thế giới (Việt Nam) in lại năm 1994, đồng thời tham khảo bản Vĩnh Thịnh năm thứ 8 (1712) Tại Nga, tác phẩm này cũng đã được dịch và giới thiệu bởi Tchakov, với bản tiếng Nga được Nxb Thế giới (Việt Nam) công bố vào năm 1981.
Về các bản Việt dịch và tình hình nghiên cứu các tác phẩm truyền kỳ và truyện ký mang yếu tố truyền kỳ
Trước năm 1975, đã có nhiều bản dịch các tác phẩm truyện truyền kỳ và truyện ký mang yếu tố truyền kỳ sang tiếng Việt chữ Quốc ngữ Một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Lĩnh Nam chích quái," một tập truyện cổ dân gian Việt Nam được sưu tầm từ thế kỷ XV bởi Vũ Quỳnh, cùng với "Kiều Phú," được dịch và giới thiệu bởi Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San vào năm 1960 tại Hà Nội.
Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp do Lê Hữu Mục dịch năm 1960 ở Sài Gòn;
Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên được dịch bởi Lê Hữu Mục vào năm 1960 tại Sài Gòn, trong khi đó, Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề đã được Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch vào năm 1961 cũng tại Sài Gòn.
Thánh Tông di thảo, do Nguyễn Bích Ngô dịch và Lê Sĩ Thắng giới thiệu vào năm 1963 tại Hà Nội, là một tác phẩm quan trọng Năm 1968, Nxb Giáo dục Hà Nội phát hành Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm Ngoài ra, Thứ Lang Bùi Xuân Trang cũng đã dịch Tân biên Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.
Tựnăm 1970 ở Sài Gòn; Việt điện u linh của Lý TếXuyên được Nxb Văn học, Hà Nội ấn hành năm 1972, v.v
Thể loại truyện truyền kỳ được lý thuyết hóa trong tác phẩm "Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa" của Nguyễn Huy Khánh, xuất bản năm 1959 Sau đó, Nguyễn Hiến Lê đã bổ sung và phát triển lý thuyết này trong bộ "Văn học sử Trung Quốc" (3 tập) xuất bản tại Sài Gòn, mang đến cái nhìn sâu sắc hơn về thể loại này.
Dương Quảng Hàm trong tác phẩm "Việt Nam văn học sử yếu" (hoàn thành năm 1941) đã đề cập đến tập truyện của Nguyễn Dữ trong phần Thiên thứ ba: Thời kỳ Lê, Mạc, chương thứ 5, mục C Văn truyện ký Ông nhận xét rằng mặc dù những câu chuyện này chứa đựng nhiều yếu tố hoang đường và quái đản, nhưng vẫn có giá trị trong việc phản ánh văn hóa và tư tưởng của thời kỳ đó Tác phẩm được xuất bản lần đầu bởi Đông Pháp ở Hà Nội năm 1943 và sau đó được Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn tái bản vào năm 1960.
13 cũng là tài liệu quý để ta khảo cứu về phong tục và tín ngưỡng của dân ta” (tr 244 –
Trong quyển 2 của "Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam" do Ban Văn Sử Địa (Văn Tân, Nguyễn Hống Phong, Nguyễn Đổng Chi) biên soạn và xuất bản năm 1958, phần thứ tư, mục III đề cập đến Văn học chữ Hán, trong đó tiểu mục D do Nguyễn Đổng Chi viết, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các loại truyện trong văn học thời kỳ này (tr 159).
166), với các nội dung: tác giả, tác phẩm; nội dung tư tưởng, tính chất trữ tình, giá trị tác phẩm
Bùi Văn Nguyên và Phan Sĩ Tấn là những tác giả của bộ sách "Lịch sử văn học Việt Nam", tập 2, xuất bản năm 1961 và tái bản lần 5 vào năm 1978, được sử dụng làm giáo trình chung cho Khoa Ngữ văn tại các Trường Đại học Sư phạm Trong chương III của Giai đoạn III, tác giả Nguyễn Dữ được giới thiệu với một phần đáng kể, nêu bật giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị thẩm mỹ của tác phẩm Đây được coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong thể loại văn truyền kỳ của văn học cổ Việt Nam.
