Lý do ch ọn đề tài
Vấn đề dân chủ là một trong những thách thức lớn nhất trong lịch sử nhân loại, gây ra những tác động đa chiều Khởi nguồn từ các cuộc thử nghiệm chính trị tại Hy Lạp, dân chủ đã trải qua nhiều biến đổi và ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội.
Dân chủ trong La Mã cổ đại đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ và trở thành khái niệm quan trọng được nhận thức bởi cá nhân và cộng đồng Mặc dù sự tồn tại của con người có xu hướng phát triển qua từng giai đoạn, vấn đề dân chủ vẫn luôn được quan tâm Trước những thách thức và xung đột, nguy cơ chi phối đời sống cá nhân và cộng đồng ngày càng gia tăng, khiến con người không thể chấp nhận điều đó như một tất yếu Dân chủ không chỉ là phương thức tổ chức quyền lực mà còn là động lực tinh thần cho những thay đổi lớn lao Trong lịch sử, nhiều hiện tượng đã lợi dụng giá trị văn minh và tiến bộ để áp đặt lên những cá nhân, quốc gia và dân tộc bị coi là trái với những giá trị này.
Sự kiện thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng vào ngày 01/09/1858 đánh dấu sự khởi đầu của quá trình xâm lược Việt Nam, trong khi đó, người Việt Nam bắt đầu cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do Vấn đề dân chủ đã nhanh chóng trở thành một yếu tố quan trọng trong phong trào chống thực dân Đặc biệt, vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào Đông du – Duy tân do các trí thức như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng đã thúc đẩy ý thức dân tộc và khát khao cải cách, dẫn đến sự phát triển của phong trào dân tộc – dân chủ từ năm 1923 đến 1928 Các nhân vật như Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đã không ngừng đấu tranh phản kháng lại sự áp đặt của thực dân Pháp, khẳng định vai trò không thể thiếu của vấn đề dân chủ trong các biểu đạt chính kiến của trí thức và quần chúng nhân dân Việt Nam.
Nguyễn An Ninh là một trí thức yêu nước và nhà báo nổi bật ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX Với kiến thức sâu rộng và lòng yêu nước mãnh liệt, ông đã có ảnh hưởng lớn trong việc truyền bá tri thức nhân loại đến quần chúng, khơi dậy tinh thần đấu tranh và giúp nhân dân nhận thức nghĩa vụ của mình trước áp bức của chế độ thuộc địa.
Vào đầu thế kỷ XX, nhiều khó khăn đã cản trở sự lan tỏa của tư tưởng Việt Nam trong đời sống người dân, nhất là trong bối cảnh lịch sử đầy biến động và chiến tranh Những di sản tư tưởng của các bậc tiền bối như Nguyễn An Ninh đã bị che mờ, để lại khoảng trống trong nghiên cứu tư tưởng dân tộc Ông qua đời tại Côn Đảo khi đất nước chưa độc lập, và các tác phẩm của ông phải đối mặt với sự kiểm duyệt khắt khe từ thực dân Pháp Khi Nam Bộ khởi động cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp lần thứ hai vào ngày 23/09/1945, gia đình ông đã phải chịu nhiều áp lực từ chế độ.
Nguyễn An Ninh và chính quyền cách mạng đã nỗ lực bảo vệ kho tàng sách vở của ông, nhưng do chiến tranh, nhiều tài liệu đã bị mất mát Hơn nữa, nguồn tư liệu lưu trữ trong và ngoài nước vẫn chưa được khai thác đầy đủ, gây khó khăn trong việc xây dựng cái nhìn tổng quan về tư tưởng của Nguyễn An Ninh, bao gồm cả quá trình hình thành và ý nghĩa của chúng.
Khóa luận “Vấn đề dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh giai đoạn 1923 – 1928” nhằm khám phá những giá trị ít được đề cập trong tư tưởng của ông Nghiên cứu này hy vọng sẽ làm sáng tỏ vấn đề dân chủ trong tiến trình tư tưởng của Nguyễn An Ninh, từ đó góp phần đánh giá khách quan vai trò và đóng góp của ông đối với lịch sử triết học Việt Nam Đồng thời, nghiên cứu còn nhấn mạnh những giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn An Ninh đối với thực tiễn cuộc sống hiện nay.
Tình hình nghiên c ứu liên quan đến đề tài
Nhiều bài viết và nghiên cứu đã được thực hiện về Nguyễn An Ninh, đặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của ông Nhà nghiên cứu Nguyễn Q Thắng (Nguyễn Quyết Thắng) đã chỉ ra một điểm thú vị trong nghiên cứu của mình, khi nhắc đến tác phẩm "Anh hùng ba mặt" (Bí mật phi thường) của nhà văn Dương Minh Đạt, được xuất bản năm 1927 bởi Nhà in Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh Đây được coi là tiểu thuyết đầu tiên viết về cuộc đời của Nguyễn An Ninh.
Nhà văn Lê Văn Thử, trong cuốn sách "Hội kín Nguyễn An Ninh" xuất bản năm 1949, đã ghi lại quá trình hoạt động cách mạng của Nguyễn An Ninh từ những ngày đầu cho đến khi ông qua đời năm 1943 Ông đã khắc họa những đóng góp của Nguyễn An Ninh trong phong trào Hội kín, cùng với các nhân vật khác như Võ Công Tồn và Phan Văn Hùm Bên cạnh đó, phóng sự 12 kỳ của nhà báo Nguyễn Ngọc Danh mang tên “Những ngày cuối cùng của nhà Cách mạng NGUYỄN AN NINH tại Côn Đảo”, được đăng trên báo Tiếng Dội Miền Nam từ 15 đến 30/8/1961, thể hiện sự trân trọng và ngưỡng mộ đối với sự dấn thân của Nguyễn An Ninh trong sự nghiệp cách mạng chống Pháp.
Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh – thân thế và sự nghiệp của Phương Lan –
Bùi Thế Mỹ, vào năm 1971, đã tập trung chủ yếu vào việc mô tả tiểu sử của Nguyễn An Ninh thông qua các bài viết và sách của các tác giả miền Nam trong giai đoạn 1949.
Năm 1971, cuộc đời và hoạt động của Nguyễn An Ninh được ghi nhận với sự tôn vinh tài năng, phẩm chất và đóng góp của ông Tuy nhiên, trước năm 1975, tài liệu về Nguyễn An Ninh ở miền Bắc rất hạn chế, dẫn đến những mâu thuẫn và quan điểm không rõ ràng về nhà tư tưởng này.
Sau ngày thống nhất đất nước, nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn An Ninh đã có cơ hội phát triển một cách khoa học và khách quan hơn Bước đầu, tác phẩm "Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám" của nhà sử học Trần Văn Giàu đã mở ra hướng đi mới Vào ngày 15/09/1987, Hội thảo khoa học đầu tiên về Nguyễn An Ninh được tổ chức tại Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh, do Ban Tuyên huấn Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì Trước những ý kiến trái chiều về Nguyễn An Ninh, ông Dương Đình Thảo, Trưởng ban Tuyên huấn, đã có những phát biểu quan trọng để làm rõ vấn đề.
Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng “không ai bôi đỏ Nguyễn An Ninh nhưng không cho phép ai bôi đen Nguyễn An Ninh” Tại hội thảo, các đại biểu đã ghi nhận những đóng góp to lớn của Nguyễn An Ninh trong công cuộc giải phóng dân tộc.
Sau Hội thảo, nhiều bài viết, sách và tạp chí đã được xuất bản, tập trung nghiên cứu và đưa ra các nhận định, quan điểm về Nguyễn An Ninh.
Tác phẩm của nhà sử học Trần Văn Giàu, xuất bản năm 1975 bởi Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, đã được tập hợp trong Tổng tập Trần Văn Giàu.
3 của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, năm 2008
Ninh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1988), Sự tiến hóa liên tục của
Nguyễn An Ninh, một lãnh tụ cách mạng hùng biện (tác giả: Hà Huy Giáp,
Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (1989) đã phát hành nhiều tác phẩm về Nguyễn An Ninh, một nhà trí thức yêu nước, như bài viết trên Tạp chí Xưa và Nay (2003) và cuốn sách "Nguyễn An Ninh – Tôi chỉ làm cơn gió thổi" của tác giả Nguyễn Thị Minh (Nhà xuất bản Trẻ - 2005) Ngoài ra, luận văn nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn An Ninh cũng được thể hiện qua luận án của Phạm Thị Đoạt.
Tìm hiểu một sốtư tưởng của Nguyễn An Ninh về Phật giáo (1997), luận án của
Lê Thị Mận trong nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn An Ninh đã chỉ ra vai trò quan trọng của ông trong văn hóa, chính trị và tôn giáo Theo tác phẩm “Lịch sử triết học phương Đông” của Doãn Chính, Nguyễn An Ninh được công nhận là một nhân vật xuất sắc trong cuộc đấu tranh trên diễn đàn báo chí và tư tưởng, với những nỗ lực phê phán chế độ phong kiến và thực dân, đồng thời tuyên truyền cho tư tưởng dân quyền.
Vào tháng 6 năm 2009, tác phẩm "Nguyễn An Ninh – Tác phẩm và Nguyễn An Ninh - Qua hồi ức của những người thân" đã ra đời, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong việc ghi nhận di sản của Nguyễn An Ninh Đây là thành quả của sự nỗ lực không ngừng của vợ chồng Nguyễn Sơn và Nguyễn Thị Minh, cùng với sự hợp tác của Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nhà xuất bản Văn học, cùng các học giả và chuyên gia tiếng Pháp Họ đã tích cực sưu tầm, xử lý và dịch thuật các tác phẩm của Nguyễn An Ninh, chủ yếu được viết bằng tiếng Pháp, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của ông.
Tác phẩm của Nguyễn An Ninh không chỉ phản ánh con người ông mà còn thể hiện một giai đoạn đấu tranh bi tráng của đất nước, mặc dù hiện nay có phần mờ nhạt trong nhận thức của chúng ta Do đó, việc tìm hiểu và đọc di sản tư tưởng của Nguyễn An Ninh là điều cần thiết và cấp bách cho văn hóa, khoa học xã hội và nhân văn, cũng như chính trị - tư tưởng trong bối cảnh hiện tại.
Tình hình nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn An Ninh đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, nhưng mỗi người lại có cách tiếp cận riêng biệt Đặc biệt, vấn đề dân chủ trong quan niệm chính trị của ông vẫn chưa được khai thác đầy đủ trong các tác phẩm nghiên cứu hiện tại Nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Nguyễn An Ninh, đặc biệt là khía cạnh dân chủ, như một trong những trọng tâm tư tưởng của ông trong giai đoạn 1923 – 1928.
M ục đích và nhiệ m v ụ c ủ a khóa lu ậ n
Bài viết sẽ hệ thống hóa và giới thiệu tư tưởng của Nguyễn An Ninh về dân chủ trong giai đoạn 1923 – 1928, từ đó làm rõ những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của ông.
