1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

126 40 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 126
Dung lượng 1,47 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (14)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu và cách tiếp cận của đề tài (15)
  • 3. Tình hình nghiên cứu (16)
  • 4. Tính mới của đề tài (19)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (19)
    • 5.1. Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết (19)
    • 5.2. Phương pháp phân tích câu chữ hoặc chú giải (20)
    • 5.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (20)
    • 5.4. Phương pháp mô hình hóa và dự báo khoa học (21)
    • 5.5. Phương pháp phân tích lịch sử (22)
    • 5.6. Phương pháp so sánh (22)
    • 5.7. Phương pháp quan sát khoa học (22)
    • 5.8. Phương pháp tổng kết (23)
  • 6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài (23)
  • 7. Sản phẩm (24)
  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI (25)
    • 1.1. Cơ sở lí luận về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (25)
      • 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (25)
      • 1.1.3. Một số học thuyết trách nhiệm hình sự của pháp nhân (31)
    • 1.2. Cơ sở thực tiễn về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (38)
      • 1.2.1. Tình trạng vi phạm pháp luật của pháp nhân ở Việt Nam (38)
      • 1.2.2. Những bất cập trong chính sách pháp luật (43)
      • 1.2.3. Nội luật hóa để phù hợp với các cam kết quốc tế (47)
  • CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 (49)
    • 2.1. Các quy định chung về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (49)
      • 2.1.1. Nguyên tắc xử lý pháp nhân thương mại phạm tội (49)
      • 2.1.2. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (51)
      • 2.1.3. Hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại phạm tội (55)
      • 2.1.4. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với PNTM phạm tội (59)
      • 2.1.5. Miễn hình phạt và xóa án tích đối với PNTM phạm tội (62)
    • 2.2. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (63)
      • 2.2.1. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (63)
        • 2.2.1.1. Các tội trong lĩnh vực kinh doanh thương mại (63)
        • 2.2.1.2. Các tội trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm (64)
        • 2.2.1.3. Các tội khác trong lĩnh vực xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (66)
      • 2.2.2. Các tội phạm về môi trường (67)
  • CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN (69)
    • 3.1. Sửa đổi các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự 2015 (69)
      • 3.1.1. Về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự (69)
      • 3.1.2. Về thời hạn xóa án tích (70)
      • 3.1.3. Về miễn hình phạt (71)
      • 3.1.4. Về hình phạt tiền (72)
    • 3.2. Bổ sung các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân (73)
      • 3.2.1. Mở rộng phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại (73)
        • 3.2.1.1. Nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người (73)
        • 3.2.1.2. Nhóm các tội phạm về chức vụ (74)
        • 3.2.1.3. Nhóm các tội phạm về hôn nhân gia đình (75)
        • 3.2.1.4. Nhóm các tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (76)
        • 3.2.1.5. Nhóm các tội phạm về ma túy (77)
        • 3.2.1.6. Nhóm các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân (77)
        • 3.2.1.7. Nhóm các tội xâm phạm quyền sở hữu (78)
      • 3.2.2. Quy định TNHS của pháp nhân phi thương mại (79)
    • 1. Kết luận (83)
      • 1.1. Tóm tắt nội dung đã thực hiện (83)
      • 1.2. Đánh giá về đề tài (85)
    • 2. Kiến nghị (86)
    • I. Các bài viết trong nghành (89)
    • II. Văn bản pháp luật (90)
    • III. Các bài báo, bài viết có liên quan (91)
    • IV. Tài liệu nước ngoài (92)
    • V. Một vài tài liệu có liên quan khác (92)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu và cách tiếp cận của đề tài

Quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự 2015 đã được ghi nhận lần đầu tiên tại Việt Nam, mặc dù hiệu lực thi hành của bộ luật này gặp nhiều trở ngại Tuy nhiên, quy định này vẫn được xem xét để sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với thực tiễn Nhóm nghiên cứu đã chọn đề tài “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo Bộ luật Hình sự 2015” và đặt ra các mục tiêu cụ thể cùng những cách tiếp cận khác nhau nhằm làm rõ các vấn đề cốt lõi của nghiên cứu.

Cơ sở để các nhà lập pháp quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm các khái niệm và học thuyết hiện có, được sử dụng làm nền tảng lý luận Ngoài ra, tình trạng vi phạm pháp luật của pháp nhân tại Việt Nam và những bất cập trong chính sách pháp luật cũng được trình bày như một cơ sở thực tiễn, nhằm làm rõ mục tiêu của việc quy định này.

Trong Bộ luật Hình sự 2015, quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được thể hiện rõ ràng với các nội dung chính như nguyên tắc xử lý, điều kiện chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp Ngoài ra, luật còn đề cập đến tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, miễn hình phạt và xóa án tích, cũng như phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại Những quy định này nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc xử lý các vi phạm pháp luật của các tổ chức kinh doanh.

