1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức, người lao động ở trường đại học nội vụ hà nội

98 32 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 199,55 KB

Cấu trúc

  • ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

    • NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

      • 1.1.1. Khái niệm viên chức

      • 1.1.2. Khái niệm hoạt động nghiên cứu khoa học

      • 1.1.3. Khái niệm hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học

      • 1.2.1. Đặc điểm của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

      • 1.2.2. Mục đích của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

      • 1.2.3. Vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

      • 1.3.1. Công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

      • 1.3.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động NCKH trong trường Đại học

      • 1.4.2. Yếu tố chủ quan

      • Tiểu kết chương 1

      • 2.1.1. Lịch sử hình thành trường Đại học Nội vụ Hà Nội

      • 2.1.2.1. Khái quát về nguồn lực phục vụ cho khoa học công nghệ của Trường

      • 2.1.2.2. Khái quát về kết quả các hoạt động nghiên cứu khoa học của Trường

      • NCKH

      • 2.2.2. Công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức, người lao động ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

      • 2.2.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức, người lao động ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

      • 2.3.2. Hạn chế

      • Tiểu kết chương 2

      • 3.2.1. Xây dựng môi trường nghiên cứu khoa học, khuyến khích, tạo động lực cho đội ngũ viên chức nghiên cứu khoa học

      • 3.2.2. Tăng cường công bố kết quả, sản phẩm của hoạt động NCKH của viên chức

      • 3.2.3. Điều chỉnh Quy chế, quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học

      • 3.2.4. Nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu khoa học

      • 3.2.5. Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học và liên kết quốc tế trong nghiên cứu khoa học

      • 3.2.6. Tăng cường các điều kiện về kinh phí phục vụ các hoạt động nghiên cứu khoa học của viên chức.

      • 3.2.7. Xây dựng bộ tiêu chí KPI trong đánh giá năng lực hoạt động của viên chức trong Trường, trong đó có hoạt động NCKH

      • 3.3.1. Đối với Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

      • 3.3.2. Đối với phòng Quản lý đào tạo sau Đại học

      • 3.3.2. Đối với Khoa, Bộ môn

      • Tiểu kết chương 3

Nội dung

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phát triển khoa học và công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học, nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu vấn đề này Một số nghiên cứu tiêu biểu đã được thực hiện nhằm làm rõ tầm quan trọng của việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong giáo dục đại học.

Cuốn sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của Vũ Cao Đàm (2007) do NXB Khoa học và Kỹ thuật phát hành, cung cấp kiến thức về phương pháp luận và cấu trúc của một công trình nghiên cứu khoa học Tác phẩm này trình bày các vấn đề khoa học theo mối liên hệ logic với ý tưởng khoa học, đồng thời đưa ra hướng dẫn cụ thể cho những người mới bắt đầu nghiên cứu khoa học, đặc biệt chú trọng đến đối tượng sinh viên.

Bài viết của Đỗ Thị Châu trên Tạp chí Giáo dục, Số 96/9, nhấn mạnh vai trò quan trọng của nghiên cứu khoa học trong việc đổi mới phương pháp dạy học, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo đại học Tác giả chỉ ra rằng việc áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, dựa trên nghiên cứu khoa học, sẽ giúp sinh viên phát triển tư duy phản biện và khả năng tự học Bài viết cũng đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm cải thiện quy trình giảng dạy, tạo ra môi trường học tập tích cực và hiệu quả hơn cho sinh viên.

Năm 2004, tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) trong các trường đại học, nhấn mạnh rằng NCKH đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng đào tạo đại học.

Đề tài “Nghiên cứu khoa học trong giảng viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học” của Nguyễn Thúy Nga (2005) khảo sát ý kiến giảng viên về NCKH và cho thấy đa số giảng viên nhận thức được tầm quan trọng của nghiên cứu Tuy nhiên, nhiều giảng viên thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong NCKH, chủ yếu chỉ tham gia nghiên cứu trong quá trình học tập và theo yêu cầu của chương trình Đáng chú ý, sau khi hoàn tất chương trình học, rất ít giảng viên tiếp tục tham gia NCKH, với nguyên nhân chính là thiếu thời gian.

Đề tài "Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Đại học Huế" của Phan Thị Tú Nga (2011) trên Tạp chí Khoa học Đại học Huế đã chỉ ra rằng hiệu quả hoạt động NCKH của giảng viên tại Đại học Huế bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố Các yếu tố khách quan bao gồm cơ chế, chính sách, môi trường kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ địa phương, đặc điểm giới tính, và sự quản lý, điều hành hoạt động nghiên cứu Bên cạnh đó, các yếu tố chủ quan như động lực tham gia NCKH, ý thức và thái độ đối với nghiên cứu, trình độ, năng lực chuyên môn, cùng với kinh nghiệm của giảng viên cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả NCKH.

Nghiên cứu của Phạm Huy Hiền (2010) trên Tạp chí Tia sáng đã so sánh năng lực nghiên cứu khoa học của 11 nước Đông Á thông qua các công bố quốc tế Từ đó, tác giả đề xuất chuyển đổi nhiều trường đại học Việt Nam từ mô hình giảng dạy chủ yếu sang các đại học nghiên cứu Đặc biệt, cần tập trung nguồn lực nghiên cứu vào các trường đại học đa ngành, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Trong nghiên cứu "Yếu kém của nghiên cứu khoa học giáo dục Việt Nam: nguyên nhân và giải pháp" của Trấn Thanh Ái (2012) tại Trường Đại học Cần Thơ, tác giả đã phân tích nguyên nhân gây ra sự yếu kém trong nghiên cứu khoa học giáo dục Việt Nam, bắt đầu từ việc xác định tên đề tài Nghiên cứu chỉ ra rằng các định hướng nghiên cứu thường tập trung vào "thực trạng", "biện pháp", "thực trạng và giải pháp", hoặc "vận dụng" Qua khảo sát hơn 600 tên luận văn thạc sĩ giáo dục được bảo vệ trong nước, tác giả đã phác họa thực trạng và nguyên nhân của vấn đề này, đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục.

Trong nghiên cứu "Nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường Đại học" của Thạc sĩ Cao Thanh Phước (2012) tại trường Đại học Văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) tại các trường đại học Để cải thiện chất lượng NCKH, tác giả đề xuất ba nhóm giải pháp chính: đổi mới cơ chế quản lý NCKH, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, và tăng cường kinh phí cùng đầu tư vật liệu phục vụ cho hoạt động NCKH.

Trong nghiên cứu của TS Ngô Minh Thuận (2015) về nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học tại Học viện Chính sách và Phát triển, tác giả đã chỉ ra rằng nhiều giảng viên chưa hoàn thành giờ nghiên cứu khoa học theo định mức, đặc biệt ở các khoa và bộ môn cơ bản, giáo dục đại cương, nơi không có sinh viên Điều này tạo ra một môi trường nghiên cứu khoa học vừa là rào cản vừa là thách thức trong việc phát huy năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên.

Nghiên cứu của Sax và các tác giả (2002) trong đề tài "Năng suất nghiên cứu của khoa: Khám phá vai trò của giới và gia đình - yếu tố liên quan" đã đề xuất một mô hình nghiên cứu với 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nghiên cứu, bao gồm: 1) Các biến nhân khẩu học; 2) Đặc điểm nơi công tác; 3) Đặc điểm cá nhân; 4) Lĩnh vực nghiên cứu.

Theo nghiên cứu với 8544 phản hồi từ giảng viên toàn thời gian tại 57 trường đại học trên toàn Hoa Kỳ, các yếu tố liên quan đến tình trạng gia đình không có tác động đáng kể Trong khi đó, hai nhóm yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là đặc điểm môi trường làm việc và đặc điểm cá nhân.

Nghiên cứu của Chen, Gupta & Hoshower (2006) với đề tài “Factors that motivate

Nghiên cứu "Các yếu tố thúc đẩy Khoa Kinh doanh thực hiện nghiên cứu: Phân tích lý thuyết kỳ vọng" đã khảo sát các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến việc thực hiện NCKH của giảng viên tại 10 trường Đại học, với 670 bảng hỏi được gửi và 320 giảng viên phản hồi Kết quả cho thấy giảng viên đánh giá cao các phần thưởng có giá trị vật chất và tinh thần; giảng viên chưa biên chế thường được động viên hơn bởi phần thưởng vật chất, trong khi giảng viên biên chế lại bị thu hút bởi phần thưởng tinh thần Năng suất nghiên cứu có mối liên hệ tích cực với tình trạng hợp đồng dài hạn và tỷ lệ thời gian dành cho nghiên cứu, nhưng lại có tương quan âm với số năm làm việc trong giáo dục Ngoài ra, không có sự khác biệt về năng suất nghiên cứu dựa trên lĩnh vực giảng dạy hay giới tính.

