Việc khám phá và đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến ý địnhkhởi sự kinh doanh của sinh viên khối ngành ngoại ngữ đặt cơ sở khoa học cho việchoạch định các chính sách tạo lập môi trường kh
Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu của đề tài đặt ra là:
- Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên?
Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN là rất quan trọng Các yếu tố này có thể bao gồm môi trường học tập, sự hỗ trợ từ giảng viên, và khả năng tiếp cận thông tin về khởi nghiệp Nghiên cứu sẽ làm rõ cách mà từng nhân tố tác động đến quyết định khởi nghiệp của sinh viên, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về tiềm năng khởi sự kinh doanh trong cộng đồng sinh viên.
Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm xác định và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về khởi sự kinh doanh.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên.
- Đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN.
- Đề xuất một số hàm ý quản trị rút ra từ kết quả nghiên cứu nhằm tạo động lực thúc đẩy tinh thần khởi sự kinh doanh của sinh viên.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm 4 chương:
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tổng quan nghiên cứu về ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên
Nghiên cứu về ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên (Entrepreneurial intentions of student) được rất nhiều học giả nước ngoài nghiên cứu.
Nghiên cứu của Luthje và Franke (2004) đã khảo sát ý định khởi sự kinh doanh của 520 sinh viên đại học ngành kinh doanh tại Canada, dựa trên thuyết hành vi dự định của Ajzen Kết quả cho thấy ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên bị ảnh hưởng bởi các đặc điểm cá nhân và các yếu tố môi trường bên ngoài, bao gồm thị trường, tài chính và môi trường giáo dục Đặc biệt, môi trường giáo dục được xác định là yếu tố có tác động trực tiếp mạnh mẽ đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên.
Nghiên cứu của Fatoki và Olawale Olufunso (2010) về động lực và trở ngại trong ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên Nam Phi đã khảo sát 701 sinh viên năm cuối Kết quả cho thấy, các động cơ chính thúc đẩy ý định khởi nghiệp bao gồm việc làm, quyền tự chủ, sáng tạo và tài chính Tuy nhiên, sinh viên cũng gặp phải những trở ngại như thiếu nguồn vốn, kỹ năng và sự hỗ trợ cần thiết.
Nghiên cứu của Eda Gurel và cộng sự (2010) về ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên đại học ở Vương quốc Anh và Thổ Nhĩ Kỳ đã khảo sát 409 sinh viên ngành du lịch Kết quả cho thấy các yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp bao gồm xu hướng chấp nhận rủi ro, gia đình có truyền thống doanh nhân và tinh thần khởi sự kinh doanh Đặc biệt, giáo dục không được xem là yếu tố quan trọng trong việc phát triển các đặc điểm và ý định khởi nghiệp của sinh viên.
Nghiên cứu của Zahariah Mohd Zain và cộng sự (2010) đã chỉ ra rằng ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên ngành kinh doanh tại Malaysia bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố Dữ liệu khảo sát từ 288 sinh viên tại các trường công lập cho thấy tham gia các khóa học kinh doanh, ảnh hưởng từ truyền thống kinh doanh gia đình và các đặc điểm cá nhân là những nhân tố chính quyết định đến ý định khởi sự kinh doanh của họ.
Nghiên cứu của Abdullah Azhar và cộng sự (2010) đã chỉ ra rằng ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên ngành kinh doanh tại Pakistan bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố quan trọng Dữ liệu được thu thập từ 320 sinh viên tại 7 trường đại học, và phân tích bằng phương pháp hồi quy đa biến cho thấy các yếu tố như giới tính, nền tảng giáo dục, công việc của gia đình, đánh giá xã hội và giáo dục kinh doanh đều có tác động đáng kể đến ý định khởi sự kinh doanh của họ.
Nghiên cứu của Perera K H và cộng sự (2011) đã chỉ ra rằng tâm lý sợ thất bại, mối quan hệ hiện có và sự hỗ trợ từ gia đình là những nhân tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên tại 4 trường đại học ở Sri Lanka Mẫu nghiên cứu được thực hiện trên 386 sinh viên và được phân tích bằng phần mềm SPSS.