3.2 Nhiệm vụ Để đạt tới mục đích nghiên cứu, tác giả đề ra một số nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội và tiền đề cho sự hình thành vấn đề dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh
- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ
- Chỉ ra và phân tích những giá trị nổi bật và hạn chế chủ yếu trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ.
Cơ sở lý lu ận và phương pháp nghiên cứ u
Nghiên cứu này tập trung vào việc áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích tư tưởng triết học chính trị về dân chủ, so sánh giữa phương Tây và phương Đông.
Khóa luận áp dụng phương pháp biện chứng duy vật theo triết học Marx - Lenin và kết hợp với phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học, cùng với các phương pháp khoa học khác như phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, khái quát hóa và trìu tượng hóa.
Ý nghĩa củ a khóa lu ậ n
Khóa luận nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Nguyễn An Ninh, làm rõ nội dung, giá trị và hạn chế trong tư tưởng của ông Tài liệu này sẽ hỗ trợ việc học tập và nghiên cứu về tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
K ế t c ấ u
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận gồm có 02 chương, 06 tiết.
TIỀN ĐỀ CHO S Ự HÌNH THÀNH TƯ TƯỞ NG C Ủ A
Bối cảnh lịch sử - xã hội cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn An
1.1.1 Điề u ki ệ n l ị ch s ử - xã h ộ i th ế gi ớ i
Giai đoạn 1923 – 1928 chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ trong lịch sử thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và kinh tế Sau thời kỳ Phát kiến địa lý và Cách mạng tư sản, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc, dẫn đến sự hình thành hệ thống toàn cầu với sự xuất hiện của các công ty độc quyền Theo Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang, các nước lớn châu Âu đã thực hiện chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp trong nước và tìm kiếm thuộc địa ở nước ngoài Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản châu Âu trong những năm 70 – 80 thế kỷ XIX không đồng bộ với các xu hướng xã hội tự do, dân chủ, khiến các nước thực dân tiến hành xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường và tiến hành bóc lột các dân tộc bản địa một cách triệt để.
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, các phong trào cách mạng tự do và dân chủ đã hình thành, tạo ra lực lượng ủng hộ chủ nghĩa xã hội và tư tưởng cách mạng cánh tả, bên cạnh các đảng phái tự do truyền thống V.I Lenin đã mô tả thời kỳ này là “Châu Á thức tỉnh”, khi hàng trăm triệu người bị áp bức, sống trong tình trạng trì trệ của thời trung cổ, đã bắt đầu thức tỉnh và tham gia vào cuộc sống mới, đấu tranh giành quyền lợi.
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, nhiều cuộc cách mạng đã nổ ra tại Châu Âu, bao gồm Phần Lan (1918), Hungary (10/1918) và Đức (11/1918) Giai đoạn từ 1923 đến 1928 chứng kiến sự nổi dậy của phong trào công nhân tại Mỹ, do Đảng Cộng sản Mỹ lãnh đạo, cùng với các cuộc đấu tranh ở Argentina (bãi công năm 1919) và Brazil (Cách mạng Tenente 1924) Tại Châu Phi, nhân dân Ai Cập đã đấu tranh từ 1918 đến 1923, trong khi phong trào cải cách Hiến pháp ở Tunisia diễn ra từ 1920 đến 1922 Đồng thời, phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) tại Trung Quốc đã khơi dậy tinh thần dân tộc chủ nghĩa và khát vọng tự do, dân chủ của người dân.
Giai đoạn từ 1926 đến 1928 đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ quân phiệt ở Trung Hoa và phong trào Bất hợp tác (Swaraj) tại Ấn Độ (1919 – 1922), điều này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và hành động của Nguyễn An Ninh Cả hai quốc gia châu Á này đều đạt được thành công trong cuộc đấu tranh vì dân tộc và dân chủ Thắng lợi của Hồng quân Nga trong cuộc Nội chiến (1918 – 1922) cùng với những thành tựu của nước Nga Soviet sau chiến tranh, đặc biệt là Chính sách Kinh tế Mới (NEP) do V.I.Lenin đề xuất, đã củng cố sức mạnh của nhà nước cộng sản đầu tiên trên thế giới và thúc đẩy sự hình thành của Liên Xô, từ đó tác động mạnh mẽ đến các phong trào chính trị và xã hội toàn cầu cũng như các dân tộc thuộc địa.
Vào đầu thế kỷ XX, các biến đổi lớn trong tình hình thế giới đã dẫn đến sự xuất hiện của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Á – Phi – Mỹ Latin, tạo ra những tác động mạnh mẽ đến hệ thống thuộc địa của các nước tư bản phương Tây Nhiều luồng tư tưởng mới đã xuất hiện, như chủ nghĩa Tam dân do Tôn Trung Sơn đề xướng, chủ trương Bất bạo động của Mahatma Gandhi, và chủ nghĩa xã hội, đặc biệt gia tăng ảnh hưởng sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
“đã tác động trực tiếp đến việc lựa chọn con đường cách mạng của các nhà tư tưởng chính trị ở Việt Nam, nhất là đầu thế kỷ XX” [8, tr 1251]
1.1.2 Điề u ki ệ n l ị ch s ử - xã h ộ i Vi ệ t Nam
Cùng với sự kiện Ngũ Tứ tại Trung Quốc, phong trào Tam Nhất (1/3/1919) ở bán đảo Triều Tiên đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Triều Tiên, đưa phong trào này sang một giai đoạn mới.