KHÁI NIỆ M, TIÊU CHÍ XÁC L Ậ P, NGU Ồ N G Ố C VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRI Ể N TRUY Ệ N TRUY Ề N K Ỳ TRUNG ĐẠ I
Khái ni ệ m Truy ệ n truy ề n k ỳ
Thuật ngữ truyện truyền kỳ ban đầu chỉ là tên gọi của một tập sách có tên là
Truy ề n k ỳ do Bùi Hinh và một số tác giả thời Trung Đường (thế kỷ VIII – IX, Trung
Tập sách này chứa đựng nhiều truyện hấp dẫn như Côn Lôn Nô, Viên Thị Truyện và Nhiếp Ẩn Nương Sau này, các nhà nghiên cứu đã sử dụng tên gọi "truyền kỳ" để chỉ những truyện có cùng kiểu viết, từ đó hình thành một thể loại truyện ngắn trung đại đặc trưng của Trung Quốc.
T ừ đ i ể n thu ậ t ng ữ văn họ c (tái bản 1999) do Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi và
Trần Đình Sử (chủ biên) cho rằng: "tiểu thuyết truyền kỳ" còn gọi là truyện truyền kỳ,
Thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc, được hình thành vào thời Đường, được gọi là tiểu thuyết truyền kỳ vào cuối thời kỳ này Từ "Kỳ" mang ý nghĩa không có thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu của thể loại Ban đầu, tiểu thuyết truyền kỳ mô phỏng các truyện chí quái thời Lục triều, sau đó phát triển độc lập với nhiều loại hình khác nhau Có những tác phẩm mô tả cuộc đời biến ảo mơ mộng như "Nam Kha thái thú truyện", ca ngợi tình yêu nam nữ như "Chương Đài liễu truyện", và miêu tả hào sĩ hiệp khách như "Hồng Nhiễm khách truyện" Hai tác phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết truyền kỳ trong văn học Việt Nam là "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ và "Truyền kỳ tân phả" của Đoàn Thị Điểm.
Theo Trần Đình Sử trong Thi pháp văn học trung đạ i Vi ệ t Nam (1999, tái bản
Theo các học giả Trung Quốc, thuật ngữ "truyền kỳ" ra đời vào thời Đường, Tống, đánh dấu sự phát triển của tự sự nghệ thuật Hai chữ "truyền kỳ" mang ý nghĩa về sự yêu thích cái lạ và chứa đựng nhiều thể loại như sử, thơ, và nghị luận Về phong cách, truyện truyền kỳ sử dụng văn xuôi để kể chuyện, kết hợp với văn biền ngẫu khi miêu tả cảnh vật và nhân vật, đồng thời thường làm thơ khi nhân vật bộc lộ cảm xúc Đến thời Minh, Thanh, tên gọi "truyền kỳ" trở thành thuật ngữ chuyên biệt chỉ thể loại hý khúc.
Phạm Văn Thắm trong luận án Phó Tiến sĩ năm 1996 đã nghiên cứu và đánh giá thể loại truyện truyền kỳ viết bằng chữ Hán Việt Nam thời trung đại Ông cho rằng từ "truyền kỳ" có nguồn gốc Hán, mang nghĩa là truyền tải một sự lạ Ở Việt Nam, khái niệm này được hiểu theo nhiều cách khác nhau: có thể dựa vào tính chất câu chuyện, đặc điểm thể loại ở từng thời kỳ, lịch sử hình thành truyện, hoặc coi truyền kỳ là một thể loại ngắn hay một loại văn xuôi tự sự thiếu yếu tố kỳ lạ Trong khi đó, ở Trung Quốc, thuật ngữ này ám chỉ một loại truyện mang nội dung "kỳ văn dị sự" và thể loại văn học viết bằng văn ngôn.
Nguyễn Đăng Na trong tác phẩm "Đặc điểm văn học trung đại - Những vấn đề văn xuôi tự sự" (2002) cho rằng truyện truyền kỳ là hình thức văn học tập trung vào con người, làm đối tượng và trung tâm phản ánh Hình thức kỳ ảo được sử dụng như một phương thức chuyển tải nội dung, giúp người đọc cùng nhân vật trải nghiệm những cuộc phiêu lưu trong thế giới ảo huyền, khám phá bốn cõi không gian và hành trình trong thời gian phi tuyến tính.