Thứ ba, các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong

Bộ luật Hình sự 2015 có thực sự phù hợp và khả thi khi áp dụng vào thực tiễn Việt Nam? Dựa trên các phân tích từ nhiều tổ chức và cá nhân, nhóm nghiên cứu đã xem xét tính khả thi của quy định này cùng với tình hình vi phạm pháp luật, đặc biệt là ở các pháp nhân thương mại Qua quá trình tìm hiểu có chọn lọc, nhóm nghiên cứu đưa ra những đánh giá riêng, thể hiện cái nhìn sâu sắc về vấn đề này.

Nhóm kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự 2015, bao gồm sửa đổi các điều kiện chịu trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, xóa án tích và hình phạt áp dụng cho pháp nhân Đồng thời, nhóm cũng nhấn mạnh sự cần thiết bổ sung quy định về phạm vi và đối tượng chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn vi phạm pháp luật hiện nay.

Tình hình nghiên cứu

Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại đã thu hút sự chú ý của nhiều nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo và hội thảo Các công trình này mang đến những góc nhìn pháp lý đa dạng về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại cũng như trách nhiệm hình sự của pháp nhân nói chung.

Từ những năm 1980, nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã thu hút sự quan tâm của giới học giả và luật học, với nhiều quan điểm ủng hộ việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân Các quan điểm này nhấn mạnh tính cần thiết của việc này và đưa ra những kiến nghị quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia, bao gồm một số đề tài tiêu biểu.

Bài viết của PGS.TS Phạm Hồng Hải (1999) mang tiêu đề “Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?” đăng trên Tạp chí Luật học số 06/1999, khẳng định rằng pháp nhân hoàn toàn có thể là chủ thể của tội phạm Tác giả đưa ra các dẫn chứng từ luật pháp của nhiều quốc gia như Pháp, Trung Quốc, Thụy Điển và Nga, cùng với lập luận từ các hệ thống luật trên thế giới Bài viết cung cấp cơ sở lý luận vững chắc cho việc kiến nghị bổ sung quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, mặc dù được viết từ lâu và dựa trên tài liệu cũ, trong bối cảnh pháp luật Việt Nam thời điểm đó chưa có quy định về vấn đề này và thực tiễn pháp nhân còn chưa phát triển.

Trịnh Quốc Toản (2005) đã nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của các nước theo truyền thống Common law, Châu Âu lục địa và Trung Quốc, đồng thời đánh giá mô hình lý luận của trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam trong tương lai Tuy nhiên, với sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 1999 vào năm 2009 và sự chuẩn bị cho bộ luật mới, phạm vi nghiên cứu này đã trở nên không còn phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường và sự thay đổi trong văn hóa, xã hội hiện nay.

Cao Thị Oanh (2011) đã thực hiện một nghiên cứu so sánh về cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức Đề tài này được triển khai tại Viện khoa học pháp lý và thuộc cấp Bộ, nhằm làm rõ những vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý của tổ chức trong hệ thống luật pháp Việt Nam.

Bài viết của tác giả nghiên cứu sâu về lý luận và thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, nhằm đưa ra kết quả nghiên cứu về các yếu tố kinh tế-xã hội, lịch sử và truyền thống liên quan Tác giả phân tích cách tiếp cận vấn đề này ở nhiều quốc gia và so sánh với các yếu tố tương ứng tại Việt Nam Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất áp dụng kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam Tuy nhiên, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào lý luận về trách nhiệm hình sự của tổ chức mà chưa đi sâu vào tổ chức là pháp nhân thương mại, đồng thời chưa đề cập đến tính khả thi và hướng giải quyết các khó khăn liên quan.

Bài viết của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc (2014) tham dự Hội thảo Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, làm rõ hai vấn đề chính: trách nhiệm hình sự của pháp nhân và các ý kiến về quy định này trong Bộ luật Hình sự 1999 của Việt Nam Tác giả sử dụng nhiều bằng chứng từ hệ thống luật quốc tế để khẳng định sự ủng hộ ngày càng tăng cho trách nhiệm hình sự của pháp nhân Để áp dụng chế định này tại Việt Nam, cần giải quyết các yếu tố như vấn đề lỗi, điều kiện trách nhiệm hình sự, các loại pháp nhân và hình phạt áp dụng Tác giả ủng hộ việc đưa quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào Bộ luật Hình sự, nhưng cũng chỉ ra rằng cần xem xét thêm một số khía cạnh Mặc dù bài viết hữu ích cho nhóm nghiên cứu, nhưng hạn chế là chưa phân tích tính khả thi của các quy định pháp luật Đến năm 2015, Quốc hội ban hành quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân qua Bộ luật Hình sự 2015, nhưng luật này sau đó bị đình chỉ hiệu lực, dẫn đến việc thiếu nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong luật hiện hành.