4 Dướ i s ự lãnh đạ o c ủ a chính ph ủ Qu ố c dân (nòng c ố t là liên minh Qu ố c d ân đả ng – Đả ng C ộ ng s ả n Trung
Qu ố c), chi ế n tranh B ắ c ph ạ t di ễ n ra v ớ i quy mô l ớ n và xóa b ỏ ảnh hưở ng c ủ a các quân phi ệ t, thi ế t l ậ p n ề n c ộ ng hòa và ổn đị nh tình hình Trung Qu ố c
Năm phong trào Bất hợp tác đã được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại cùng sự tham gia của các lực lượng xã hội khác Trong số đó, các nhóm nhà hoạt động cấp tiến ủng hộ chủ nghĩa xã hội đã đóng vai trò quan trọng, góp phần hình thành Đảng Cộng sản Ấn Độ vào năm 1925.
Kể từ khi Hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenôtre (1884) được ký kết, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, dẫn đến sự xâm hại nghiêm trọng đến nền độc lập và tự do chính trị của quốc gia Học giả Nguyễn Xuân Thọ nhấn mạnh rằng trước khi người Pháp đến, Việt Nam đã là một quốc gia thống nhất với nền tảng vững chắc, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, có một dân tộc Việt Nam đồng nhất về ngôn ngữ và phong tục tập quán Việc chính quyền Pháp chia đất nước thành ba “kỳ” không chỉ nhằm mục đích hành chính mà còn chủ yếu để thực hiện chiến lược “chia để trị”.
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) đã tạo ra nhiều biến đổi sâu sắc trong kinh tế - xã hội Việt Nam, sau khi cuộc khai thác lần thứ nhất (1897 - 1914) đã làm gia tăng sự phân hóa xã hội ở cả nông thôn và thành thị Sự gia tăng tốc độ khai thác của thực dân Pháp không chỉ mang lại lợi ích cho chính quốc mà còn dẫn đến sự phát triển về số lượng và trình độ của công nhân, tư sản, tiểu tư sản tại Việt Nam Đồng thời, xã hội cũng phải đối mặt với những mâu thuẫn giữa di sản văn hóa truyền thống và sự du nhập mạnh mẽ của văn hóa Pháp.
Từ năm 1918 đến 1928, Việt Nam trải qua nhiều biến động sau Thế chiến I, đặc biệt là trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) Thực dân Pháp tăng cường khai thác tài nguyên, mở rộng hệ thống giao thông và thiết lập đồn điền, dẫn đến nhiều thay đổi trong kinh tế - xã hội Việt Nam Mặc dù sự phát triển này diễn ra nhanh chóng, nhưng vẫn còn manh mún và cạnh tranh với các ngành nghề truyền thống Ngân hàng Đông Dương được chính phủ Pháp đẩy mạnh hoạt động, giúp tư bản Pháp kiểm soát hoàn toàn thị trường Đông Dương, đồng thời áp đặt các chính sách khó khăn và thuế cao lên tư sản Việt Nam.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam đã xuất hiện những yếu tố mới, với sự gia tăng về số lượng và trình độ của công nhân, tư sản và tiểu tư sản Sự hình thành đô thị và các trung tâm kinh tế đã thúc đẩy vai trò của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trong mô hình kinh tế thuộc địa có yếu tố tư bản chủ nghĩa Với hơn 221.050 công nhân tập trung tại các cơ sở kinh tế chủ chốt của tư bản Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam đã dần khẳng định vai trò của mình như lực lượng lao động sản xuất và tiềm lực cách mạng trong các cuộc đấu tranh chống thực dân Đồng thời, giai cấp tư sản với sức mạnh kinh tế đáng kể, bao gồm các ngành dệt, xay xát, sửa chữa cơ khí, mỏ than và đồn điền cao su, cùng với sự phát triển của tiểu tư sản đã tạo ra một lớp người lao động tương đương 600.000 người vào năm 1929.
Sự va chạm giữa di sản truyền thống và văn hóa Pháp đã dẫn đến xung đột xã hội sâu sắc, với sự phân hóa rõ rệt: "địa chủ thì giàu lên nhanh chóng, còn đại đa số nông dân thì rơi vào cảnh nghèo đói." Hệ thống giáo dục do thực dân Pháp thiết lập tại Việt Nam đã không thể tạo ra cơ hội học tập công bằng, khi "hàng ngàn thanh niên bị một hệ thống nhà trường 'bỏ rơi'" và chỉ một phần nhỏ dân số ở độ tuổi đi học được tiếp nhận Điều này đã khiến cho giáo dục trở thành công cụ thống trị, mất đi tính chính đáng trong mắt người dân.
Chủ trương “Pháp - Việt đề huề” do Albert Sauraut khởi xướng đã gây ra nhiều tranh cãi trong phong trào chính trị thời bấy giờ Lực lượng quốc gia cải lương, bao gồm Đảng Lập hiến với các đại diện như Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long, cùng với Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, đã thể hiện những quan điểm khác nhau về chủ trương này Trong khi đó, xu hướng dân chủ cách mạng nổi lên với sự tham gia của các trí thức Tây học trẻ như Trần Huy Liệu, Cao Văn Chánh, Nguyễn Văn Bá, Tôn Quang Phiệt, Bùi Công Trừng và Trần Hữu Độ, phản ánh sự đối lập với phong trào quốc gia cải lương.