Các nghiên cứu hiện có đã chỉ ra các yếu tố liên quan đến hoạt động NCKH, xây dựng hệ thống lý luận và ý nghĩa của NCKH, đồng thời đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả và chất lượng NCKH Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào về hoạt động NCKH của viên chức tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội Bài viết này kế thừa các vấn đề lý luận về NCKH, mục đích và vai trò của NCKH đối với viên chức, cùng các yếu tố tác động, hình thức và phương pháp NCKH Từ đó, tác giả phân tích thực trạng NCKH và đề xuất giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH của đội ngũ viên chức trong nhà trường.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài thực hiện 3 nhiệm vụ sau

+ Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học

4 trong các trường Đại học

Bài viết phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội, từ đó chỉ ra những thành tựu nổi bật cũng như những hạn chế trong quá trình nghiên cứu Đồng thời, bài viết cũng nêu rõ nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này, giúp hiểu rõ hơn về thực trạng và hướng phát triển trong tương lai.

Để thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, cần đề xuất một số giải pháp cụ thể Trước hết, tăng cường hỗ trợ tài chính và cơ sở vật chất cho các nghiên cứu viên Thứ hai, khuyến khích hợp tác giữa các giảng viên và các tổ chức nghiên cứu bên ngoài Thứ ba, tổ chức các hội thảo và khóa đào tạo nhằm nâng cao kỹ năng nghiên cứu cho viên chức Cuối cùng, cần xây dựng chính sách khen thưởng hợp lý để động viên và ghi nhận những đóng góp của viên chức trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.

Giả thuyết nghiên cứu

Hiện nay, hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của viên chức trong trường còn nhiều hạn chế và hiệu quả chưa cao Để nâng cao hiệu quả NCKH, cần tăng cường vai trò, trách nhiệm và nhận thức của viên chức về hoạt động này Đồng thời, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý NCKH và tạo ra môi trường thuận lợi để viên chức có thể tham gia tích cực, từ đó đảm bảo kết quả nghiên cứu có thể áp dụng vào thực tiễn.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin cùng tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời áp dụng một số phương pháp cụ thể để phân tích và giải quyết vấn đề.

Nhóm tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu bằng cách sử dụng các văn bản pháp lý và tài liệu khoa học để xây dựng cơ sở lý luận Họ cũng phân tích các báo cáo tổng kết hoạt động khoa học công nghệ của Trường nhằm làm rõ nội dung thực trạng trong chương 2.

Phương pháp khảo sát qua bảng hỏi được sử dụng để thu thập thông tin phản hồi về hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của viên chức tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Dữ liệu định lượng thu thập được kết hợp với các tài liệu định tính khác, tạo điều kiện cho người nghiên cứu thực hiện các đánh giá và phân tích có tính chất định tính rõ ràng và xác đáng, từ đó tăng cường sức thuyết phục của kết quả nghiên cứu.

Đối tượng khảo sát bao gồm viên chức quản lý, giảng dạy và hành chính tại Viện Nghiên cứu và Phát triển, cùng với các Phòng, Khoa thuộc trường Đại học Nội vụ Hà Nội, trụ sở tại Hà Nội.

+ Số phiếu phát ra: 160 phiếu

+ Số phiếu thu về: 122 phiếu

+ Số phiếu hợp lệ: 112 phiếu

(Số phiếu viên chức chức giảng dạy: 80 phiếu; Số phiếu viên chức hành chính: 32 phiếu)

+ Phân tích kết quả điều tra được nhập vào máy tính và được xử lý thông qua các công cụ phần mềm Excel.

Nghiên cứu kết hợp phương pháp định tính qua phỏng vấn sâu giảng viên và viên chức hành chính để khám phá những khó khăn và ảnh hưởng của các yếu tố đến sự chủ động trong nghiên cứu khoa học (NCKH) của đội ngũ viên chức và người lao động tại Nhà trường Đồng thời, nghiên cứu cũng thu thập các khuyến nghị từ giảng viên nhằm nâng cao chất lượng hoạt động NCKH của Nhà trường.

Chúng tôi áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu đa dạng như phân tích, thống kê, tổng hợp và so sánh để có cái nhìn toàn diện và hệ thống về vấn đề nghiên cứu.

Đóng góp mới của đề tài

Đề tài này tập trung vào việc tiếp thu và hệ thống hóa các cơ sở lý luận liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) và chất lượng của nó Đồng thời, nghiên cứu cũng đề xuất các công cụ và tiêu chí nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động NCKH của đội ngũ viên chức tại các trường Đại học.

+ Xây dựng các tiêu chí của bảng hỏi để khảo sát thực trạng hoạt động NCKH của đội ngũ viên chức Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Đề tài này mang giá trị khoa học cao và có khả năng ứng dụng thực tiễn trong hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của viên chức tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Nó cung cấp căn cứ khoa học để đánh giá và lượng hóa các tiêu chí về hiệu quả hoạt động NCKH, đồng thời xác định những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NCKH của đội ngũ viên chức tại trường.

+ Đề tài còn là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu quan tâm

Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cầu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường Đại học

Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Một số khái niệm liên quan

Theo Luật Viên chức ban hành ngày 15/11/2010, viên chức được định nghĩa là công dân Việt Nam được tuyển dụng cho các vị trí việc làm tại các đơn vị sự nghiệp công lập Họ làm việc theo hợp đồng và nhận lương từ quỹ lương của đơn vị công lập, tuân thủ các quy định của pháp luật.

Viên chức được bổ nhiệm vào các chức danh nghề nghiệp và quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập như giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao và tài nguyên môi trường Công việc của viên chức chủ yếu mang tính chuyên môn, không phải quyền lực công Trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là tại các trường đại học, viên chức đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục Đội ngũ viên chức trong các trường đại học bao gồm các nhà khoa học, giảng viên và nhân viên làm việc theo hợp đồng tại các phòng, ban, đơn vị trực thuộc, góp phần vào hoạt động hành chính và đào tạo.

Viên chức giảng dạy là những giảng viên trực tiếp thực hiện công tác giảng dạy tại các cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng Họ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và cải thiện hiệu quả đầu tư của các cơ sở này Trong tổ chức cán bộ của một trường đại học, giảng viên là lực lượng chủ yếu, bên cạnh đó còn có viên chức hành chính và những người kiêm nhiệm giảng dạy.

1.1.2 Khái niệm hoạt động nghiên cứu khoa học

Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá kiến thức và học thuyết mới về tự nhiên và xã hội, giúp thay thế dần những kiến thức cũ không còn phù hợp Nó bao gồm hệ thống tri thức về quy luật vật chất, sự vận động của vật chất, cũng như quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy Hệ thống tri thức này được hình thành qua lịch sử và liên tục phát triển dựa trên thực tiễn xã hội.

NCKH là hoạt động khám phá và thử nghiệm nhằm phát hiện những điều mới về tự nhiên và xã hội, đồng thời sáng tạo các phương pháp kỹ thuật tiên tiến hơn Để thực hiện NCKH hiệu quả, người nghiên cứu cần có kiến thức vững vàng trong lĩnh vực của mình và rèn luyện kỹ năng làm việc tự lực, có phương pháp từ khi còn học ở trường.

Theo UNESCO, hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm các hoạt động có hệ thống liên quan đến việc sản xuất, nâng cao, truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học và kỹ thuật Những hoạt động này bao trùm nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, y học, nông nghiệp, cũng như các khoa học xã hội và nhân văn (Trần Khánh Đức, 2004).

Theo Luật Khoa học và Công nghệ (Quốc hội, 2013), nghiên cứu khoa học (NCKH) là hoạt động khám phá và tìm hiểu bản chất cũng như quy luật của các hiện tượng tự nhiên và xã hội NCKH bao gồm hai loại chính: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, nhằm sáng tạo giải pháp có thể áp dụng vào thực tiễn.