Một số nhà nghiên cứu khác như Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Quang Ân trong
Truyền kỳ Việt Nam (1995) định nghĩa rằng truyền kỳ có nghĩa là kể lại những sự lạ, bao gồm các câu chuyện về thần thánh, ma quỷ và những thông tin khác biệt với thực tại Những vấn đề huyền ảo, mộng mị đều được coi là kỳ lạ, nhưng không phải thần thoại mà gần gũi với cổ tích Các nhà Nho đã ghi chép lại nhiều câu chuyện lạ với thái độ nửa tin nửa ngờ, tạo nên những tác phẩm như "Thính văn dị lục".
Theo T ừ điển văn họ c (bộ mới, 2004), Nguyễn Huệ Chi đã quan niệm:
Truyện truyền kỳ là thể loại văn xuôi cổ điển của Trung Quốc, phát triển từ truyện dân gian và được nâng tầm thành văn chương bác học Thể loại này sử dụng các mô típ kỳ quái và hoang đường, kết hợp với cốt truyện mang ý nghĩa trần thế để kích thích trí tưởng tượng của người đọc Mặc dù được gọi là tiểu thuyết, nhưng truyện truyền kỳ có dung lượng ngắn và cấu trúc không giống như tiểu thuyết dài, gần giống với truyện ngắn hiện đại Yếu tố thần kỳ trong truyện không phải do các lực lượng tự nhiên được nhân hóa như trong thần thoại, mà thường liên quan đến những nhân vật có phép thuật như thần, tiên, khác với truyện cổ tích.
Trong nhiều tác phẩm văn học, nhân vật thường được thể hiện dưới hình thức phi nhân tính như ma quỷ, hồ ly hay vật hóa người Tuy nhiên, bên cạnh đó, luôn tồn tại những nhân vật là con người thật Những hình thức phi nhân này thường chỉ là sự cách điệu và phóng đại tâm lý, tính cách của một loại người nào đó, tạo nên chiều sâu cho câu chuyện.
Truyện truyền kỳ là thể loại văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, bắt nguồn từ những câu chuyện thần linh và kỳ dị trong dân gian Khi được du nhập vào Việt Nam, thể loại này giữ nguyên hình thức nhưng nội dung hoàn toàn do các tác giả Việt Nam sáng tác, dựa trên truyền thống văn hóa dân tộc và trí tưởng tượng phong phú Các tác phẩm truyện truyền kỳ thường chứa đựng nhiều yếu tố kỳ ảo, hoang đường, nhưng lại phản ánh tư tưởng hướng về cuộc sống thực tế Thế giới trong truyện được coi là bản sao của thế giới thực, với các yếu tố huyền ảo nhằm nêu cao ước mơ và khát vọng của con người trong xã hội đương thời.
Truy ệ n truy ề n k ỳ khu v ực Đông Á và vai trò c ủ a Tiễn đăng tân thoại trong ti ế n trình phát tri ể n th ể lo ạ i truy ề n k ỳ khu v ực Đông Á
2.2.1 Khái quát v ề s ự hình thành truy ệ n truy ề n k ỳ khu v ực Đông Á
Trần Ích Nguyên trong công trình Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục đã chỉ ra rõ ràng các nguồn gốc của truyện truyền kỳ Đầu tiên, truyện truyền kỳ là sự mô phỏng của thần thoại và chí quái giai đoạn trước, thể hiện qua đề tài, kết cấu và cốt truyện Thứ hai, nó còn bắt nguồn từ thơ văn và truyện ký trước đó, với nhiều chi tiết và tình tiết được lấy từ kho từ điển, điển cố của các tác phẩm trước Thứ ba, nguồn gốc của truyện truyền kỳ cũng bao gồm các ghi chép về truyền thuyết dân gian địa phương, do tác giả tự sưu tầm và huyền thoại hóa Cuối cùng, khả năng tưởng tượng của tác giả là nguồn gốc quan trọng mà ít nhà nghiên cứu đề cập đến; dù có sự kế thừa từ các tác phẩm trước, giá trị của tác phẩm vẫn nằm ở tài năng và trí tưởng tượng của tác giả, như trong trường hợp Long đình đối tụng lục của Nguyễn Dữ với motif diệt trừ nhân vật ở thế giới khác dưới Long cung, điều này không tìm thấy trong các tác phẩm truyền kỳ khác.