Môi trường chính trị Việt Nam đã chuyển biến từ các tổ chức hoạt động bí mật như Duy tân hội và Việt Nam Quang phục hội sang sự phát triển mạnh mẽ của ý thức xã hội trong quần chúng, nhờ vào vai trò của hệ thống in ấn và truyền thông Các tổ chức chính trị - xã hội như Đảng Thanh niên, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, và Việt Nam Quốc dân đảng ra đời trong bối cảnh này, cùng với sự phát triển của phong trào công nhân đấu tranh theo khuynh hướng vô sản Từ những cuộc đấu tranh tự phát, phong trào công nhân đã trở nên tự giác với những thành công như cuộc bãi công tại xưởng Ba Son năm 1925, khẳng định vị thế của mình trong cuộc đấu tranh chống thực dân Những diễn biến này đã thách thức tính chất phi dân chủ và sự suy thoái của chế độ thuộc địa tại Việt Nam.
Chủ nghĩa thực dân và đế quốc đã nô dịch các dân tộc nhược tiểu, khiến vấn đề dân chủ trở thành nhu cầu cấp bách cho nhân dân và trí thức yêu nước ở các thuộc địa Sự bùng nổ của các phong trào đấu tranh phản đế vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đặc biệt là cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đã thể hiện khát vọng tự do mạnh mẽ này Tại Việt Nam, vào đầu thế kỷ XX, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp trở nên căng thẳng Vấn đề dân chủ, với hệ giá trị dân chủ cho dân tộc, đã trở thành động lực cho các phong trào đấu tranh với nhiều phương thức khác nhau Tư tưởng và hành động của các nhà yêu nước Việt Nam, như Nguyễn An Ninh, đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi điều này Nguyễn An Ninh, trong chuyến viễn du kiến thức, đã nuôi dưỡng khát vọng tự do và nhận thức mới về dân chủ, qua việc so sánh tình hình thế giới với thực tế khổ cực của người dân thuộc địa An Nam.
Ti ền đề hình thành tư tưở ng chính tr ị Nguy ễ n An Ninh
1.2.1 M ộ t s ố lu ậ n gi ả i c ủa tư tưởng phương Đông về dân ch ủ
Giá trị dân chủ đã tồn tại trong lịch sử tư tưởng và lịch sử Việt Nam, mặc dù thời gian hòa bình hiếm hoi so với thời chiến Tự do là phần không thể thiếu trong di sản vật chất và tinh thần của người Việt, định hình dân tộc tính Việt Nam Những luận giải về dân chủ trong tư tưởng phương Đông đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn An Ninh.
Thông qua tư liệu khảo cổ học, thần thoại và sử học, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Thục đánh giá rằng ý thức đoàn thể dân tộc gắn liền với sự tôn kính tự nhiên, thể hiện qua vật tổ và thờ thần linh Ông nhận định rằng trong lịch sử cổ đại Việt Nam, sự hình thành ý chí dân tộc đã dẫn đến sự lựa chọn lãnh đạo từ phía quần chúng Quan trọng nhất là người lãnh đạo cần phải xem quốc gia là của chung, không phải là tài sản riêng của một nhà hay một họ.
Nhà sử học Phan Huy Lê cùng đồng nghiệp đã nghiên cứu về giá trị văn hóa chung qua hình ảnh nam nữ trên trống đồng Đông Sơn, thể hiện sự hòa quyện giữa con người, nhạc cụ, và thiên nhiên.
Nghệ thuật phản ánh chân thực cuộc sống con người và mối quan hệ giữa họ với thế giới xung quanh thông qua phong cách diễn tả sinh động Các tác phẩm thường sử dụng những đường nét cách điệu, ước lệ, cùng với bố cục cân xứng và hài hòa để tạo nên sự thu hút và ấn tượng mạnh mẽ.
Yếu tố dân chủ trong lịch sử Việt Nam được xem xét qua lăng kính kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn hậu khởi nghĩa Hai Bà Trưng Nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu chỉ ra rằng, xã hội thời điểm đó đã bắt đầu hình thành tinh thần dân chủ trong các hoạt động sinh hoạt và sản xuất ở làng xã Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa đã chấm dứt một chính quyền độc lập ngắn ngủi, dẫn đến việc thiếu hụt lực lượng sản xuất và biến các thửa ruộng thành ruộng đất công Hệ thống phân công lao động trong làng xã đã tạo ra sự bình đẳng giữa người có tài sản và không có tài sản, khi cả hai đều có quyền hưởng lợi từ việc canh tác ruộng đất.
Comment [L1]: Nguy ễn Đăng Thụ c (1964)
Tư tưở ng Vi ệ t Nam – Tư tưở ng tri ế t h ọ c bình dân Nhà sách Khai Trí
Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết học bình dân Nhà sách Khai Trí
Comment [L3]: Lê Văn Siêu (2003) Việt Nam văn minh sử - Lược khảo Tập Thượng: Từ ngu ồ n g ốc đế n th ế k ỉ th ứ X Nhà xu ấ t b ả n Lao động
Lê Văn Siêu dẫn chứng sự phân chia ruộng công ở làng Hạ Lỗ, phủ Từ
Sơn, Bắc Ninh thể hiện dấu vết dân chủ qua cách tổ chức canh tác, với mỗi mảnh ruộng phục vụ chức năng khác nhau nhằm lợi ích chung, “lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng” Điều này có tác động lâu dài đến việc đánh giá bản chất làng xã và xã hội Việt Nam.
Nguyễn An Ninh đã phân tích sâu sắc về tính dân chủ ổn định trong các làng xã Việt Nam, đồng thời phản bác những nỗ lực ngụy biện của chính quyền thực dân, khẳng định rằng Việt Nam không chỉ tồn tại những hỗn loạn trước khi quân đội xâm lược.