TS Nguyễn Văn Hương (2016) trong bài viết “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo Bộ luật Hình sự năm 2015” đã nghiên cứu về vai trò của pháp nhân thương mại trong tội phạm và trách nhiệm hình sự Tác giả phân tích căn cứ xác định lỗi của pháp nhân thương mại đối với hành vi phạm tội, đồng thời chỉ ra những vấn đề pháp lý phức tạp mà các cơ quan áp dụng luật có thể gặp phải trong quá trình xử lý.

Bộ luật có hiệu lực Tuy nhiên, bài viết chưa đưa ra được những giải pháp để giải quyết những vấn đề phức tạp đó

Nguyễn Văn Thuyết (2016) đã trình bày về quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015 Bài viết được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số lượng ấn phẩm này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến trách nhiệm hình sự của các tổ chức thương mại.

Bài viết tập trung vào việc phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự 2015 liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại Nội dung bao gồm khái niệm, điều kiện và phạm vi trách nhiệm hình sự, các loại hình tội phạm mà pháp nhân thương mại có thể vi phạm, cùng với một số nhận xét về vấn đề này Tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, mặc dù chưa đi vào chi tiết cụ thể.

Trong bài viết của Ths Nguyễn Quý Khuyến (2016) về "Mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015", tác giả nghiên cứu cơ sở của việc truy cứu trách nhiệm hình sự song song giữa cá nhân và pháp nhân thương mại Bài viết tập trung vào mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp nhân, tuy nhiên, tác giả chưa làm nổi bật trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và chưa đưa ra các hướng dẫn, kiến nghị cụ thể, cũng như phân tích các bất cập có thể gặp phải khi áp dụng chế tài hình sự đối với pháp nhân thương mại.

Tính mới của đề tài

Bên cạnh việc tiếp thu thành quả từ những nghiên cứu trước, đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm nghiên cứu có một số điểm mới đáng chú ý

Thứ nhất, công trình nghiên cứu được xây dựng dựa trên nguồn tài liệu mới là

Bộ luật Hình sự năm 2015

Mặc dù có nhiều nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, nhưng vẫn thiếu một cái nhìn toàn diện về tính khả thi của việc quy định trách nhiệm này và những phương hướng hoàn thiện cần thiết.

Dựa trên lập trường nghiên cứu khoa học nghiêm túc và khách quan, nhóm nghiên cứu đã mạnh dạn đưa ra những nhận định theo chính kiến riêng Các vấn đề mà quy định pháp luật còn thiếu rõ ràng chính là “mảnh đất màu mỡ” để nhóm thể hiện quan điểm của mình.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết

Trước khi tiến hành nghiên cứu, nhóm tập trung vào việc phân loại và hệ thống hóa kiến thức, tìm hiểu lý thuyết và quy định trong các lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Mục tiêu là trang bị kiến thức cơ bản cần thiết cho quá trình nghiên cứu Nhóm cũng sắp xếp thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau thành một hệ thống chặt chẽ, theo quan điểm hệ thống, nhằm xây dựng lý thuyết mới giúp hiểu biết sâu sắc hơn về đối tượng nghiên cứu Việc phân loại đã bao gồm yếu tố hệ thống hóa, và nhóm không ngừng cập nhật quy định mới nhất trong lĩnh vực pháp luật hình sự để tìm ra nguyên tắc pháp luật, sự phát triển xã hội và trình độ lập pháp, từ đó đưa ra nhận định và dự đoán xu hướng mới trong khoa học hình sự và thực tiễn.

Phương pháp phân tích câu chữ hoặc chú giải

Nghiên cứu khoa học sử dụng phương pháp phân tích câu chữ hoặc chú giải nhằm khám phá ý chí của người làm luật trong văn bản quy phạm pháp luật Mục tiêu là phát hiện các quy phạm pháp luật mà người làm luật muốn xây dựng Phương pháp này bao gồm các công cụ phân tích từ logic học như tam đoạn luận, suy lý ngược, suy lý mạnh, quy nạp và diễn dịch Trong bài nghiên cứu, phương pháp phân tích câu chữ hoặc chú giải được áp dụng chủ yếu trong Chương 2, liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo Bộ luật Hình sự 2015, với các nội dung như “trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại” và “nguyên tắc xử lý pháp nhân thương mại phạm tội”.

Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết

Phương pháp phân tích lý thuyết giúp chia nhỏ và khám phá các khía cạnh khác nhau của lý thuyết bằng cách xem xét các mặt, bộ phận và mối quan hệ lịch sử Qua đó, nó cho phép nhận thức và phát hiện thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

Phân tích lý thuyết bao gồm những nội dung sau:

Nhóm nghiên cứu sẽ phân tích các nguồn tài liệu từ tạp chí, báo cáo khoa học, tác phẩm nghiên cứu, tài liệu lưu trữ và sách tham khảo, mỗi nguồn đều có giá trị riêng Họ sẽ tập trung vào các tài liệu đáng tin cậy và chính thống, xem xét tác giả trong và ngoài ngành, cũng như các tác giả đương thời và quá cố Mỗi tác giả mang đến một cái nhìn riêng, vì vậy nhóm nghiên cứu sẽ ưu tiên những tác giả có uy tín, số lượng bài viết phong phú và có tiếng nói trong lĩnh vực Đồng thời, họ cũng sẽ tiếp thu ý kiến mới từ các tác giả khác để nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.

Phân tích nội dung giúp nhóm nghiên cứu nắm bắt kiến thức từ bài viết, đồng thời tìm ra những thông tin hữu ích và quan trọng để áp dụng cho bài viết của mình.

Phương pháp mô hình hóa và dự báo khoa học

Khi nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự 2015, nhóm ưu tiên đã áp dụng phương pháp này do BLHS 2015 bị đình chỉ hiệu lực ngay trước thời điểm có hiệu lực, dẫn đến việc áp dụng Bộ luật này chưa diễn ra trên thực tế.

Phương pháp này được sử dụng như sau:

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề cụ thể, chẳng hạn như điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân hoặc Điều 188 về tội buôn lậu.

Để hiểu rõ quy định pháp luật, cần đặt nó vào một mô hình liên kết chặt chẽ với tình hình kinh tế xã hội, thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước, và bối cảnh thế giới Các yếu tố này phải được xem xét trong mối quan hệ tương tác, dựa trên các quy định pháp luật tương tự cũng như nguyên tắc pháp luật và tình hình phát triển kinh tế, xã hội tương đồng.

Dựa trên quan sát việc thực thi và áp dụng các quy định pháp luật tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, bài viết tổng hợp và đối chiếu để đánh giá tính thực thi của các quy định này trong thực tiễn Qua đó, chúng ta có thể dự đoán những ưu điểm và hạn chế của các quy định khi được áp dụng tại Việt Nam.

Phương pháp phân tích lịch sử

Phương pháp phân tích lịch sử giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề bằng cách xem xét nguyên nhân hình thành và phát triển trong bối cảnh thời kỳ cụ thể Qua đó, chúng ta có thể đề xuất các giải pháp phù hợp với tình hình hiện tại.

Bài viết sử dụng phương pháp phân tích lịch sử để trình bày và phân tích các học thuyết về trách nhiệm hình sự của pháp nhân Mục tiêu là làm rõ sự ra đời của các học thuyết này, lý giải tính cần thiết và đúng đắn của chúng trong bối cảnh hiện tại, đồng thời chỉ ra những hạn chế mà các học thuyết này có thể gây ra.

Phương pháp so sánh

Mỗi ngành luật có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng, dẫn đến sự lúng túng cho độc giả khi nhiều ngành cùng điều chỉnh một đối tượng Nhóm nghiên cứu đã so sánh các loại trách nhiệm của pháp nhân thương mại tại Việt Nam, nhấn mạnh trách nhiệm hình sự của loại hình này và chỉ ra sự cần thiết của nó đối với pháp nhân nói chung Bên cạnh đó, nhóm cũng đối chiếu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam với các nước khác để nhận diện sự khác biệt, hợp lý và bất cập, từ đó tìm kiếm giải pháp tối ưu.

Phương pháp quan sát khoa học

Phương pháp thu thập dữ liệu này nhằm mục đích thu thập thông tin sơ cấp và thứ cấp liên quan đến tình hình kinh tế xã hội, thực trạng vi phạm của pháp nhân, và phản ứng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Qua việc kết hợp với các phương pháp khác và kiến thức pháp luật, nhóm nghiên cứu sẽ lý giải nguyên nhân và rút ra quan điểm Quá trình này tiếp tục được kiểm định qua quan sát để đảm bảo tính chính xác và trung thực của các quan điểm cho đến khi hoàn thành bài nghiên cứu.

Phương pháp tổng kết

Dựa trên các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, nhóm nghiên cứu đã thực hiện quan sát, phân tích, so sánh và phân loại để tổng kết những vấn đề quan trọng, từ đó hoàn thiện bài viết.

Nhóm nghiên cứu đã liệt kê những phương pháp chủ yếu, tuy nhiên còn nhiều phương pháp khác cũng được áp dụng Mỗi phương pháp không chỉ được sử dụng một lần mà thường xuyên lặp lại tùy thuộc vào yêu cầu của bài viết Hơn nữa, các phương pháp này không hoạt động độc lập mà thường được kết hợp với nhau để làm rõ vấn đề một cách hiệu quả nhất.