Theo Vũ Cao Đàm, NCKH là hoạt động xã hội nhằm khám phá những điều chưa được biết trong khoa học, bao gồm việc phát hiện bản chất sự vật và phát triển nhận thức về thế giới Ngoài ra, NCKH cũng liên quan đến việc sáng tạo các phương pháp và công cụ kỹ thuật để cải tạo thế giới Về mặt thao tác, NCKH là quá trình hình thành và chứng minh các luận điểm khoa học liên quan đến sự vật hoặc hiện tượng cần được nghiên cứu.

NCKH là một khái niệm rộng, bao gồm quá trình nghiên cứu, kết quả đạt được, ứng dụng kết quả và phổ biến kiến thức khoa học Hoạt động NCKH có thể được thể hiện qua nhiều hình thức như thực hiện nghiên cứu, xuất bản công trình, đăng ký bằng sáng chế và nhận giải thưởng Đối với giảng viên đại học, NCKH không chỉ liên quan đến giảng dạy mà còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Quan niệm về NCKH trong đại học có thể chia thành hai nghĩa: hẹp, chỉ tập trung vào việc tạo ra tri thức mới, và rộng, bao gồm cả việc truyền bá tri thức và hướng dẫn sinh viên thực hiện các công trình nghiên cứu.

Như vậy, có thể nói, hoạt động NCKH là hoạt động để sáng tạo ra khoa học, trong đó:

Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là quá trình sáng tạo của các nhà khoa học, nhằm khám phá và hiểu biết về thế giới Qua đó, họ xây dựng hệ thống tri thức có giá trị, phục vụ cho việc cải tạo và phát triển thế giới xung quanh.

Chủ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là các nhà khoa học độc lập, sở hữu phẩm chất, trí tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo bài bản.

Khách thể của hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) bao gồm các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy Nhà khoa học tiến hành nghiên cứu nhằm khám phá và sáng tạo ra tri thức khoa học mới.

Đối tượng của hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là tri thức khoa học, được hình thành từ quá trình nhận thức có mục đích và kế hoạch Tri thức này được phát triển thông qua các phương pháp và công cụ đặc biệt do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện.

Sản phẩm từ hoạt động khoa học rất đa dạng và phong phú, có khả năng phục vụ cả trực tiếp lẫn gián tiếp cho đời sống xã hội.

Hoạt động NCKH trong nghiên cứu này đề cập đến các nhiệm vụ mà giảng viên cần thực hiện để hoàn thành trách nhiệm nghiên cứu khoa học đã được quy định Những hoạt động này không chỉ đóng góp vào kho tàng kiến thức của nhân loại mà còn giúp giảng viên nâng cao hiểu biết về chuyên ngành giảng dạy và khám phá những kiến thức tổng hợp liên quan.

Hoạt động NCKH trong các trường Đại học bao gồm:

1) Thực hiện các đề tài NCKH các cấp;

2) Thực hiện các chương trình, đề án, dự án, phát triển công nghệ;

3) Thực hiện việc biên soạn chương trình đào tạo, bồi dưỡng;

4) Thực hiện biên soạn giáo trình hay sách chuyên khảo, tập bài giảng;

5) Thực hiện đề xuất các sáng kiến, ứng dụng vào hoạt động chuyên môn;

6) Thực hiện việc công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật;

7) Viết tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học ở trong và ngoài nước;

8) Viết tham luận trong các hội thảo khoa học của khoa, bộ môn;

9) Thực hiện hướng dẫn người học NCKH;

10) Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về NCKH và CN

Đặc điểm, mục đích và vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

1.2.1 Đặc điểm của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

Hiện nay, các trường đại học đều có hai nhiệm vụ chính là đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH), hai hoạt động này có mối quan hệ hữu cơ và hỗ trợ lẫn nhau Việc khuyến khích giảng viên tham gia tích cực vào NCKH là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng cao NCKH không chỉ tạo điều kiện cho việc giảng dạy mà còn phản ánh kết quả của hoạt động này, do đó, NCKH và giảng dạy là thước đo năng lực chuyên môn của giảng viên.

Hoạt động NCKH có những đặc điểm sau:

*) Hoạt động NCKH mang tính mới

NCKH là quá trình khám phá tri thức mới mà không có sự lặp lại, thể hiện qua các phương diện như quan điểm tiếp cận, cách đặt vấn đề và phương pháp thực nghiệm Kết quả của nghiên cứu không chỉ là sự phát triển tư duy khoa học mà còn là những sản phẩm chứa đựng yếu tố mới, như giải pháp và quy trình có khả năng ứng dụng cao Tính mới là đặc điểm quan trọng nhất trong NCKH, đảm bảo rằng không có sự trùng lặp với các phát hiện hoặc sáng tạo trước đó.

*) Hoạt động NCKH mang tính tin cậy

Kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) cần phải có khả năng kiểm chứng nhiều lần trong cùng một điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm để đảm bảo tính nhất quán và độ tin cậy Điều này yêu cầu người nghiên cứu phải cẩn trọng trong việc lựa chọn và áp dụng các phương pháp nghiên cứu, nhằm đạt được kết quả đáng tin cậy Hơn nữa, đặc điểm này cũng giúp loại bỏ những kết quả không trung thực, có tính chất ngẫu nhiên hoặc bị thao túng.

*) Hoạt động NCKH là hoạt động mang thông tin

Sản phẩm khoa học là kết quả của việc khai thác và xử lý thông tin, bao gồm các quy luật vận động của sự vật, thông tin về quy trình xã hội hoặc công nghệ, cùng với các tham số đặc trưng Những thông tin này có thể được trình bày dưới nhiều hình thức, như bài báo khoa học, tác phẩm nghiên cứu, mẫu vật liệu mới, sản phẩm mới, hoặc mô hình thí điểm cho các phương thức tổ chức sản xuất hiện đại.

Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) cần đảm bảo tính khách quan, phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng Những nhận định vội vã và kết luận chưa được kiểm chứng không thể coi là khách quan Đồng thời, NCKH cũng mang tính rủi ro, đòi hỏi người nghiên cứu phải có sự cẩn trọng và xác minh trong quá trình thực hiện.

Quá trình nghiên cứu và khám phá bản chất sự vật luôn tiềm ẩn rủi ro và có thể dẫn đến thất bại Thất bại trong nghiên cứu khoa học (NCKH) có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm thiếu thông tin đáng tin cậy, năng lực xử lý thông tin hạn chế của nhà nghiên cứu, hoặc giả thuyết sai do tác động của các yếu tố bất khả kháng Tuy nhiên, trong lĩnh vực khoa học, thất bại cũng được coi là một kết quả quan trọng, phản ánh rằng các giả thuyết không được xác nhận và không có quy luật hoặc giải pháp nào như đã dự kiến.

*) Hoạt động NCKH mang tính kế thừa

Mỗi công trình nghiên cứu khoa học (NCKH) đều cần kế thừa các kết quả từ các lĩnh vực khoa học khác nhau Việc phân biệt rõ ràng giữa “đạo văn” và “kế thừa” là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi của các nhà nghiên cứu và tránh những hiểu lầm không đáng có.

*) Hoạt động NCKH mang tính cá nhân:

Tính cá nhân được thể hiện qua tư duy, nỗ lực và chủ kiến riêng, chịu ảnh hưởng bởi trình độ học vấn, di truyền, thể lực và môi trường xã hội Sự hình thành và phát huy cá tính và năng lực cá nhân là khác nhau, vì vậy khi đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học, cần tôn trọng ý kiến đề xuất của từng cá nhân.

Kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) không phải lúc nào cũng có thể áp dụng ngay vào sản xuất và đời sống do nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, văn hóa và tâm lý xã hội Thậm chí, một số nghiên cứu cần nhiều năm để thấy được kết quả và hiệu quả thực sự của chúng.

1.2.2 Mục đích của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) giúp giảng viên nâng cao kiến thức chuyên môn, điều chỉnh và bổ sung nội dung giảng dạy Tham gia NCKH không chỉ củng cố kiến thức mà còn mở rộng hiểu biết từ các chuyên ngành khác, giúp giảng viên trở nên toàn diện hơn trong công tác giảng dạy.

Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) không chỉ giúp giảng viên phát triển tư duy, năng lực sáng tạo và khả năng làm việc độc lập mà còn trau dồi tri thức và phương pháp nhận thức khoa học Tham gia NCKH, giảng viên có thể đảm nhận vai trò thành viên hoặc chủ nhiệm đề tài, từ đó nảy sinh nhiều hướng giải quyết khác nhau, rèn luyện tư duy độc lập và tư duy phản biện Quá trình này cũng giúp giảng viên hoàn thiện kỹ năng cần thiết cho giảng dạy và nghiên cứu, từ đó hình thành những phẩm chất của một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp trong bối cảnh số hóa hiện nay.

Tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) giúp giảng viên cập nhật thông tin và kiến thức hiệu quả NCKH cung cấp cho giảng viên nguồn kiến thức mới từ nhiều nguồn khác nhau, giúp họ đánh giá và hoàn thiện hiểu biết của bản thân Các hình thức triển khai như diễn đàn học thuật, tranh luận vấn đề mở, hội nghị khoa học và báo cáo từ chuyên gia tạo cơ hội cho giảng viên tìm tòi, phát hiện những vấn đề còn khúc mắc và nhận sự tư vấn từ đồng nghiệp hoặc chuyên gia trong lĩnh vực.

Thông qua hoạt động NCKH, giảng viên sẽ nâng cao hiểu biết về ngành nghề và phát triển tình cảm nghề nghiệp, điều này là cần thiết trong giảng dạy và chuyên môn Sự tham gia này giúp giảng viên hòa nhập và chủ động hơn trong công việc của mình.

Quá trình thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) mang lại cơ hội quý giá cho giảng viên trong việc nâng cao năng lực NCKH Đây cũng là nền tảng thiết yếu để đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo.

Tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) không chỉ nâng cao uy tín cá nhân của giảng viên mà còn khẳng định vị thế của trường trong xã hội NCKH là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá và xếp hạng các trường đại học, đồng thời giúp giảng viên xây dựng mối quan hệ xã hội cần thiết Qua quá trình thực hiện đề tài NCKH, giảng viên có cơ hội học hỏi từ đồng nghiệp và phát triển năng lực chuyên môn Những công trình NCKH và bài viết tham gia hội thảo, đăng trên tạp chí chuyên ngành với tên giảng viên và trường, đều góp phần nâng cao thương hiệu và uy tín của nhà trường Danh tiếng của trường được xây dựng từ những thành tích cụ thể của từng cán bộ, giảng viên và sinh viên, tạo nên thành công chung cho tập thể.

1.2.3 Vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

* Đối với đội ngũ viên chức trong trường (gồm viên chức giảng dạy và viên chức hành chính)

Hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

1.3.1 Công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học

- Quy chế của Nhà nước về chế độ làm việc của giảng viên

Ngày 27/7/2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 20/2020/TT-BGDĐT quy định chế độ làm việc cho giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học Thông tư này áp dụng cho giảng viên tại các đại học, học viện, trường đại học và các tổ chức liên quan, có hiệu lực từ ngày 11/9/2020, thay thế Thông tư 47/2014/TT-BGDĐT Nội dung của Thông tư mới bao gồm nhiệm vụ của các chức danh giảng viên, quy định về thời gian làm việc, giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Khi đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH), Thông tư quy định chế độ làm việc của giảng viên sẽ là cơ sở cho các trường xây dựng quy chế giảng dạy và NCKH phù hợp với đặc thù của từng trường.

- Quy định, quy chế về NCKH của Nhà trường

Xây dựng cơ chế quản lý nhiệm vụ NCKH cần xuất phát từ nhiệm vụ GDĐT và bám sát định hướng NCKH của BGD&ĐT, xác định các mục tiêu trọng điểm ngắn hạn và dài hạn Các trường Đại học hiện nay gắn kết mục tiêu NCKH với nhiệm vụ GDĐT, đảm bảo không trùng lặp với nhiệm vụ cấp trên Hội đồng khoa học và đào tạo cùng các cơ quan chức năng xây dựng và thực hiện nhiệm vụ NCKH trong phạm vi quản lý Các khoa trực tiếp quản lý nhiệm vụ NCKH theo chức năng, phân công trách nhiệm theo dõi và kiểm tra thực hiện Các trường đang sử dụng quy định như công cụ để đánh giá hoạt động NCKH, ví dụ như Đại học Nội vụ Hà Nội áp dụng quy chế theo quyết định số 1399/QĐ-ĐHNV để đánh giá NCKH Trong tương lai, cần hoàn thiện quy chế NCKH, chú trọng lập kế hoạch, thông tin khoa học, đánh giá công trình, kiểm tra và quản lý sử dụng các công trình khoa học, đồng thời bổ sung văn bản pháp lý để đảm bảo hoạt động nghiên cứu của giảng viên diễn ra hiệu quả và nghiêm túc.

1.3.2 Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động NCKH trong trường Đại học

- Mức độ hoàn thành định mức NCKH

Nhiệm vụ NCKH của giảng viên bao gồm việc tự xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch NCKH, chủ nhiệm và tham gia các đề tài NCKH, viết bài báo, tham gia hội thảo, hướng dẫn khóa luận và luận văn cao học, cũng như biên soạn giáo trình và chuyên đề Các trường đại học quy định việc quy đổi các hoạt động NCKH ra giờ định mức, và mỗi giảng viên cần hoàn thành nhiệm vụ NCKH trong năm học Điều này trở thành tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động NCKH của trường; nếu còn giảng viên không hoàn thành định mức, chứng tỏ hiệu quả NCKH trong trường chưa cao.

- Kết quả sản phẩm nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn

Đánh giá một công trình NCKH cần xem xét tính thực tiễn và ứng dụng của sản phẩm trong giảng dạy, nhằm nâng cao chất lượng công việc của viên chức trong Nhà trường Bộ tiêu chuẩn kiểm định yêu cầu các hoạt động khoa học và công nghệ phải có đóng góp mới cho khoa học và giá trị ứng dụng thực tế để giải quyết vấn đề phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, các báo cáo tự đánh giá cho thấy ít trường đạt tiêu chí này do số lượng đề tài ứng dụng thực tiễn còn hạn chế Các trường cần cải thiện biện pháp và cơ chế để thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu, đồng thời tăng cường liên kết với địa phương, doanh nghiệp và các viện nghiên cứu Hệ thống khen thưởng cho những đề tài có giá trị cao cũng cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn.

- Chất lượng giảng dạy trong Nhà trường

Giảng dạy và nghiên cứu khoa học (NCKH) là hai nhiệm vụ quan trọng trong các trường đại học, có mối quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo Việc giảng viên tích cực tham gia NCKH không chỉ nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội ngày càng cao Để đánh giá năng lực chuyên môn và tư duy lý luận của giảng viên, cần có sự kết hợp hiệu quả giữa hoạt động NCKH và giảng dạy tại trường.

- Thái độ đối với nhiệm vụ NCKH

Trong những năm qua, giảng dạy và nghiên cứu khoa học (NCKH) đã trở thành hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giảng viên tại các trường ĐH, CĐ Việc tham gia NCKH không chỉ thể hiện trách nhiệm mà còn khẳng định uy tín và năng lực của giảng viên Chất lượng hoạt động NCKH và thái độ của giảng viên phụ thuộc vào nhận thức của họ cũng như của cán bộ quản lý về vai trò của NCKH Để đánh giá thái độ đối với nhiệm vụ NCKH, có thể xem xét các yếu tố như động cơ và mục đích tham gia, bao gồm nhiệm vụ bắt buộc, tăng thu nhập, đam mê, thể hiện năng lực và ý tưởng nghiên cứu, phục vụ giảng dạy, nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao uy tín, và phục vụ xét thi đua, xét chức danh.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường Đại học hiện nay

Chất lượng và hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) trong các trường Đại học bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố khách quan như cơ chế, chính sách, môi trường kinh tế - xã hội, nguồn lực phục vụ NCKH như kinh phí và cơ sở vật chất, cũng như các yếu tố chủ quan như động lực tham gia NCKH, ý thức và thái độ của giảng viên, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, kỹ năng nghiên cứu, và khả năng sử dụng công nghệ thông tin và ngoại ngữ Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoặc cản trở hoạt động NCKH tại các trường Đại học hiện nay.

❖ Định hướng của Ban Lãnh đạo nhà Trường

Vai trò của Ban Lãnh đạo trong các hoạt động của Nhà trường, đặc biệt là hoạt động khoa học, là rất quan trọng Sự quan tâm và các biện pháp khuyến khích từ lãnh đạo sẽ tạo điều kiện cho đội ngũ nghiên cứu khoa học hoạt động hiệu quả và nghiêm túc Do đó, các hoạt động khoa học cần được lập kế hoạch rõ ràng từ đầu năm, với sự chỉ đạo và kiểm tra thường xuyên để đảm bảo thực hiện hiệu quả, cùng với việc báo cáo đánh giá kết quả để rút kinh nghiệm cho các lần sau.