Pháp đến làm công cuộc “khai hóa”
Vấn đề dân chủ trong tư tưởng Việt Nam thiếu hệ thống lập thuyết và quan điểm liên kết chặt chẽ Biến động lịch sử và không gian xã hội phương Đông đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam Yếu tố hài hòa và dung thông không chỉ gắn liền với lịch sử và văn hóa dân tộc, mà còn thể hiện qua giá trị dân chủ cá nhân Chẳng hạn, trong thơ văn và cuộc đời của Hồ Xuân Hương, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã có những đánh giá sâu sắc về tác phẩm và tư tưởng của bà.
Hương là nhà thơ dân chủ nhất trong số các nhà văn – nhà thơ cùng thời
Văn học dân tộc không chỉ phản ánh tinh thần thế giới quan của văn hóa dân gian mà còn sử dụng những phương tiện ngôn ngữ đặc thù của nó Mặc dù không chiếm ưu thế chủ đạo, nhưng yếu tố này vẫn tồn tại và không bị triệt tiêu trong nền văn học.
Vấn đề dân chủ trong pháp luật được thể hiện qua các điều luật và quy định trong bộ luật Hồng Đức, được biên soạn dưới triều đại vua Lê Thánh Tông Bộ luật này không chỉ mang tính chất tiến bộ mà còn nhân bản, nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con người trong xã hội Hậu Lê Cụ thể, luật cấm mọi hành động xâm phạm nhân phẩm, như việc chửi mắng, đánh đập giữa các thành viên trong gia đình, thể hiện rõ ràng qua các điều từ 473.
Bộ luật quy định nghiêm ngặt về các hành vi vi phạm pháp luật như tố cáo sai sự thật, quấy nhiễu dân, và bắt bớ người vô tội Những hành động như giam giữ trái phép, đánh đập tù nhân, và tra tấn người cao tuổi hay vị thành niên đều bị xử lý nghiêm khắc Đặc biệt, bộ luật cấm các hành vi tự tiện đánh dấu hay ghi chữ lên người khác, bao gồm cả vợ, con và người hầu Những quy định này thể hiện cam kết của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân và đảm bảo công bằng xã hội.
Các quy định trong luật pháp như điều 165, 168, 365 nhằm xử lý những quan lại và cá nhân lạm dụng quyền lực để ức hiếp dân chúng, bao gồm việc bắt ép lấy con gái người dân (điều 336, 338) và tự tiện bắt dân làm nô lệ (điều 302) Luật cũng cấm can thiệp vào quyền tự quyết của người vợ muốn giữ lòng trung thủy (điều 320) và nghiêm cấm mọi hành vi gian dâm (từ điều 401 đến 410 chương Thông gian) Đặc biệt, các điều 401, 403, 404, 406 quy định rằng những hành vi vi phạm nghiêm trọng nhân phẩm như hiếp dâm, kể cả với trẻ em dưới 12 tuổi, và loạn luân trong gia đình sẽ bị xử lý nghiêm khắc với hình phạt nặng nề như lưu đày hoặc chém.
Dân chủ ở xã hội phương Tây đã trải qua một quá trình nhận thức tự do từ các nền văn minh cá nhân đến cận – hiện đại, trong khi triết lý phương Đông, đặc biệt là tư tưởng của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh, cũng để lại dấu ấn quan trọng Tư tưởng của Trang Tử được coi là nền tảng cho một trạng thái dân chủ về tự do cá nhân, đạt được thông qua nhận thức tự chủ về bản tính và tri thức Nhà nghiên cứu Phùng Hữu Lan đã chỉ ra rằng tư tưởng trong thiên Tiêu Diêu Du của Trang Tử không chỉ mang tính giản dị mà còn chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa về hạnh phúc, nhấn mạnh rằng sự phát triển tự do bản tính có thể dẫn đến hạnh phúc tương đối, trong khi hạnh phúc tuyệt đối yêu cầu hiểu biết sâu sắc về bản chất sự vật Ảnh hưởng từ gia đình và quê hương đã tác động mạnh mẽ đến Nguyễn An Ninh từ thuở nhỏ, đặc biệt trong bối cảnh phong trào Minh tân Nam Kì.
An Khương, thân phụ của Nguyễn An Ninh, đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp con trai thấu hiểu tinh thần dân chủ Điều này phản ánh ý thức của nhiều thế hệ người Việt về lối sống và khát khao làm chủ vận mệnh cá nhân Từ khi còn nhỏ, Nguyễn An Ninh đã cảm nhận được sự bất công qua những câu thơ thể hiện nỗi niềm về xích xiềng và sự tự do Ý thức về dân chủ và tự do đã hình thành trong ông từ sớm, ảnh hưởng đến những quyết định trong cuộc đời sau này Ông cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ quan điểm của Mạnh Tử về vị trí của dân chúng trong xã hội, nhấn mạnh rằng sự thay đổi thực chất là cần thiết hơn là những khẩu hiệu ngụy dân chủ trong bối cảnh Việt Nam thuộc địa.
1.2.2 Tư tưở ng dân ch ủ tư sả n
1.2.2.1 D ấ u ấ n dân ch ủ trong nh ững Tân văn, Tân thư củ a h ọ c gi ả Trung
Tư tưởng dân chủ tư sản đã đóng vai trò quan trọng trong việc khởi xướng nhiều thay đổi đáng kể trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ bối cảnh lịch sử đầy thách thức Sự phát triển của tư tưởng này diễn ra song song với sự suy thoái của hệ tư tưởng phong kiến, đặc biệt trong bối cảnh đối đầu với sự phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa tại Pháp trong giai đoạn thực dân Cuộc nội chiến kéo dài và chính sách bế quan tỏa cảng đã làm suy yếu hạ tầng xã hội Việt Nam, khiến người dân phải đối mặt với tình trạng bất công và sự suy yếu của chế độ phong kiến Sự kiện Việt Nam trở thành thuộc địa qua Hiệp ước Harmand năm 1883 và thất bại của phong trào Cần Vương vào năm 1896 đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của hệ tư tưởng phong kiến, phơi bày những hạn chế tồn tại lâu dài mà chưa được giải quyết triệt để.