Vương Tiểu Thuẫn trong bài viết "Việt Nam tiểu thuyết tùng san và vấn đề văn hiến" trên Tạp chí Hán Nôm (số 1/2000) nhận định rằng tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam có nguồn gốc từ chuyện chí quái và tiểu thuyết truyền kỳ thời trung cổ của Trung Quốc Đặc điểm nổi bật của thể loại này là sự kết hợp nhiều yếu tố hư cấu, với quy mô mỗi thiên truyện thường không dài và thường được tập hợp thành nhiều thiên Tác giả cũng đã thống kê các chuyện kể thuộc loại truyện mang yếu tố truyền kỳ, bao gồm các tập truyện dân gian, bút ký tiểu thuyết, thần thoại, truyền thuyết, và truyện kể về thần linh trong giai đoạn trung đại.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng thuận rằng nguồn gốc của truyện truyền kỳ Việt Nam là sự kết hợp giữa các ảnh hưởng từ truyện truyền kỳ Trung Quốc.
Truyện truyền kỳ Việt Nam, một thể loại văn học độc đáo, thể hiện sự vay mượn từ các truyện dân gian và thần thoại, mang đến sức sống mới cho nền văn hóa dân tộc Sự sáng tạo tuyệt vời của các tác giả đã làm cho những câu chuyện này trở nên lung linh và hấp dẫn, phản ánh sâu sắc bản sắc văn hóa Việt Nam.
2.2.1.1 Truyện truyền kỳ Trung Quốc
Theo các nhà nghiên cứu, truyền kỳ là một thể loại văn xuôi nghệ thuật xuất hiện sớm trong văn học cổ điển Trung Quốc, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các thể loại văn học ở Đông Á Ban đầu, thuật ngữ "tiểu thuyết" và "truyền kỳ" được sử dụng để chỉ hiện tượng văn học này, nhưng không mang ý nghĩa khoa học như ngày nay "Tiểu thuyết" chỉ những câu chuyện vặt vãnh, trong khi "truyền kỳ" thường mang tính mỉa mai, châm biếm, phản ánh những truyện hoang đường, không đáng tin và không liên quan đến đạo đức.
Hiện nay có ba quan điểm khác nhau về nguồn gốc của thể loại truyền kỳ ở Trung Quốc:
Một số học giả cho rằng nguồn gốc của truyền kỳ xuất phát từ các sự tích lịch sử và truyện ngắn vào thế kỷ VIII - IX trong văn học Trung Quốc Quan điểm này nhấn mạnh tính chất văn - sử - triết không thể tách rời trong thời kỳ trung đại.
+ Loại quan điểm thứ hai: Những người thuộc quan điểm này cho rằng nguồn gốc của truyện truyền kỳ là xuất phát từ truyện kểđời Đường
Theo quan điểm thứ ba, các nhà nghiên cứu cho rằng nguồn gốc của truyền kỳ xuất phát từ văn xuôi cổ đại Trung Quốc trong khoảng thời gian từ thế kỷ III đến VI.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng truyện truyền kỳ ở Trung Quốc đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, bắt đầu từ thời kỳ đầu đời Đường Sự phát triển của truyện truyền kỳ trong thời kỳ này có thể được chia thành ba giai đoạn chính.
+ Thời sơ Đường (618 – 741): Đây là giai đoạn hình thành truyện truyền kỳ
Nội dung của các tác phẩm trong thời kỳ này rất đa dạng, bao gồm những câu chuyện về tình yêu kỳ lạ, truyện thần tiên và những tác phẩm với động vật được nhân cách hóa Bút pháp trong các truyện truyền kỳ chủ yếu thiên về ghi chép, với ít sự sáng tạo.