Chế độ chính sách và kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng, là tiền đề và động lực để khuyến khích nỗ lực của các nhà khoa học Trong xã hội, lợi ích kinh tế thường được xem là động lực chính, nhưng nếu được chú trọng đúng mức, hoạt động nghiên cứu còn mang lại nhiều giá trị hơn thế Các chỉ tiêu, định mức và danh hiệu thi đua chỉ là một phần, điều cốt yếu hơn là tư cách, phẩm giá và danh dự của trí thức.

Định giá trong nghiên cứu khoa học cần được thực hiện trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể Những bất cập về chế độ, chính sách và sự đãi ngộ chưa thỏa đáng đang làm giảm động lực và nhiệt huyết của giảng viên Để khuyến khích giảng viên cống hiến hơn, nhà trường cần có quy định rõ ràng về tiêu chuẩn và định mức nghiên cứu, cùng với chế độ đãi ngộ hợp lý, tương xứng với những đóng góp của họ.

Năng lực hoạt động khoa học chỉ được phát huy trong một môi trường tốt, bao gồm: +

Môi trường chuyên môn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các điều kiện thuận lợi cho hoạt động giảng dạy và học tập, giúp nâng cao chất lượng chuyên môn Một môi trường dân chủ và bình đẳng cho phép giảng viên thể hiện khả năng soạn bài, giảng dạy và ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế giáo án điện tử Sự kết hợp linh hoạt các phương pháp sư phạm không chỉ củng cố năng lực chuyên môn mà còn nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học của mỗi giảng viên.

Không khí làm việc khẩn trương và nghiêm túc sẽ thu hút mọi người vào guồng xoáy đam mê và hứng khởi, đồng thời truyền cảm hứng cho những người xung quanh Ngược lại, tâm trạng thoải mái và niềm đam mê trong nghiên cứu sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc Thay vì chờ đợi sự thúc đẩy từ người khác, mỗi cá nhân cần tự thử thách và chịu trách nhiệm với công việc của mình Sự ỷ nại có thể trở thành rào cản vô hình, kiềm chế năng lực làm việc và nghiên cứu khoa học.

+ Điều kiện vật chất, phương tiện nghiên cứu khoa học:

Một môi trường làm việc ổn định, với đầy đủ tiện nghi như máy vi tính, máy in, hệ thống mạng Internet, thư viện điện tử và cổng thông tin điện tử, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu khoa học Ngược lại, cơ sở vật chất xuống cấp và thiếu các phương tiện cần thiết sẽ cản trở hoạt động khoa học, dẫn đến tình trạng trì trệ và kém hiệu quả.

❖ Nhận thức đối với NCKH

Nhận thức về việc thực hiện NCKH của giảng viên ảnh hưởng lớn đến động lực nghiên cứu Theo Chen, Gupta & Hoshower (2006), nếu cá nhân đánh giá cao giá trị của NCKH, họ sẽ có động lực mạnh mẽ để tham gia Ngược lại, nếu họ coi NCKH là không quan trọng, động lực sẽ giảm sút hoặc không có Để tham gia NCKH hiệu quả, cá nhân và tổ chức cần tìm thấy động lực từ bên trong và giữ thái độ tích cực, xem NCKH là cơ hội để phát triển tri thức, kỹ năng và khả năng sáng tạo, từ đó đóng góp cho công việc, đơn vị và xã hội.

Khi tham gia NCKH, cá nhân và tổ chức cần thể hiện thái độ tận tâm và trách nhiệm, đồng thời ham học hỏi và trung thực Việc tuân thủ đúng các yêu cầu và nguyên tắc của Nhà trường là điều quan trọng để đảm bảo thành công trong quá trình nghiên cứu.

Trình độ và năng lực chuyên môn là yếu tố quyết định đến khả năng hoạt động khoa học của giảng viên trong Nhà trường Những giảng viên có khả năng nghiên cứu độc lập sẽ chủ động tìm tòi và khám phá tri thức mới Để đam mê nghiên cứu khoa học, họ cần có trình độ, kinh nghiệm và sẵn sàng đầu tư thời gian, công sức cho hoạt động này Tuy nhiên, những yếu tố này không tự nhiên có được mà cần trải qua quá trình tự học và rèn luyện kỹ năng viết, quan sát, phân tích và đánh giá Công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng ngang nhau, vì vậy người có năng lực giảng dạy cũng đồng thời có năng lực nghiên cứu Nội dung và phương pháp giảng dạy cũng là một phần của khoa học Chỉ những ai thực sự tâm huyết với sự nghiệp giáo dục mới có thể tạo ra những sản phẩm khoa học giá trị.

NCKH là hoạt động thiết yếu trong các trường Đại học, góp phần phát triển và ứng dụng kết quả vào giảng dạy Chương 1 tập trung vào lý luận về hiệu quả hoạt động NCKH, phân tích các khái niệm, đặc điểm và vai trò của nó trong trường học Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến các công cụ và tiêu chí đánh giá NCKH, cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này của giảng viên hiện nay Những nội dung này sẽ làm nền tảng cho việc phân tích thực trạng hiệu quả NCKH của viên chức, NLĐ tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Khái quát về Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

2.1.1 Lịch sử hình thành trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có nguồn gốc từ Trường Trung học Văn thư Lưu trữ, được thành lập vào năm 1971 và sau đó được đổi tên thành Trường Trung học Văn thư Lưu trữ Trung ương I Vào ngày 15/6/2005, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định số 3225/QĐ-BGD&ĐT-TCCB, chính thức thành lập Trường Cao đẳng Văn thư Lưu trữ Trung ương I dựa trên nền tảng của Trường Trung học Văn thư Lưu trữ Trung ương I, theo chủ trương quy hoạch của bộ.

Cao đẳng Nội vụ Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2020”, theo quyết định 1121/QĐ-BNV ngày

04/10/2010 về việc nâng cấp Trường Cao đẳng Nội vụ Hà Nội thành Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội Ngày 14/11/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2016/QĐ-TTg về việc thành lập Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

Tên đầy đủ Tiếng Việt: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Tên Tiếng Anh: HANOI UNIVERSITY OF HOME AFFAIRS (HUHA) Trụ sở chính: Ngõ 36 Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ, TP Hà Nội

Ngày 03/4/2018, Bộ Nội vụ ban hành quyết định số 468/QĐ-BNV quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Trường là cơ sở giáo dục đại học công lập, trực thuộc Bộ Nội vụ, có nhiệm vụ đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế và cung cấp dịch vụ công cho ngành Nội vụ Trường chịu sự lãnh đạo và quản lý trực tiếp của Bộ Nội vụ, đồng thời tuân thủ quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo từ Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Trường cam kết mở rộng cơ hội học tập cho mọi người với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng qua nhiều hình thức đào tạo, đa ngành và đa cấp độ Chúng tôi hướng tới việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho ngành nội vụ và xã hội, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế.

Hiện tại, cơ cấu tổ chức bộ máy của Trường được bố trí như sau:

Hội đồng trường thực hiện quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Điều lệ Trường Đại học, cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan.

- Ban giám hiệu: Hiệu trưởng và các hiệu phó Hiệu trưởng là người đại diện cho

Trường chịu trách nhiệm quản lý và điều hành các hoạt động trước Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, cũng như trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao Phó Hiệu trưởng hỗ trợ Hiệu trưởng trong việc quản lý và điều hành, đồng thời được phân công phụ trách một số lĩnh vực cụ thể và chịu trách nhiệm về những lĩnh vực này trước Hiệu trưởng và pháp luật.

Hội đồng khoa học và đào tạo, do Hiệu trưởng quyết định thành lập, có nhiệm vụ tư vấn cho Hiệu trưởng về các vấn đề liên quan đến thi đua, khen thưởng, kỷ luật và xây dựng quy chế.

Hội đồng tư vấn có trách nhiệm tư vấn cho Hiệu trưởng về các vấn đề liên quan đến đào tạo, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế Hội đồng cũng chú trọng việc kết nối đào tạo với nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất, kinh doanh.

Trường có 08 phòng chức năng khác nhau, đảm nhiệm vai trò quản lý hành chính và hỗ trợ nhà trường trong việc tổ chức, điều hành và triển khai các công tác cụ thể.

Bài viết đề cập đến 08 khoa có nhiệm vụ quản lý hành chính, đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý cơ sở vật chất và trực tiếp quản lý sinh viên trong quá trình học tập.