Nghiên cứu của Francisco Linán và cộng sự (2011) về ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên đại học ở Tây Ban Nha đã khảo sát 354 phiếu trả lời từ sinh viên ngành kinh tế và kinh doanh tại hai trường đại học Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy khả năng đánh giá tính khả thi của việc khởi sự kinh doanh và mong muốn khởi nghiệp (đặc điểm cá nhân) là những yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên.
Nghiên cứu của Mohammad Shirazi Pour và cộng sự (2013) tại Tehran đã chỉ ra rằng giới tính, tuổi tác và ngành học của sinh viên không có ảnh hưởng đáng kể đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên ngành kinh tế Dữ liệu khảo sát từ 227 sinh viên cho thấy các yếu tố quan trọng thúc đẩy ý định khởi sự kinh doanh bao gồm chính sách của chính phủ, đam mê và sở thích kinh doanh, cùng với mong muốn hiện thực hóa ý tưởng của họ.
Nghiên cứu của E Serra Yurtkoru và cộng sự (2014) tại Thổ Nhĩ Kỳ đã chỉ ra rằng các yếu tố như mối quan hệ, giáo dục và hỗ trợ ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên, dựa trên thuyết hành vi dự định của Ajzen Dữ liệu từ 425 phiếu khảo sát cho thấy giáo dục khởi sự kinh doanh không có tác động đáng kể đến ý định này, vì sinh viên thường không xem trường đại học là nguồn hỗ trợ chính, mà chủ yếu dựa vào gia đình và bạn bè Tuy nhiên, việc đào tạo về khởi sự kinh doanh trong trường đại học vẫn cần thiết để giúp sinh viên nhận thức và kiểm soát ý định kinh doanh của bản thân.
Nghiên cứu của Manuel Goyanes (2015) tại trường đại học Tây Ban Nha đã chỉ ra rằng ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên ngành báo chí và truyền thông là khá thấp, dựa trên khảo sát 310 sinh viên Bài viết nhấn mạnh mối liên hệ tích cực giữa ý định khởi sự kinh doanh với nghề nghiệp của cha mẹ, cũng như sự hỗ trợ và tự tin của sinh viên trong quá trình khởi nghiệp.
Nghiên cứu của Mat và cộng sự (2015) tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên ngành kỹ thuật Mẫu nghiên cứu được thực hiện từ nhóm đối tượng sinh viên trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu tại Trường Đại học Kuala Lumpur, Malaysia, với 554 sinh viên ngành kỹ thuật, đã áp dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá và hồi quy tuyến tính đa biến Kết quả chỉ ra bốn nhân tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh, bao gồm: Nhận thức kiểm soát hành vi, Nhu cầu thành đạt, Chuẩn chủ quan và Hỗ trợ khởi nghiệp.
Nghiên cứu của Ambad và Damit (2016) đã phân tích các yếu tố tác động đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên tại Malaysia, dựa trên 351 phiếu khảo sát từ một trường đại học công lập Sử dụng lý thuyết Theory of Planned Behavior (TPB) kết hợp với kiểm định dữ liệu, nghiên cứu đã xác định năm nhân tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên, bao gồm: Giáo dục kinh doanh, Cơ chế chính sách, Đặc điểm tính cách, Chuẩn chủ quan và Nhận thức kiểm soát hành vi.
Nghiên cứu của Haris và cộng sự (2016) đã chỉ ra năm nhân tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên ngành công nghệ thông tin Mẫu nghiên cứu bao gồm 81 sinh viên từ Học viện công nghệ thông tin và Trường Đại học Kuala Lumpur tại Malaysia Các nhân tố này bao gồm: Tiếp cận tài chính, Cơ hội nghề nghiệp, Nhận thức tính khả thi, Lời khuyên từ gia đình và bạn bè, cùng với Môi trường giáo dục tinh thần khởi sự kinh doanh.
Nghiên cứu của Maryam Omidi Najafabadi và cộng sự (2016) tại Đại học Azad - Iran đã ứng dụng thuyết hành vi dự định của Ajzen để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên ngành nông nghiệp Dữ liệu được thu thập từ 146 phản hồi của sinh viên, và kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy rằng Kỹ năng kinh doanh, Sự tự tin và Tinh thần doanh nhân là những yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến ý định khởi sự kinh doanh của họ.