Thời kỳ trung Đường (742 – 820) đánh dấu giai đoạn phát triển rực rỡ của thể loại truyền kỳ, với nội dung có nhiều biến chuyển lớn Các tác phẩm trong thời gian này chủ yếu xoay quanh chủ đề về chốn quan trường, khát vọng tình yêu và lịch sử Đồng thời, chúng phản ánh tính hoang dâm vô độ của tầng lớp thống trị và thể hiện sự bất mãn của các tác giả đối với chính sách đương thời.
+ Thời vãn Đường: (821 – 907): Ở giai đoạn này, thể loại truyền kỳ đã đi vào thoái trào
Truyện truyền kỳ Trung Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ thời Tống, Nguyên đến Minh, Thanh Trong thời kỳ Tống - Nguyên, thể loại này rơi vào tình trạng suy thoái, nhưng đến thời Minh, truyện truyền kỳ lại phục hồi và phát triển mạnh mẽ, với các tác phẩm nổi bật như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu và Tiễn đăng dư thoại của Lý Xương Kỳ Đặc biệt, Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh đã trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất Những tác phẩm này thường bao gồm các truyện ngắn, ghi chép theo phong cách tương tự như truyện truyền kỳ thời Đường, và được coi là nền tảng cho sự ra đời của các kiệt tác sau này Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật của thể loại truyện truyền kỳ dựa trên quá trình phát triển của nó.
+ Truyện truyền kỳ Trung Quốc ở đời Tống đã cho thấy yếu tố ma quỷ thần quái là đặc điểm cơ bản của truyền kỳ
Hình tượng nhân vật trong thể loại truyền kỳ được khắc họa sâu sắc cả về nội dung lẫn hình thức, thể hiện rõ nét đặc trưng nghệ thuật của thể loại này.
2.2.1.2 Truyện truyền kỳ Triều Tiên
Như chúng ta đã biết Triều Tiên thời trung cổ thuộc khối đồng văn Đông Á, có sựtương đồng vềvăn hóa với Việt Nam và các nước khu vực
Theo các nhà nghiên cứu, từ thế kỷ XV, Triều Tiên đã trải qua những biến đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội nhờ vào các cải cách của triều đại phong kiến Thế kỷ XV cũng đánh dấu một bước chuyển mình đáng kể trong văn học Triều Tiên.
Văn xuôi tự sự Triều Tiên từ khi ra đời đã chia thành hai dạng chính: một là dựa vào truyện tiếu lâm trong văn học dân gian, và hai là dựa vào nguồn thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, tạo nên thể loại truyền kỳ Khi nhắc đến thể loại này, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến tác phẩm Kim Ngao tân thoại của Kim Si Seup (Kim Thời Tập), một tác phẩm truyền kỳ xuất hiện sớm vào thế kỷ XV và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu thời Minh.
2.2.1.3 Truyện truyền kỳ Nhật Bản Ở Nhật Bản, từ cuối thế kỷ XII đã xuất hiện thể loại truyện kể được kể bởi những nghệ sĩ lãng tử dưới hình thức trường ca sử thi Từđầu thế kỷXIV đến thế kỷ XVI văn học Nhật Bản đã thực sự tồn tại một loại văn xuôi nghệ thuật khác rất xa với dòng chảy tư tưởng chung của thời đại này Đó là truyện ngắn, trong đó một số có nguồn gốc folklore với những cốt truyện cổ tích, một số khác lấy các cốt truyện từvăn học cổ điển Nhật Bản, từ những Phật thoại và cuối cùng là từ văn học Trung Quốc Đến thế kỷ XVI nhiều truyện trong sốđó – khoảng gần ba trăm truyện –được ghi chép và được xuất bản bằng các văn bản khắc ván Đó là hình thức ban đầu của truyện ngắn Nhật Bản
Quá trình hình thành và phát tri ể n c ủ a truy ệ n truy ề n k ỳ trung đạ i Vi ệ t Nam
Truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam, như bao hiện tượng khác trong cuộc sống, đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, bao gồm sự hình thành, thời kỳ cực thịnh, thoái trào và cuối cùng là suy vong.