Sản phẩm

Công trình nghiên cứu khoa học là những gì tốt nhất có thể trong giới hạn của nhóm nghiên cứu với mong muốn:

Công trình này cung cấp giá trị tham khảo quan trọng cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập, đồng thời hỗ trợ việc sửa đổi, bổ sung và ban hành các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

Thứ hai, công trình sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho những hoạt động nghiên cứu khoa học về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI

Cơ sở lí luận về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

1.1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Bộ luật Hình sự 2015 quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, nhưng không giải thích rõ khái niệm này Để hiểu rõ hơn về pháp nhân thương mại, cần tham khảo các quy định trong pháp luật dân sự.

Theo Luật Dân sự Việt Nam, pháp nhân được định nghĩa là tổ chức hợp pháp, có cơ cấu tổ chức rõ ràng, sở hữu tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó Để xác định một chủ thể là pháp nhân, cần xem xét bốn điều kiện theo quy định của pháp luật.

Pháp nhân phải được thành lập hợp pháp, nghĩa là phải tuân thủ quy định của pháp luật và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép Để được công nhận là pháp nhân, tổ chức cần có mục đích, nhiệm vụ và chức năng cụ thể Tính hợp pháp này không chỉ giúp pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật mà còn đảm bảo sự kiểm soát và bảo vệ của Nhà nước, phù hợp với ý chí của Nhà nước.

Pháp nhân cần có cơ cấu tổ chức chặt chẽ để hoạt động hiệu quả và thống nhất Điều này đòi hỏi sự sắp xếp hợp lý nguồn nhân lực vào các bộ phận như phòng, ban, và quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận trong Điều lệ Mục tiêu cuối cùng là đạt được mục đích chung của pháp nhân Tuy nhiên, yêu cầu này có thể không hoàn toàn chính xác và không cần thiết trong một số trường hợp, như đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân sở hữu.

7 Điều 74 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 chủ sở hữu thì pháp luật không quy định cơ cấu tổ chức mà vẫn được coi là pháp nhân

Pháp nhân phải sở hữu tài sản độc lập với cá nhân và tổ chức khác, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó trong quá trình hoạt động Điều này có nghĩa là pháp nhân cần có khối lượng tài sản nhất định để thực hiện quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật Tài sản của pháp nhân phải độc lập, cho phép pháp nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ ai, đảm bảo tư cách chủ thể của mình Trách nhiệm tài sản của pháp nhân không thể được một cơ quan hay tổ chức khác gánh vác, và chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp, trừ trường hợp công ty hợp danh Đây là yếu tố quan trọng để phân biệt pháp nhân với thể nhân, vì thể nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân.

Pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập nhờ vào việc tách bạch tài sản riêng với các cá nhân, tổ chức khác Sở hữu tài sản độc lập cho phép pháp nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Khi thành lập, các thành viên đã chuyển quyền sở hữu tài sản riêng vào khối tài sản của pháp nhân, đòi hỏi sự thống nhất trong việc sử dụng tài sản đó Pháp luật đã “trừu tượng hóa” điều này thành “ý chí” của pháp nhân, cho phép pháp nhân “nhân danh” chính mình tham gia các quan hệ pháp luật Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng đây là một điều kiện chưa thực sự hợp lý, vì việc nhân danh chính mình chỉ là hệ quả tất yếu khi pháp nhân được thành lập hợp pháp và đã có tài sản độc lập.

Theo Bộ luật Dân sự 2015, pháp nhân được phân thành hai loại: pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại Pháp nhân thương mại có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận này được chia cho các thành viên, bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác Ngược lại, pháp nhân phi thương mại không nhằm mục đích lợi nhuận; nếu có lợi nhuận, chúng không được phân chia cho các thành viên, và bao gồm các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị và các tổ chức khác.

8 Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015 chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội

- nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác” [9]

Pháp nhân thương mại là một loại pháp nhân tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế, với mục tiêu chính là lợi nhuận Lợi nhuận sẽ được phân chia cho các thành viên dựa trên tỷ lệ vốn góp, thỏa thuận và điều lệ công ty Các hình thức như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và công ty tư nhân đều được pháp luật công nhận là pháp nhân trong hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, do đó được xem là pháp nhân thương mại.

1.1.1.2 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Thuật ngữ "trách nhiệm" thường được hiểu theo hai nghĩa Cụ thể:

Một là, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận của một người trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước

Trách nhiệm là hệ quả tiêu cực mà một cá nhân phải chịu trước người khác, xã hội hoặc Nhà nước khi vi phạm nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Trong lĩnh vực pháp luật hình sự, thuật ngữ Tội phạm hình sự (TNHS) được hiểu theo một nghĩa thứ hai Tuy nhiên, đến nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm TNHS.