Cở sở lý luận về khởi sự kinh doanh và ý định khởi sự kinh doanh
1.2.1 Khái niệm về khởi sự kinh doanh
Khởi sự, theo từ điển tiếng Việt, có nghĩa là bắt đầu một cái gì mới Trong bối cảnh kinh doanh, khởi sự kinh doanh đề cập đến việc bắt đầu xây dựng một công việc kinh doanh mới.
Trong nghiên cứu học thuật, các học giả trong lĩnh vực kinh tế lao động và kinh tế quản trị đưa ra hai định nghĩa khác nhau về khởi sự kinh doanh.
Khởi sự kinh doanh được xem là một lựa chọn nghề nghiệp, nơi cá nhân có thể tự tạo việc làm cho mình thay vì làm thuê Theo các học giả trong lĩnh vực kinh tế lao động, khái niệm này gắn liền với "tự tạo việc làm" hay "self employment" Những người khởi sự kinh doanh thường là những cá nhân không ngại rủi ro và muốn làm chủ công việc của mình, đồng thời có khả năng thuê người khác làm việc cho họ Do đó, khởi sự kinh doanh có thể được hiểu là việc tự mở doanh nghiệp và quản lý công việc của chính mình.
Khởi sự kinh doanh, theo các học giả kinh tế và quản trị, liên quan đến khái niệm "tinh thần doanh nhân" (entrepreneurship) Trong nghĩa hẹp, tinh thần doanh nhân thể hiện qua việc cá nhân khởi đầu công việc kinh doanh riêng, chấp nhận rủi ro để thành lập doanh nghiệp và làm chủ nhằm mục đích làm giàu Trong nghĩa rộng, tinh thần doanh nhân không chỉ là việc tạo lập doanh nghiệp mới mà còn là thái độ làm việc tự chủ, sáng tạo, chấp nhận rủi ro để tạo ra giá trị mới trong các doanh nghiệp hiện có, thể hiện sự đổi mới và phong cách tư duy phát triển nhanh.
Khởi sự kinh doanh có sự khác biệt giữa tự tạo việc làm và tinh thần doanh nhân Tự tạo việc làm nhấn mạnh việc làm chủ bản thân, không làm thuê cho ai, trong khi khởi sự theo tinh thần doanh nhân có thể bao gồm những người sáng lập doanh nghiệp mới để khai thác cơ hội thị trường, nhưng không trực tiếp quản lý mà thuê người khác, do đó vẫn có thể làm thuê cho doanh nghiệp khác.
Trong nghiên cứu này, khởi sự kinh doanh được định nghĩa là một lựa chọn nghề nghiệp, trong đó cá nhân tự làm chủ và tận dụng cơ hội từ thị trường để phát triển một công việc kinh doanh mới cho bản thân.
Tại Việt Nam, "khởi nghiệp" thường được hiểu là khởi sự kinh doanh, tức là cá nhân có ý tưởng kinh doanh và mong muốn tự làm chủ thay vì làm thuê Khi bắt đầu kinh doanh, cá nhân trở thành nhà sáng lập (Founder) hoặc có thể là đồng sáng lập (Co-Founder) và trực tiếp quản lý doanh nghiệp.
1.2.2 Các loại hình khởi sự kinh doanh
Khởi sự kinh doanh có thể phân loại thành nhiều dạng tùy theo các tiêu chí phân loại khác nhau.
Khi khởi sự kinh doanh, doanh nghiệp cần xác định rõ tính chất của sản phẩm hoặc dịch vụ mà mình sẽ cung cấp Có hai hướng đi chính: khởi nghiệp với sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn toàn mới, hoặc khởi nghiệp với những sản phẩm/dịch vụ đã có trên thị trường Việc lựa chọn đúng hướng đi sẽ ảnh hưởng lớn đến chiến lược kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khởi sự kinh doanh với sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn toàn mới là hình thức mà các doanh nhân tạo lập doanh nghiệp để sản xuất và cung cấp những sản phẩm hoặc dịch vụ chưa từng có trước đây, cả ở cấp độ quốc gia và quốc tế Hình thức này thường được biết đến với tên gọi start-up hoặc khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST).
Khởi sự kinh doanh với sản phẩm hoặc dịch vụ đã có là hình thức mà người sáng lập doanh nghiệp cung cấp những sản phẩm hoặc dịch vụ hiện có trên thị trường, từ cấp độ địa phương đến quốc gia.