Nguy ễ n An Ninh – cu ộc đờ i và s ự nghi ệ p
Nguyễn An Ninh sinh ngày 15 tháng 9 năm 1900, tại làng Long
Phượng, tổng Phước Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An), là nơi có nguồn gốc tổ tiên của ông Nguyễn An Ninh Theo bà Nguyễn Thị Minh, con gái của ông, tổ tiên ông xuất phát từ miền Bắc và đã phải thay họ từ Đoàn sang Nguyễn do cuộc phân tranh giữa Trịnh và Nguyễn Ông nội của Nguyễn An Ninh, cụ Nguyễn An Nghi, đã chuyển từ phủ An Nhơn xuống Phước Lý, nơi ông dạy võ, chữa bệnh và dạy học Khi thực dân Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, cụ tham gia khởi nghĩa Trương Định cho đến khi hy sinh vào năm 1864 Sau đó, gia đình cụ chuyển về quê vợ Phước Quảng, nơi cụ truyền dạy nghề y cho hai con trai là Nguyễn An Khương và Nguyễn An Cư, đồng thời nhắc nhở con cháu về nỗi nhục mất nước của dân tộc.
Nguyễn An Khương (1860 – 1931) là thân phụ của Nguyễn An Ninh và là một nhà văn, chí sĩ yêu nước nổi bật ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Ông không chỉ nổi tiếng với các tác phẩm văn học như “Mong học thê giai” và các bản dịch như “Tam quốc diễn nghĩa”, “Đông Châu liệt quốc”, “Phong thần”, “Thủy Hử”, mà còn là người sáng lập khách sạn Chiêu Nam Lầu, nơi hỗ trợ tài chính cho phong trào Duy tân và là điểm hẹn cho các nhà yêu nước từ miền Bắc đến miền Trung Ông đã tích cực tham gia phong trào Duy tân cùng với những nhân vật yêu nước khác như Trần Chánh Chiếu và Nguyễn Chánh Sắt.
Thân mẫu của Nguyễn An Ninh, Trương Thị Ngự (1873 – 1911), là một người phụ nữ hiền hậu, nết na và sống giản dị, gần gũi với mọi người Dù sức khỏe yếu đi vì lo toan cho gia đình, bà vẫn nỗ lực quản lý Chiêu Nam Lầu cùng chị chồng, bà Nguyễn Thị Xuyên, cho đến khi bệnh tình trở nặng và qua đời vào năm 1911.
Qua 10 năm sinh sống ở Tân An (1900 – 1910), Nguyễn An Ninh được cha đưa lên Sài Gòn sống cùng ông bà nội Ông được ông nội xin vào học trường dòng Taberd, sớm bộc lộ tư chất thông minh đến độ “nghe giảng ở trường đã hiểu, về nhà chỉ đọc thêm sách” [21, tr 110] Sau khi thi đỗ Certificat trường dòng Taberd và đậu bằng trung học cơ sở (Brevet élémentarie) của trường Chasseloup Laubat (nay là trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn), ông và được tuyển thẳng vào Cao đẳng Y Hà Nội năm
Năm 1916, Nguyễn An Ninh bắt đầu sự nghiệp viết báo và sau đó theo học ngành Luật tại Hà Nội Ông nhận thấy rằng chương trình học Luật trong nước chủ yếu tập trung vào kiến thức về luật cai trị, do thực dân Pháp và hệ thống giáo dục thuộc địa không muốn đào tạo luật sư bản địa Quyết tâm sang Pháp, ông mong muốn học luật từ chính nơi phát sinh ra các quy định pháp lý, tìm hiểu nguồn cội của văn minh Pháp và tư tưởng Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, đồng thời bày tỏ nguyện vọng khám phá các nước châu Âu khác.
Trong quá trình học Luật tại Hà Nội, Nguyễn An Ninh nhận ra rằng nền giáo dục thuộc địa dưới sự thống trị của thực dân Pháp chỉ nhằm mục đích đào tạo những công chức phục vụ cho chế độ thực dân, và thiếu đi tinh thần tự chủ cần thiết.
Trước khi đến Hà Nội học, Nguyễn An Ninh đã viết các tin ngắn cho tờ Courrier Saigonnais, đấu tranh cho danh dự và phẩm giá cá nhân Ông kiên quyết thúc đẩy sự thay đổi để phát triển dân tộc khỏi áp bức Qua việc tìm hiểu và trải nghiệm các tư tưởng dân chủ, tự do từ phương Tây, Nguyễn An Ninh đã bắt đầu xác định nghịch lý của tự do dựa trên kiến thức đã học và tham gia vào thực tiễn lịch sử - xã hội Việt Nam.