Giai đoạn thế kỷ X - XIV, văn xuôi tự sự vẫn gắn liền với văn học dân gian và văn học chức năng, thể hiện đặc điểm văn - sử không phân biệt Trong giai đoạn này, hai loại tác phẩm chủ yếu được ghi chép là truyện dân gian và truyện lịch sử, truyện tôn giáo Văn xuôi, đặc biệt là truyện truyền kỳ, đóng vai trò quan trọng, tạo nền tảng cho văn xuôi trung đại về nội dung và tư duy nghệ thuật Nội dung tác phẩm khẳng định nước Đại Việt là quốc gia độc lập, có lịch sử lâu dài và tương lai bền vững Về mặt nghệ thuật, truyện truyền kỳ dựa vào truyện dân gian, sử dụng chúng làm cơ sở để phát triển và sáng tạo các môtip trong các tác phẩm tiếp theo.
Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên khắc họa hình tượng nhân vật bằng bút pháp kỳ vĩ, tạo nên một tác phẩm mang tính chất thần tích Câu chuyện được cấu trúc như một bảng thần tích, thể hiện rõ nét linh hồn của đất nước.
Việt là tập truyện đầu tiên sử dụng bút pháp truyền kỳ, đánh dấu giai đoạn khởi đầu cho sự phát triển của thể loại này Cuối thế kỷ XIV, tác phẩm Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp xuất hiện, mang đậm tính sáng tạo và kết hợp giữa yếu tố dân gian và thực tế đời thường với yếu tố "kỳ" Việt điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái lục được coi là những nền tảng văn học quan trọng cho thể loại truyền kỳ, trong khi Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp là những nhà văn tiên phong trong việc xây dựng truyện truyền kỳ ở Việt Nam Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phát triển của nhiều truyện cao tăng trong các tác phẩm.
Thiền uyển tập anh ngữ lục cũng có nhiều chi tiết lạ hoá, kỳ ảo, tức chúng được viết theo bút pháp truyện truyền kỳ
Vào thế kỷ XV, truyện truyền kỳ đã có sự bùng nổ, chuyển từ hình thức dân gian và tôn giáo sang một thể loại văn học mới, đánh dấu bước tiến trong văn xuôi tự sự Việt Nam Giai đoạn này, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI, được coi là kỷ nguyên của truyện truyền kỳ, với những tác phẩm mang tính dân tộc và phản ánh hiện thực xã hội đương thời Hai tác phẩm nổi bật là Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục đã thành công trong việc đưa văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật, tập trung vào con người làm đối tượng và trung tâm phản ánh.
Năm 34 đánh dấu một bước nhảy vọt trong nghệ thuật văn xuôi tự sự Việt Nam, khi yếu tố kỳ ảo được sử dụng có ý thức như một phương tiện nghệ thuật để truyền tải những ý nghĩa xã hội sâu sắc Lần đầu tiên, con người được thể hiện như một cá thể độc lập với số phận riêng, trong không gian rộng lớn bao gồm thiên tào, địa ngục, trần thế và cả giấc mơ Thời gian trở nên phi tuyến tính, linh hoạt và có thể thay đổi theo ý đồ của tác giả, cho phép nhân vật tự do di chuyển giữa các không gian Thế giới nhân vật phong phú, đa dạng, nơi mà ảo và thực, cao thượng và thấp hèn, ma quỷ và thần tiên hòa quyện Đặc biệt, sự kết hợp giữa thơ ca và văn xuôi đã mở rộng chiều sâu phản ánh hiện thực, tạo nên nét riêng biệt cho văn xuôi tự sự từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI.
Vào thế kỷ XVII, văn học Việt Nam chứng kiến sự chuyển mình khi các tác phẩm văn xuôi tự sự bằng chữ Hán vắng bóng, nhường chỗ cho văn vần tự sự bằng chữ Nôm, đặc biệt là sự xuất hiện của thể loại diễn ca lịch sử.