Trách nhiệm hình sự (TNHS) được hiểu là mối quan hệ pháp luật giữa Nhà nước và người phạm tội, trong đó người phạm tội phải chịu các biện pháp cưỡng chế từ Nhà nước do hành vi vi phạm của mình Theo Bratux X N., trách nhiệm không chỉ đơn thuần là nghĩa vụ chịu đựng hậu quả từ vi phạm pháp luật, mà còn là kết quả của việc bị cưỡng chế Trách nhiệm được thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế, và khi trách nhiệm đã bắt đầu, người có trách nhiệm không có quyền lựa chọn để không thực hiện các hành vi theo yêu cầu của pháp luật.

9 Điều 76, BLDS 2015 thành nội dung của nghĩa vụ phải thực hiện” [10]

Theo quan điểm này, trách nhiệm hình sự (TNHS) gắn liền với sự cưỡng chế của nhà nước đối với người phạm tội Người phạm tội có thể phải chịu TNHS hoặc được miễn TNHS nếu có căn cứ hợp pháp theo luật hình sự Những người được miễn TNHS đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng không phải chịu các biện pháp cưỡng chế của nhà nước.

Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm hình sự (TNHS) là một hình thức trách nhiệm pháp lý, bao gồm quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và người phạm tội, được thể hiện qua các biện pháp pháp lý hình sự theo quy định của luật TNHS bắt đầu từ khi truy cứu đối với một người có hành vi phạm tội, với các biện pháp cưỡng chế có thể được áp dụng ngay cả trước khi bị truy cứu Tuy nhiên, quan điểm này cần xem xét lại do chứa đựng mâu thuẫn, bởi thời điểm khởi tố bị can đánh dấu sự khởi đầu của hoạt động truy cứu TNHS Nếu cơ quan có thẩm quyền quyết định đình chỉ điều tra hoặc tuyên bố bị cáo vô tội, các biện pháp cưỡng chế trước đó không thể được coi là TNHS.

Quan điểm thứ ba về trách nhiệm hình sự (TNHS) cho rằng TNHS là việc thực hiện chế tài pháp lý hình sự, bắt đầu từ khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội Nhóm nghiên cứu cho rằng quan điểm này đã thu hẹp nội dung của TNHS Chế tài hình sự bao gồm các biện pháp cưỡng chế bắt buộc, được chia thành hai nhóm: nhóm có hình phạt và nhóm không có hình phạt (các biện pháp tư pháp) Trong đó, hình phạt được xem là biện pháp chính trong việc thực thi chế tài hình sự.

Theo TS Phạm Mạnh Hùng từ Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, trách nhiệm pháp lý và pháp chế trong lĩnh vực hình sự chủ yếu thể hiện qua các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc Khi có hình phạt, người phạm tội sẽ bị kết tội kèm theo hình phạt được quy định trong bản án của Tòa án Tuy nhiên, không phải mọi bản án đều có hình phạt; trong một số trường hợp, trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm quyết định kết tội và các biện pháp cưỡng chế khác như buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh hoặc bồi thường thiệt hại Do đó, cần phân biệt rõ ràng các thuật ngữ liên quan đến trách nhiệm hình sự.

Cơ sở thực tiễn về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

1.2.1 Tình trạng vi phạm pháp luật của pháp nhân ở Việt Nam

Sự phát triển kinh tế mang lại nhiều thành tựu, nhưng cũng kéo theo những tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội Các công ty lớn, vì lợi ích cục bộ, đã vi phạm pháp luật, dẫn đến thiệt hại đáng kể cho cộng đồng Đặc biệt, các hành vi vi phạm này ngày càng trở nên nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng, với những loại vi phạm phổ biến đang diễn ra.

Vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đang diễn ra phổ biến và nghiêm trọng, với nhiều doanh nghiệp vì lợi nhuận đã cố ý xả thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý Hành động này gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường sống, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của cộng đồng Số vụ xả thải và khí thải ngày càng gia tăng, đe dọa nghiêm trọng đến sự bền vững của hệ sinh thái.