+ Khoa Quản trị nguồn nhân lực;

+ Khoa Quản trị văn phòng;

+ Khoa Pháp luật hành chính;

+ Khoa Quản lý xã hội;

+ Khoa Văn thư - Lưu trữ;

+ Khoa Khoa học chính trị;

+ Khoa Tổ chức và Xây dựng chính quyền.

- Các Trung tâm: 01 Trung tâm Tin học - Ngoại ngữ, 01 Trung tâm Dịch vụ công, 01

Trung tâm Thông tin thư viện.

- Các đơn vị trực thuộc Trường: 01 Tạp chí Khoa học Nội vụ; 01 Viện Nghiên cứu và phát triển, Phân hiệu Quảng Nam và Phân hiệu TP Hồ Chí Minh

Các tổ chức đoàn thể và xã hội tại trường bao gồm Đảng bộ, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Sinh viên, Hội Cựu chiến binh, cùng với các câu lạc bộ khác, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển tinh thần đoàn kết và hỗ trợ sinh viên.

2.1.2 Khái quát về hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội

2.1.2.1 Khái quát về nguồn lực phục vụ cho khoa học công nghệ của Trường a) Nguồn nhân lực:

Trong những năm qua, Trường đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của đội ngũ viên chức về cả số lượng lẫn chất lượng Đội ngũ này đã được trang bị kiến thức chuyên môn cơ bản, đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên đại học và cao đẳng, cùng với bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước và lý luận chính trị Họ cũng có trình độ ngoại ngữ và tin học nhất định, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học của Trường.

Tính đến năm 2019, tổng số viên chức, người lao động trong Trường là 498 người, được thống kê cụ thể theo các nội dung sau:

❖ Cơ cấu theo giới tính

(Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ)

Đội ngũ viên chức nữ trong lĩnh vực xã hội nhân văn chiếm tỉ lệ cao hơn so với viên chức nam, với 58,2% nữ và 41,8% nam Mặc dù có sự chênh lệch về giới tính, nhưng tỷ lệ này không đáng kể, cho thấy sự đồng đều trong đội ngũ viên chức của trường.

❖ Tuổi đời và thâm niên công tác

- Độ tuổi từ 20 - 40 tuổi có 362 người, chiếm 72,69%

- Độ tuổi từ 41 tuổi trở lên có 136 người chiếm 27,31%

Bảng 2.2: Tổng hợp tuổi đời của đội ngũ viên chức

TT Tuổi đời Số lượng Tỷ lệ %

(Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ)

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội sở hữu một đội ngũ nhân lực trẻ, với độ tuổi trung bình là 35,68 tuổi Đặc biệt, tỷ lệ cán bộ dưới 40 tuổi chiếm một phần lớn trong tổng số nhân viên của trường.

Giới tính Số người Tỉ lệ (%)

Bảng 2.1: Cơ cấu đội ngũ viên chức theo giới tính

Tỷ lệ 72,69% cho thấy đội ngũ nhân lực trẻ tại Trường vừa mang lại cơ hội vừa đặt ra thách thức trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học Mặc dù đội ngũ này có sự năng động, sáng tạo và tinh thần ham học hỏi, nhưng họ cũng gặp phải hạn chế về kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy Do đó, lãnh đạo Nhà trường cần chú ý đến những khó khăn mà giảng viên trẻ phải đối mặt, vì điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

• Thâm niên công tác (kinh nghiệm nghề nghiệp) Đội ngũ nhân lực có thâm niên công tác, kinh nghiệm nghề nghiệp:

- Từ 10 năm trở xuống có 250 người chiếm 50,20%

- Từ 10-20 năm có 169 người, chiếm 33,94%

- Từ 21 năm thâm niên công tác trở lên có 79 người, chiếm 15,86%

Trường có cơ cấu nhân lực trẻ với 50,2% viên chức có thâm niên công tác dưới 10 năm, trong khi gần một nửa (49,8%) giảng viên đã có kinh nghiệm trong giảng dạy và nghiên cứu Đây là lực lượng chủ yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học (NCKH) của trường Tỉ lệ thâm niên này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục.

20 năm chiếm 15,86%, là nguồn lực quan trọng trong truyền thụ kinh nghiệm giảng dạy và phương pháp NCKH cho các giảng viên trẻ.

❖ Cơ cấu theo trình độ (học vị và chức danh)

Chức danh: Giáo sư, Phó giáo sư: 6, chiếm tỉ lệ 1,2%

Tiến sĩ: 49 người, chiếm tỉ lệ 9,84%

Thạc sĩ: 247 người chiếm tỉ lệ 49,6% trong đó có 63 Thạc sĩ đang làm NCS

Cử nhân: 146 người chiếm tỉ lệ 29,32 trong đó có 13 giảng viên đang theo học đào tạo Thạc sĩ.

Trình độ khác: 50 người chiếm 1,04%

Phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của viên chức ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội

9 ô1 • • 9 9 • trường Đại học Nội vụ Hà Nội

2.2.1 Các hoạt động nghiên cứu khoa học của viên chức trường Đại học Nội vụ Hà

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học (NCKH), việc lựa chọn hình thức nghiên cứu phù hợp với mục đích và nhu cầu của tác giả là rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng lớn đến kết quả và mục tiêu nghiên cứu Đối với viên chức tại Trường Đại học Nội vụ, nghiên cứu ứng dụng là chủ yếu, nhằm vận dụng các quy luật từ nghiên cứu cơ bản để giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan đến công việc và ngành nghề đào tạo Mục tiêu của các nghiên cứu này là tìm ra giải pháp cho các vấn đề thực tế tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, từ đó tác động tích cực đến công việc, cuộc sống, sức khỏe và các vấn đề khác của viên chức trong trường.

Bảng 2.13: Hoạt động NCKH của viên chức ở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

STT Các hoạt động NCKH Viên chức giảng dạy Viên chức hành chính Đã thực hiện

1 Thực hiện các đề tài

2 Thực hiện các chương trình, đề án, dự án, phát triển công nghệ

3 Thực hiện việc biên soạn chương trình đào tạo, bồi dưỡng

4 Thực hiện việc biên soạn giáo trình hay sách chuyên khảo, TLTK

5 Thực hiện đề xuất các sáng kiến, ứng dụng vào hoạt động chuyên môn

6 Thực hiện việc công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật

7 Viết tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học ở trong và ngoài nước

8 Viết tham luận trong các hội thảo khoa học của khoa, bộ môn

9 Thực hiện hướng dẫn người học NCKH

10 Tham gia các hoạt động 39 48,7 41 51,

Qua bảng số liệu thể hiện kết quả khảo sát hình thức nghiên cứu của viên chức tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ta có thể thấy:

❖ Đối với viên chức giảng dạy:

Hình thức "viết tham luận trong các hội thảo khoa học" được 100% giảng viên (80/80) lựa chọn, cho thấy sự phổ biến và tính cần thiết của nó Qua hình thức này, viên chức có cơ hội nghiên cứu các vấn đề thực tiễn, phù hợp với chương trình đào tạo và xu hướng hội nhập Nó cũng giúp giảng viên nâng cao kinh nghiệm cá nhân, đồng thời giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, từ đào tạo trong nước đến hợp tác quốc tế.

Một lựa chọn phổ biến trong số các giảng viên là "Thực hiện hướng dẫn người học NCKH," với 98,7% sự ủng hộ Đây là một nhiệm vụ KHCN thường xuyên và quen thuộc, giúp giảng viên không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn mở rộng hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau trong ngành nghề của sinh viên Hướng dẫn sinh viên NCKH cũng là cơ hội để giảng viên thể hiện năng lực chuyên môn và cải thiện kỹ năng tương tác với sinh viên, từ đó hoàn thiện bản thân trong sự nghiệp giảng dạy.

Hình thức viết tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài nước được 76 giảng viên (chiếm 95%) lựa chọn tham gia Việc gửi tham luận đến các trường, học viện trên toàn quốc không chỉ giúp giảng viên mở rộng nghiên cứu mà còn nâng cao tầm nhìn thông qua việc học hỏi và lắng nghe kinh nghiệm từ các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước.