Giai đoạn thế kỷ XVIII - XIX chứng kiến sự chuyển biến mạnh mẽ trong thể loại truyện truyền kỳ do thay đổi trong quan điểm sáng tác Thời kỳ này đầy biến động lịch sử, khiến các tác giả tập trung vào hiện thực Văn xuôi tự sự trở thành công cụ hiệu quả để phản ánh chân thực "người thật, việc thật" Với quan điểm sáng tác mới, truyện truyền kỳ truyền thống không còn đủ điều kiện phát triển, đòi hỏi cải tiến phù hợp Vũ Trinh đã không gọi tác phẩm của mình là "truyền kỳ" mà đổi thành "kiến văn lục", ghi chép những điều mắt thấy tai nghe Một số tác giả, như Đoàn Thị Điểm với "Truyền kỳ tân phả" hay Gia Phú với "Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập", đã thể hiện sự cách tân trong nhan đề tác phẩm của họ.
Cát và Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích thể hiện sự cách tân trong truyện truyền kỳ của các tác giả thế kỷ XVIII - XIX Mặc dù có sự tiến bộ từ góc độ hiện thực, nhưng về mặt nghệ thuật, đây lại là một bước thụt lùi Sự gia tăng yếu tố thực tiễn đã làm giảm bớt tính kỳ ảo, dẫn đến việc giảm sức hấp dẫn của các tác phẩm.
Trong giai đoạn này, các tác giả truyện truyền kỳ đã tích hợp thơ ca vào văn xuôi theo hai hướng khác nhau Một số tác giả, như Đoàn Thị Điểm trong tác phẩm Truyền kỳ tân phả, đã đưa vào quá nhiều thơ, trong khi những tác giả khác như Vũ Trinh trong Lan Trì Kiến văn lục lại lựa chọn giản lược tối thiểu Điều này phản ánh xu hướng phát triển của văn xuôi truyền kỳ, hướng tới việc hình thành các thể loại văn học mang đậm chất riêng.
Từ cuối thế kỷ XIX, truyện truyền kỳ không còn phát triển do tư duy văn học của người Việt đã chuyển sang giai đoạn cận hiện đại Mặc dù yếu tố kỳ ảo vẫn xuất hiện trong các thể loại văn học khác như văn học viễn tưởng và huyền thoại, nhưng bản chất của chúng khác biệt hoàn toàn so với truyện truyền kỳ.
Truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam, trong suốt gần mười thế kỷ tồn tại, đã trải qua nhiều biến chuyển và thăng trầm, mang lại cả giá trị tích cực lẫn hạn chế Dù vậy, thể loại này vẫn đóng góp những thành tựu đáng kể, góp phần làm phong phú và đa dạng nền văn học Việt Nam.
Xác l ậ p tiêu chí truy ệ n truy ề n k ỳ trung đạ i Vi ệ t Nam và ph ạ m vi tác ph ẩ m đƣợ c kh ả o sát
2.4.1 Xác l ậ p tiêu chí truy ệ n truy ề n k ỳ trung đạ i Vi ệ t Nam Ởđây, chúng tôi đồng ý với các tiêu chí do Phạm Văn Thắm xác lập trong luận án Phó Tiến sĩ Nghiên c ứu văn bản và đánh giá thể lo ạ i truy ề n k ỳ vi ế t b ằ ng ch ữ Hán Vi ệ t Nam th ời trung đạ i Qua sự khảo sát cẩn trọng, tác giả xác lập ba tiêu chí cho truyện truyền kỳnhư sau:
- Tiêu chí đầu tiên là ở yếu tố “kỳ” thể hiện trong nội dung câu truyện Yếu tố này thể hiện dưới hình thức nhân hóa và thần kỳ hóa
- Tiêu chí thứ hai là ở yếu tố “hư cấu” Nghệ thuật hư cấu thể hiện chủ yếu ở việc khắc họa hình tượng nhân vật
Tiêu chí thứ ba trong truyện truyền kỳ là phương thức sáng tác, trong đó tác giả đóng vai trò là người điều khiển, chi phối toàn bộ ngôn từ của nhân vật.
Có thể khẳng định rằng, trong số các truyện mang yếu tố thần kỳ và quái dị, những truyện đáp ứng đủ ba tiêu chí đã nêu sẽ được xếp vào thể loại truyền kỳ.