21 Khoản 1 Điều 75 BLHS 2015 (Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân)

22 Bộ TN & MT, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Bảo vệ môi trường 2005 (2005 - 2013), tháng 7/2013

Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, số lượng vụ gây ô nhiễm môi trường đang gia tăng nghiêm trọng, với nhiều vụ việc điển hình như Công ty Vedan Việt Nam xả thải ra sông Thị Vải trong 14 năm, gây ô nhiễm 2.686 hecta đất nuôi trồng thủy sản và thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng Năm 2013, Công ty cổ phần Nicotex Thanh Thái chôn lấp hàng chục tấn thuốc trừ sâu, đe dọa an toàn sức khỏe người dân Các công ty khác như Công ty Cổ phần Nguyên phụ liệu Dệt may Bình An và Công ty TNHH NEW TOYO PULPPY cũng bị phát hiện xả thải chưa qua xử lý ra môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng Một trong những sự cố nghiêm trọng nhất là hiện tượng cá chết hàng loạt tại Vũng Áng vào tháng 4 năm 2016, ảnh hưởng lớn đến sinh kế của người dân và hệ sinh thái biển.

23 Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Bảo vệ môi trường 2005 (2005 - 2013), tháng 7/2013 thì năm

Từ năm 2009 đến 2012, tình hình ô nhiễm môi trường tại các cơ sở sản xuất và khu công nghiệp diễn ra nghiêm trọng Năm 2009, có 93 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Đến năm 2010, số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh tăng lên 233, trong đó 53 cơ sở bị phát hiện gây ô nhiễm nghiêm trọng Năm 2011, có 154 trong tổng số 375 cơ sở vi phạm, với tổng số tiền phạt lên tới 19.405.000.000 đồng Năm 2012, 157 cơ sở vi phạm được ghi nhận trong tổng số 429 cơ sở sản xuất, khu công nghiệp và khu chế xuất.

24 “Vụ Vedan "giết" sông Thị Vải: "Thành công" suốt 14 năm”đăng trên báo tuoitre.vn ngày

25 “Nicotex đã 'phi tang' hơn 5 tấn thuốc trừ sâu xuống đất?” đăng trên báo nguoiduatin.vn ngày

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố “Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2013” cùng với “kế hoạch công tác năm 2014” vào tháng 12/2013 Thông tin này được trình bày theo giải trình của Ban soạn thảo Bộ luật Hình sự 2015.

Vũng Chùa, thuộc bờ biển Quảng Đông, ghi nhận hàng trăm cá mú nặng từ 40 - 50 kg trôi dạt vào bờ và chết Tình trạng này đã được báo cáo đến ngày 25/4 tại tỉnh Hà Tĩnh.

Vào ngày 29/4, tỉnh Quảng Bình ghi nhận hơn 100 tấn cá biển bất ngờ chết dạt bờ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và sinh hoạt của ngư dân, cũng như các hộ nuôi thủy sản ven bờ và ngành du lịch biển tại miền Trung Tại Quảng Bình, có 18 xã chuyên làm nghề biển với hơn 14.000 hộ và 24.000 lao động trong ngành này Cuộc điều tra cho thấy nguồn thải lớn từ nhà máy Formosa Hà Tĩnh chứa độc tố đã dẫn đến thảm họa ô nhiễm môi trường biển, làm hải sản ở tầng đáy biển chết Chính phủ Việt Nam khẳng định rằng chất thải từ nhà máy Formosa đã tác động tiêu cực đến cuộc sống của hàng triệu người dân.

200 ngàn người dân, trong đó có 41 ngàn ngư dân [31]

Theo thông tin từ lực lượng Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường, từ năm 2010 đến nay, đã có gần 25.000 vụ vi phạm pháp luật về môi trường được phát hiện và xử lý trên toàn quốc.

Trong năm qua, đã có 350 vụ án với gần 400 đối tượng bị xử lý, tổng số tiền phạt vi phạm hành chính lên tới gần 200 tỷ đồng Các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản và môi trường đô thị.

Theo kết quả thanh tra ngành Thuế tại 2.110 doanh nghiệp, đã thu hồi và phạt hơn 988 tỉ đồng, đồng thời giảm khấu trừ 136,95 tỉ đồng Đáng chú ý, các doanh nghiệp đã bị buộc giảm lỗ lên tới hơn 4.192 tỉ đồng Số tiền truy thu chủ yếu tập trung ở khu vực doanh nghiệp FDI, chiếm 40% tổng số thu, với tỷ lệ thu bình quân trên mỗi doanh nghiệp đạt 1,73 tỉ đồng Một số đơn vị ghi nhận tỷ lệ vi phạm lên đến 100%.

Quảng Bình đang đối mặt với tình trạng du lịch sụt giảm nghiêm trọng do "đại nạn" cá chết Nhiều tour du lịch bị hủy và lượng khách giảm mạnh, ảnh hưởng lớn đến ngành du lịch địa phương Sự cố này đã gây ra lo ngại về môi trường và sức khỏe cộng đồng, khiến người dân và doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.