+ “Thực hiện NCKH các cấp'' là hoạt động khá quen thuộc với tất cả các giảng viên, có

Trong một cuộc khảo sát với 71 giảng viên, 88,7% cho biết họ đã tham gia thực hiện nghiên cứu khoa học (NCKH) ở các cấp độ khác nhau như Khoa, Trường và Bộ Những hình thức này không chỉ giúp giảng viên tìm hiểu sâu về các vấn đề quan trọng mà còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn và cấp thiết của Nhà trường trong hiện tại và tương lai.

Ngoài ra, giảng viên còn tham gia vào nhiều hình thức khác nhau, như biên soạn chương trình đào tạo và bồi dưỡng với 62 người (chiếm 77,5%), thực hiện các chương trình, đề án, dự án và phát triển công nghệ với 60 người (chiếm 75%), cũng như đề xuất các sáng kiến và ứng dụng vào hoạt động chuyên môn với 48 người (chiếm 60%) Tất cả đều cho thấy sự hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.

Mặc dù giảng viên đã tham gia nhiều hoạt động, nhưng vẫn còn một số lĩnh vực chưa được khai thác nhiều, như biên soạn giáo trình và sách chuyên khảo với 45 giảng viên (56,3%) và tham gia hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ với 41 giảng viên (51,3%) chưa từng tham gia Điều này cho thấy cần có sự điều chỉnh từ Nhà trường để khuyến khích giảng viên tham gia nhiều hơn vào các hoạt động này.

❖ Đối với viên chức hành chính:

NCKH không phải là nhiệm vụ bắt buộc đối với viên chức hành chính, nhưng các trường Đại học khuyến khích họ tham gia hoạt động này phù hợp với năng lực và chuyên môn Theo khảo sát, 71,8% người được hỏi cho biết họ đã thực hiện các sáng kiến và ứng dụng trong chuyên môn Những sáng kiến và cải tiến kỹ thuật này không chỉ có tính thực tiễn cao mà còn giúp viên chức nâng cao hiệu quả công việc và cải tiến hoạt động trong Nhà trường.

Mặc dù có nhiều hình thức tham gia, nhưng số lượng viên chức hành chính tham gia vào các hoạt động như "Biên soạn giáo trình hay sách chuyên khảo, TLTK", "Viết tham luận trong các hội thảo khoa học của khoa, bộ môn" và "Thực hiện hướng dẫn người học NCKH" vẫn còn rất hạn chế do yêu cầu chuyên môn cao.

Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của viên chức giảng dạy và hành chính có sự khác biệt đáng kể do đặc thù công việc và nhiệm vụ khác nhau, dẫn đến mức độ tham gia không đồng đều Mỗi viên chức có thế mạnh riêng và thể hiện qua các công trình khoa học, khẳng định tinh thần và nghĩa vụ trong NCKH Hiện tại, nhiều viên chức đã nỗ lực tham gia NCKH thông qua các đề tài, hướng dẫn sinh viên, và viết bài cho hội thảo trong nước Tuy nhiên, số lượng công trình còn hạn chế, thiếu vắng các hoạt động như viết bài cho hội thảo quốc tế và hợp tác nghiên cứu quốc tế Những khó khăn về ngoại ngữ và phương pháp là rào cản cho viên chức trong việc mở rộng hoạt động NCKH, đồng thời cũng là mối trăn trở của Nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ.

Phương pháp nghiên cứu khoa học (NCKH) là công cụ quan trọng giúp các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội khai phá và phân tích sâu sắc các vấn đề nghiên cứu Mỗi cá nhân có thể áp dụng linh hoạt nhiều phương pháp NCKH khác nhau, tùy thuộc vào năng lực và sở trường của mình, nhằm nâng cao hiệu quả tổng thể của công trình nghiên cứu.

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát các viên chức trong Trường để đánh giá mức độ nắm vững các phương pháp nghiên cứu khoa học của họ, và kết quả thu được như sau:

Bảng 2.14: Mức độ nắm vững phương pháp NCKH của viên chức Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Đối tượng Viên chức giảng dạy (n) Viên chức hành chính (n2)

(Nguồn: Số liệu khảo sát) Trong đó: 1: Không nắm vững

2: Tương đối nắm vững 3: Nắm vững

Bảng kết quả cho thấy sự khác biệt rõ rệt về mức độ nắm vững phương pháp nghiên cứu khoa học (NCKH) giữa viên chức giảng dạy và viên chức hành chính Trong số viên chức giảng dạy, 100% giảng viên khảo sát đều nắm được các phương pháp NCKH, với 33,8% nắm tương đối vững, 55% nắm vững và 11,2% nắm rất vững Họ không chỉ thực hiện NCKH mà còn học hỏi và rút kinh nghiệm để cải thiện kỹ năng Ngược lại, chỉ có 53,1% viên chức hành chính nắm tương đối vững và 34,4% nắm vững phương pháp NCKH, không có ai nắm rất vững, trong khi 12,5% chưa nắm được phương pháp này Tỷ lệ viên chức chưa tham gia NCKH cần được chú ý, vì hoạt động NCKH là rất quan trọng trong môi trường giáo dục đại học Do đó, cần khuyến khích viên chức hành chính tham gia tích cực hơn vào các hoạt động NCKH để nâng cao kiến thức và kỹ năng của họ.

Năng lực của viên chức Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) được thể hiện qua những con số ấn tượng Để nắm vững kiến thức và linh hoạt áp dụng các phương pháp NCKH, viên chức đã nỗ lực học tập và thực hiện nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau Sự hỗ trợ từ Đảng ủy và Ban Giám hiệu Nhà trường trong việc tổ chức các lớp tập huấn và bồi dưỡng về phương pháp NCKH đã góp phần quan trọng vào quá trình này.

Theo phỏng vấn viên chức trong trường, các phương pháp nghiên cứu thường được áp dụng phụ thuộc vào mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu Tuy nhiên, đa số viên chức cho biết họ thường sử dụng một số phương pháp cụ thể trong quá trình nghiên cứu của mình.

- Phương pháp điều tra qua bảng hỏi

- Phương pháp Delphi, phương pháp chuyên gia

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

Đánh giá chung về thực trạng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ viên chức ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội

• ” • 1 • • ” ” • • ngũ viên chức ở trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Nhờ vào những định hướng và chính sách khuyến khích từ lãnh đạo, công tác nghiên cứu khoa học tại nhà trường đã đạt được những thành tựu đáng kể trong những năm qua.

Nhiều viên chức tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) trong quá trình đào tạo và phát triển chuyên môn Quan điểm chỉ đạo của Nhà trường nhấn mạnh rằng hoạt động khoa học và công nghệ là nhiệm vụ bắt buộc đối với từng cá nhân và tập thể, thể hiện cam kết của nhà trường trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.

Nhà trường đã ban hành Quy chế Khoa học và công nghệ số 1399/QĐ-ĐHNV ngày 22/8/2016, nhằm hướng dẫn và đánh giá hoạt động NCKH cho viên chức và NLĐ Quy chế này được xây dựng dựa trên các văn bản hướng dẫn và quy phạm pháp luật của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo, đảm bảo tính chi tiết và cụ thể trong việc thực hiện chính sách NCKH.

- Về tổ chức hoạt động, quản lý NCKH:

Nhà trường đã triển khai nhiều hình thức phong phú để khuyến khích viên chức tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH), bao gồm tổ chức hội thảo, tọa đàm, xuất bản tập san và cung cấp thông tin khoa học Kể từ năm 2019, nhà trường đặc biệt khuyến khích viên chức đăng ký tham gia các đề tài NCKH cấp Khoa và cấp Bộ môn Những đề tài này có quy mô nhỏ hơn và liên quan trực tiếp đến Khoa, Bộ môn mà viên chức công tác, giúp họ dễ dàng tiếp cận và áp dụng vào thực tiễn tại đơn vị.

Nhà trường đã chú trọng khuyến khích viên chức tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) hơn nữa Để nâng cao kỹ năng cho giảng viên, nhiều lớp bồi dưỡng kỹ năng viết bài và viết báo cáo đã được tổ chức, trong đó có lớp Kỹ năng viết bài công bố quốc tế vào tháng 5/2020 Lớp học này cung cấp kiến thức và kỹ năng cơ bản giúp giảng viên đăng bài trên các tạp chí quốc tế.