2.4.2 Ph ạ m vi tác ph ẩ m đượ c kh ả o sát
Trong kho tàng di sản văn xuôi tự sự chữ Hán Việt Nam, có một số lượng gần
Chúng tôi đã tổng hợp 50 tên sách với nội dung chứa đựng những yếu tố thần kỳ và quái dị Bài viết này không mở rộng ra tất cả các tác phẩm có yếu tố thần kỳ, quái dị mà chỉ tập trung vào những tác phẩm có tiêu đề chứa chữ "truyền kỳ".
Trong bài viết này, chúng tôi khảo sát các tác phẩm văn học không mang từ "truyền kỳ" hay "kỳ" trong tiêu đề nhưng vẫn được các nhà nghiên cứu xếp vào thể loại truyền kỳ Cụ thể, các tác phẩm được đề cập bao gồm Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Công dư tiệp ký và Truyền.
Bài viết này đề cập đến một số tác phẩm nổi bật trong văn học Việt Nam, bao gồm "36 kỳ tân phả", "Tang thương ngẫu lục", "Vũ trung tùy bút", "Tân truyền kỳ lục", "Lan Trì Kiến văn lục", "Việt Nam kỳ phùng sự lục", "Sơn cư tạp thuật" và "Vân nang tiểu sử" Những tác phẩm này không chỉ thể hiện sự phong phú của văn hóa Việt Nam mà còn phản ánh những giá trị nhân văn sâu sắc.
Dựa trên ba tiêu chí, chúng tôi đã chọn lọc 49 truyện truyền kỳ từ 8 tác phẩm, tạo nền tảng cho việc khảo sát văn bản trong luận án (xem Phụ lục).
Truyện truyền kỳ là một thể loại văn học đặc sắc, có nguồn gốc từ văn hóa dân gian và trải qua quá trình phát triển lâu dài Bài viết đã xác lập các tiêu chí phân loại để giúp hiểu rõ hơn về đặc điểm và giá trị của thể loại này Kết luận cho thấy truyện truyền kỳ không chỉ phản ánh tâm tư, tình cảm của con người mà còn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Truyện truyền kỳ là thể loại văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, có nguồn gốc từ những truyện chí dị, chí quái Khi du nhập vào Việt Nam, thể loại này đã được các tác giả Việt Nam sáng tạo lại, giữ nguyên hình thức nhưng đổi mới nội dung, dựa trên truyền thống văn hóa dân tộc và trí tưởng tượng phong phú Các tác phẩm trong thể loại này thường chứa đựng nhiều yếu tố kỳ ảo, hoang đường, nhưng vẫn hướng về cuộc sống thực tại, nhằm thể hiện ước mơ và khát vọng của con người trong xã hội đương thời.
Truyện ngắn truyền kỳ xuất phát từ thời Lục Triều Trung Quốc, ban đầu được gọi là tiểu thuyết hoặc truyện chí nhân, chí quái, chí dị Đến thế kỷ VII, thể loại này đã phát triển và chính thức trở thành truyện truyền kỳ dưới triều đại nhà Đường.
Một tác phẩm truyện truyền kỳ cần hội đủ các yếu tố: yếu tố "kỳ", yếu tố "ảo",
"hư cấu" và phương thức sáng tác
Truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, bao gồm phát sinh, cực thịnh, thoái trào và suy vong Thế kỷ X - XIV là thời kỳ nền tảng với các tác phẩm như Việt điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái lục Thế kỷ XV - XVI chứng kiến sự phát triển rực rỡ với hai tác phẩm tiêu biểu là Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục Đến thế kỷ XVII, văn học Việt Nam thiếu vắng tác phẩm văn xuôi tự sự chữ Hán, thay vào đó là văn vần tự sự chữ Nôm với sự xuất hiện của thể loại diễn ca lịch sử Trong thế kỷ XVIII - XIX, truyện truyền kỳ có sự chuyển biến mạnh mẽ với ít yếu tố kỳ ảo hơn và gần gũi với hiện thực, tiêu biểu là các tác phẩm Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục và Lan Trì Kiến văn lục.
Từ cuối thế kỷ XIX, truyện truyền kỳ không còn phát triển nữa