Giai đoạn từ 1923 đến 1926, Nguyễn An Ninh đã trình bày những luận giải về dân chủ trong nhiều lĩnh vực như chính trị, xã hội, ngôn ngữ, giáo dục, kinh tế, đạo đức và văn hóa Hai bài viết nổi bật là “Chung đúc một nền học thức cho An Nam” và “Lý tưởng của thanh niên An Nam” đã thể hiện tầm nhìn của ông về tình trạng văn hóa và tinh thần dân tộc, đồng thời khơi dậy tinh thần tự lực tự cường trong nhân dân Trong “Lý tưởng của thanh niên An Nam”, ông nhấn mạnh quyền tự do cá nhân và khát khao hiểu biết, cho rằng những giá trị này có thể mang lại ý nghĩa lớn lao hơn mọi hình thức cai trị hà khắc, tạo nền tảng văn hóa cho thành công tương lai của dân tộc.
Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của sự bình đẳng về tinh thần và khát vọng cống hiến cho xã hội thông qua sự tự chủ, trái ngược với những đặc quyền mà chế độ thực dân Pháp áp đặt Qua hai bài diễn thuyết "Chung đúc một nền học thức cho dân An Nam" (25/01/1923) và "Lý tưởng của thanh niên An Nam" (15/10/1923), Nguyễn đã truyền tải thông điệp này một cách rõ ràng.
Nguyễn An Ninh đã phê phán mạnh mẽ các chính sách của thực dân Pháp và những hủ tục đang xói mòn truyền thống dân tộc Hai bài diễn thuyết của ông nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ quần chúng và các giai tầng xã hội ở Nam Kỳ Với sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè, ông đã thành lập tờ báo “La Cloche Fêlée” vào ngày 10/12/1923, đánh dấu bước khởi đầu cho phong trào cách mạng và dân chủ tại Việt Nam Trong thời gian hoạt động, ông đã sử dụng nhiều bút danh để đăng tải các bài viết về hiện trạng xã hội Việt Nam, tư tưởng cách mạng của Pháp và Ấn Độ, cũng như giới thiệu “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” và chủ nghĩa Marx Sau đó, ông đã chuyển đổi tờ báo sang “L’Annam” để thu hút sự quan tâm rộng rãi của quần chúng, đặc biệt là từ đồng bào miền Nam.
Trong tác phẩm “Nước Pháp ở Đông Dương,” Nguyễn An Ninh nêu rõ tình trạng phong trào chống thực dân tại Việt Nam và đặt ra các câu hỏi về tự do cá nhân, quyền công dân, và quyền bầu cử của người bản xứ Ông phân biệt rõ giữa thực dân Pháp và nhân dân Pháp, kêu gọi sự thay đổi trong suy nghĩ và hành động của người Pháp đối với thuộc địa, đặc biệt là Việt Nam Ông khẳng định rằng nền dân chủ thuộc địa chỉ là giả tạo và thể hiện lập trường chống thực dân kiên quyết Tiếp tục, Nguyễn An Ninh viết nhiều bài luận và báo chí nhằm làm rõ vấn đề dân chủ dưới góc độ chính trị, an ninh, và luật pháp, đồng thời thể hiện ảnh hưởng từ Gandhi, Tagore và triết học Khai sáng Pháp trong tư tưởng của mình.
Cuốn sách "Nước Pháp ở Đông Dương" (tiếng Pháp: Le France en Indochine) do Nguyễn An Ninh hoàn thành vào cuối năm 1924 và được in ấn vào tháng 4 năm 1925, nhân dịp đón Phan Châu Trinh về Sài Gòn Tác phẩm đã được nhà văn Romain Rolland đăng toàn văn trên báo "Europe" năm 1925 Trong cuốn sách, các quan điểm về dân chủ của Jean Jaures, Léopold Cadière và Paul Claudel được thể hiện, song hành với ảnh hưởng sâu sắc của Phan Châu Trinh, người đã để lại dấu ấn quan trọng trong giai đoạn 1923 – 1928 thông qua các bài thuyết trình như “Đạo đức và luân lý Đông – Tây” và “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”.
Các vụ án chính trị đã tác động sâu sắc đến tình hình chính trị của thời kỳ đó, đặc biệt là vụ án Bardez (1925) tại Campuchia và vụ án Phan Bội Châu (1925), kích thích hoạt động chính trị công khai tại các đô thị và cuộc đấu tranh ở nông thôn Sự gia tăng của các yêu cầu về tự do chính trị và tự do cá nhân phản ánh rõ rệt qua những sự kiện này Nguyễn An Ninh nhận thấy sự chia rẽ ngày càng sâu sắc trong phong trào chống thực dân, với Đảng Lập hiến do Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long lãnh đạo đối lập với các lực lượng cách mạng – dân chủ như Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn và nhiều nhân vật khác.
Nguyễn An Ninh thể hiện sự thất bại của tự do qua bài “Hồi kết của vụ án Bardez” và loạt bài “Lời tự sự của người nô lệ”, trong đó ông phản đối mọi ý tưởng cưỡng ép về dân chủ thuộc địa Ông phê phán sự đàn áp của chính quyền thực dân và ủng hộ các nhân vật, phong trào cách mạng quần chúng trong việc khẳng định quyền tự quyết và quyền làm chủ của chính mình.
Giai đoạn 1926-1928 đánh dấu bước chuyển lớn trong tư tưởng và sự nghiệp đấu tranh của Nguyễn An Ninh, khi đám tang Phan Châu Trinh và vụ án Phan Bội Châu tác động mạnh đến ông và phong trào cách mạng Việt Nam Sự vắng mặt của hai nhà cách mạng lão thành buộc lực lượng đấu tranh phải đưa ra những lựa chọn mới, dẫn đến nhiều tranh luận và xung đột Nguyễn An Ninh quyết định không hợp tác với chế độ thực dân Pháp, kiên định với con đường đấu tranh dân chủ vì nhân dân.