28 “Cá chết miền Trung: Doanh nghiệp du lịch ngồi trên đống lửa” Báo Vietnamnet đăng ngày 29 tháng 4 năm 2016, truy cập ngày 03 tháng 02 năm 2017

29 “Vụ cá chết: Ảnh hưởng nghiêm trọng sản xuất và du lịch miền Trung” Báo Đại Kỷ Nguyên đăng

27 tháng 4 năm 2016 Truy cập ngày 03 tháng 02 năm 2017

30 “Formosa Hà Tĩnh cúi đầu nhận lỗi, cam kết bồi thường 11.500 tỷ đồng” Báo Nguoidothi ngày 30 tháng 6 năm 2016 Truy cập ngày 03 tháng 03 năm 2017

31 “Quảng Bình thu gom hơn 100 tấn cá chết sau thảm họa "biển chết” Báo Vietnamnet ngày 29 tháng

Vào năm 2016, Cục thuế đã tiến hành thanh tra 16 doanh nghiệp tại tỉnh Bắc Giang và phát hiện cả 16 doanh nghiệp này đều vi phạm Tình trạng vi phạm tương tự cũng xảy ra tại Hòa Bình với tỷ lệ 16/16 và Gia Lai với 15/15 Mặc dù tại một số tỉnh, thành phố khác không đạt 100%, tỷ lệ vi phạm vẫn rất cao, như tại Hà Nội trong các đợt thanh tra.

Trong số 332 doanh nghiệp được thanh tra, có đến 326 đơn vị vi phạm, dẫn đến việc giảm lỗ hơn 1.500 tỉ đồng và truy thu, phạt gần 498 tỉ đồng Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong 193 doanh nghiệp FDI được kiểm tra, 164 doanh nghiệp vi phạm, gây ra khoản giảm lỗ hơn 870 tỉ đồng và truy thu, phạt gần 173 tỉ đồng.

Trong lĩnh vực kinh doanh, tình trạng pháp nhân của các doanh nghiệp vi phạm như kinh doanh trái phép, buôn lậu và gian lận thương mại đang diễn ra phổ biến, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế và ảnh hưởng xấu đến môi trường sản xuất Việc sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng lậu, hàng kém chất lượng đang trở thành vấn đề đáng báo động Các doanh nghiệp này thường sử dụng thủ đoạn như quay vòng hóa đơn và mua bán hóa đơn để hợp thức hóa hàng nhập lậu, cũng như gian lận trong kê khai giá để giảm thuế giá trị gia tăng Theo số liệu từ Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, trong 8 tháng năm 2014, đã phát hiện 846 doanh nghiệp và hộ kinh doanh vi phạm Một ví dụ điển hình là vụ án hình sự liên quan đến Nguyễn Minh Hùng và Vũ Mạnh Cường, những người đã sử dụng giấy tờ giả mạo để nhập lô thuốc chống ung thư trị giá 750.000 USD vào Việt Nam.

Trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng, áp lực về lợi nhuận và thành tích đã khiến một số ngân hàng nới lỏng điều kiện tín dụng, không tuân thủ nghiêm ngặt quy trình và quy định cho vay Họ thường không chuyển nhóm nợ theo quy chế, cho vay mà không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ thủ tục pháp lý Bên cạnh đó, việc thiếu kiểm tra năng lực tài chính của khách hàng và định giá tài sản thế chấp cao hơn thực tế đã dẫn đến thất thoát tài sản lớn và gia tăng nợ xấu.

32 Phụ lục: Báo cáo của Tổng Cục thuế về tình hình nợ động thuế năm 2013 – 2014, – Theo giải trình của Ban soạn thảo BLHS 2015

QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN

Ngày đăng: 25/07/2021, 03:40

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. В. Додонов, старший научный сотрудник НИИ при Генеральной прокуратуре РФ, кандидат юридических наук.(http://justicemaker.ru/view-article.php?id=21&art=2143) Link
4. СМИРНОВ Г. УГОЛОВНАЯ ОТВЕТСТВЕННОСТЬ ЮРЛИЦ НА ПОДСТУПАХ К РОССИИ.http://www.studylaw.narod.ru/kursup1/kursup1_15_5.htm Link
1. Công trình nghiên cứu khoa ọc cấp Bộ : Đề tài Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức . Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý . Phụ lục 02/2012 Khác
2. TS. Trịnh Quốc Toản. Phó Chủ nhiệm Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội. Vấn đề Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. (Tọa đàm ngày 21 tháng 11 năm 2012, Dự án JICA) Khác
(1) M.F.C von Savigny, Traité de droit romain, trad. De Ch. Ruenoux, Paris, Librairie Firmin Didot 1841, T.2, 311 Khác
(2) Leffort, Précis de droit criminel, Paris, Sirey, 1877, 218,219 Khác
(3) M.F.C von Savigny, Traité de droit romain, trad. Tài liệu đã dẫn, trang 312 Khác
(4) M.F.C von Savigny, Traité de droit romain, Tài liệu đã dẫn, trang 312 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w