Trường đã đầu tư vào môi trường nghiên cứu khoa học (NCKH) bằng cách thành lập Câu lạc bộ NCKH cho giảng viên, phân chia theo nhiều lĩnh vực chuyên môn, thu hút sự quan tâm từ viên chức và người lao động Nhà trường khuyến khích các Khoa/Trung tâm phát hành nội san, tạo sân chơi cho viên chức trong và ngoài trường, với 2 Khoa đã phát hành nội san Khoa học chính trị và Khoa Quản lý xã hội Bên cạnh đó, Tạp chí Khoa học Nội vụ với chỉ số ISSN 2354-1113 cũng đã được xây dựng, trở thành diễn đàn khoa học quan trọng cho các nhà khoa học, giảng viên, học viên và sinh viên công bố công trình nghiên cứu của mình.

Bên cạnh một số ưu điểm đã đạt được, hoạt động NCKH trong trường vẫn còn một số hạn chế sau:

Phong trào nghiên cứu khoa học (NCKH) trong trường hiện còn yếu, với thực tế cho thấy hoạt động này chủ yếu chỉ tập trung vào một số thành viên Khảo sát cho thấy viên chức nhận thức rằng NCKH chưa trở thành một phong trào chung cho toàn thể viên chức trong đơn vị.

Mặc dù nhà trường đã thành lập Câu lạc bộ Nghiên cứu Khoa học (NCKH), nhưng hoạt động của CLB vẫn chưa phát triển mạnh mẽ và chưa có sản phẩm NCKH đặc trưng phù hợp với thế mạnh của nhóm.

Tinh thần hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong nghiên cứu khoa học (NCKH) giữa các viên chức là rất quan trọng Tuy nhiên, hiện nay, những viên chức có trình độ cao chưa thể tập hợp và thu hút được các viên chức trẻ tham gia vào các đề tài nghiên cứu Đồng thời, các viên chức trẻ vẫn còn e ngại trong việc học hỏi và tìm kiếm sự giúp đỡ từ những đồng nghiệp lâu năm và giàu kinh nghiệm.

Mặc dù thư viện đã được trang bị đầy đủ hệ thống mạng và cổng internet để hỗ trợ cán bộ, viên chức, sinh viên và học viên trong việc truy cập và tìm kiếm tài liệu, nhưng thường xuyên gặp phải tình trạng gián đoạn đường truyền, gây khó khăn trong việc truy cập.

Mặc dù Phòng Quản lý đào tạo Sau đại học hàng năm thông báo cho viên chức kê khai các công trình nghiên cứu và nộp kết quả để biên soạn Niên giám về các công trình NCKH, nhưng do thời gian tập hợp định kỳ 2 năm/lần và số lượng bài viết lớn, giảng viên thường ngại kê khai, dẫn đến việc thiếu sót và không đầy đủ trong việc tổng hợp kết quả.

Sự gắn kết giữa nghiên cứu và giảng dạy đang ở mức thấp, bởi nhiều giảng viên theo đuổi các hướng nghiên cứu không liên quan đến môn học của mình Điều này dẫn đến việc nghiên cứu không thể bổ sung hiệu quả cho nội dung giảng dạy, gây ra những kết quả không như mong đợi.

Quy chế số 1399/QĐ-ĐHNV của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội quy định về tổ chức và quản lý hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) nhưng hiện tại chưa được áp dụng đầy đủ Do đó, cần điều chỉnh quy chế này để phù hợp hơn với thực tế hoạt động của trường.

Định mức hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay còn thấp, với yêu cầu viên chức chỉ cần tham gia các Hội đồng nghiệm thu hoặc viết 1-2 bài tham luận tại Hội thảo cấp Trường, Khoa để đạt đủ định mức Theo quy chế Khoa học và công nghệ số 1399/QĐ-ĐHNV, định mức được xác lập dựa trên chức danh giảng dạy.

+ Giảng viên: 190 giờ + Giảng viên tập sự, giảng viên thử việc: 95 giờ + Giảng viên giáo dục thể chất: 95 giờ

Một số giảng viên vẫn chưa hoàn thành định mức nghiên cứu khoa học (NCKH) hoặc thực hiện NCKH một cách đối phó, chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu tối thiểu của Nhà trường mà không đảm bảo chất lượng và hiệu quả nghiên cứu.

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Ngày đăng: 24/07/2021, 15:15

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Vũ Cao Đàm (2007), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ thuật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Tác giả: Vũ Cao Đàm
Nhà XB: NXBKhoa học và Kỹ thuật
Năm: 2007
3. Đỗ Thị Châu (2004), Nghiên cứu khoa học góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học, Tạp chí Giáo dục, số 96/9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu khoa học góp phần đổi mới phương pháp dạyhọc nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học
Tác giả: Đỗ Thị Châu
Năm: 2004
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Thông tư số: 22/2011/TT-BGDĐT v/v Quy địnhvề hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số: 22/2011/TT-BGDĐT v/v Quyđịnh
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2011
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư số: 47/2014/TT-BGDĐT v/v Quy địnhchế độ làm việc đối với giảng viên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số: 47/2014/TT-BGDĐT v/v Quyđịnh
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2014
10. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số: 09/2014/TT-BKHCN v/v Quyđịnh quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số: 09/2014/TT-BKHCN v/vQuy
Tác giả: Bộ Khoa học và Công nghệ
Năm: 2014
11. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số: 11/2014/TT-BKHCN v/v Quyđịnh việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số: 11/2014/TT-BKHCN v/vQuy
Tác giả: Bộ Khoa học và Công nghệ
Năm: 2014
12.Vũ Cao Đàm (2007), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Tác giả: Vũ Cao Đàm
Nhà XB: NXB Khoa học vàKỹ thuật
Năm: 2007
13.Phan Huy Hiền (2010), So sánh năng lực nghiên cứu khoa học của 11 nước Đông Á dựa trên các công bố quốc tế và bài học rút ra cho Việt Nam, Tạp chí Tia sáng Sách, tạp chí
Tiêu đề: So sánh năng lực nghiên cứu khoa học của 11 nước ĐôngÁ dựa trên các công bố quốc tế và bài học rút ra cho Việt Nam
Tác giả: Phan Huy Hiền
Năm: 2010
15.Phan Thị Tú Nga (2011), Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Đại học Huế, Tạp chí Khoa Đại học Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạtđộng nghiên cứu khoa học của giảng viên Đại học Huế
Tác giả: Phan Thị Tú Nga
Năm: 2011
16.Cao Thanh Phước (2012), Nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường Đại học, Đại học Văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa họctrong các trường Đại học
Tác giả: Cao Thanh Phước
Năm: 2012
19. Quốc hội (2014), Luật số 52/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luậtcán bộ, công chức và Luật viên chức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 52/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều củaLuật
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2014
20. Quốc hội (2018), Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của LuậtGiáo dục Đại học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều củaLuật
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2018
23.Ngô Minh Thuận (2015), Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học đối với đội ngũ giảng viên tại Học viện chính sách và phát triển hiện nay, Học viện Chính sách và Phát triển Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt độngnghiên cứu khoa học đối với đội ngũ giảng viên tại Học viện chính sách và pháttriển hiện nay
Tác giả: Ngô Minh Thuận
Năm: 2015
26.Phạm Viết Vượng (2000), Phương pháp nghiên cứu khoa học, NXB Đại Quốc gia Hà Nội.rriA • 1*A>__ FTI* A____________________ A_______1 r Tài liệu Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp nghiên cứu khoa học", NXB Đại Quốc giaHà Nội.rriA • 1*A>__ FTI* A____________________ A_______1"r
Tác giả: Phạm Viết Vượng
Nhà XB: NXB Đại Quốc giaHà Nội.rriA • 1*A>__ FTI* A____________________ A_______1"r"Tài liệu Tiếng Anh
Năm: 2000
30. Molecular Pain (2008), Z factor: a new index for measuring academic research 31. Print, M. & Hattie, J (1997), Measuring quality in universities: An Approach toweighting research productivity Sách, tạp chí
Tiêu đề: Z factor: a new index for measuring academic research"31. Print, M. & Hattie, J (1997), "Measuring quality in universities: An Approach to
Tác giả: Molecular Pain (2008), Z factor: a new index for measuring academic research 31. Print, M. & Hattie, J
Năm: 1997
4. Chính Phủ (2014), Nghị định số 99/2014/NĐ-CP v/v Quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học Khác
5. Chính Phủ (2018), Nghị định số 70/2018/NĐ-CP v/v Quy hoạch việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước Khác
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT v/v quy định chế độ làm việc của giảng viên cơ sở giáo dục đại học Khác
9. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số 07/2014/TT-BKHCN v/v Quy định trình tự, thủ tục xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước Khác
14.Nguyễn Thuý Nga (2005), Nghiên cứu khoa học trong giảng viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w