- Theo nguồn gốc người khởi sự kinh doanh: có khởi sự kinh doanh bằng cách tạo doanh nghiệp mới độc lập và khởi sự kinh doanh trong doanh nghiệp.
Khởi sự kinh doanh bằng cách tạo doanh nghiệp mới độc lập là hình thức mà một hoặc nhiều cá nhân sáng lập doanh nghiệp mà không bị kiểm soát hay tài trợ bởi các doanh nghiệp hiện có Doanh nghiệp mới này thuộc sở hữu của các nhà sáng lập và nhà đầu tư, cho phép họ tự do phát triển ý tưởng và chiến lược kinh doanh của riêng mình.
Khởi sự kinh doanh trong doanh nghiệp là quá trình hình thành một doanh nghiệp mới từ việc khai thác các cơ hội từ doanh nghiệp hiện tại Điều này có thể xảy ra khi có ý tưởng kinh doanh mới xuất hiện trong quá trình hoạt động hoặc khi doanh nghiệp hiện tại không khai thác hiệu quả một nguồn lực nào đó Trong hình thức này, doanh nghiệp mới được hỗ trợ và sở hữu một phần bởi công ty đang hoạt động, tạo ra sự liên kết và tận dụng nguồn lực sẵn có.
Theo tiêu chí nền tảng kiến thức khi khởi sự kinh doanh, có hai hình thức chính: khởi sự kinh doanh vì kế sinh nhai và khởi sự kinh doanh dựa trên kiến thức nghề nghiệp Khởi sự vì kế sinh nhai thường xuất phát từ nhu cầu cấp bách, trong khi khởi sự dựa trên kiến thức nghề nghiệp đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng và am hiểu sâu sắc về lĩnh vực hoạt động Việc nắm vững kiến thức chuyên môn không chỉ giúp tăng khả năng thành công mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững trong thị trường.
Khởi sự kinh doanh vì kế sinh nhai thường xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn như thất nghiệp hay gia đình gặp vấn đề tài chính, không phải chỉ để nắm bắt cơ hội làm giàu Những người này thường thành lập doanh nghiệp để tạo ra thu nhập tương đương với công việc trước đây, nhưng họ thường thiếu kiến thức cần thiết về kinh doanh Họ có thể không xem kinh doanh như một nghề chuyên nghiệp hoặc tin rằng ai cũng có thể khởi nghiệp, dẫn đến việc khởi sự chỉ là giải pháp duy trì cuộc sống.
Do thiếu kiến thức và tính toán cẩn thận trong quá trình khởi sự, nhiều doanh nghiệp mới chỉ tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông thường, đơn giản, đã có sẵn trên thị trường.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Thiết kế quy trình nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên, đặc biệt là sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã thiết lập một quy trình nghiên cứu chi tiết.
Hình 2.1 Quy trình nghiên cứu
Nguồn: Tác giả đề xuất
Các biến và thang đo
Tác giả sử dụng thang đo Likert với 5 mức độ: (1) Hoàn toàn không đồng ý; (2) Không đồng ý; (3) Phân vân; (4) Đồng ý; (5) Hoàn toàn đồng ý.
Các biến được sử dụng trong thang đo được cụ thể trong bảng hỏi như sau:
Chương trình giáo dục khởi nghiệp được xây dựng dựa trên thang đo của các nghiên cứu trước đây như của Linán và cộng sự (2011), Ambad và Damit (2016), và Nguyễn Thị Phương Ngọc (2019) Thang đo này bao gồm 04 biến được ký hiệu là GD1, GD2, GD3, GD4, được trình bày chi tiết trong bảng dưới đây.
Bảng 2.1 Thang đo chương trình giáo dục khởi nghiệp
Ký hiệu Nội dung Nguồn
GD1 Nhà trường cung cấp những kiến thức cần thiết về khởi nghiệp
GD2 Chương trình học chính ở trường trang bị cho tôi đủ khả năng để khởi nghiệp
GD3 Trường tôi thường tổ chức những hoạt động định hướng về khởi nghiệp cho sinh viên GD4 Nhà trường phát triển kĩ năng khởi nghiệp của tôi
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Môi trường tác động đến khởi sự kinh doanh được đo lường dựa trên thang đo kế thừa từ các nghiên cứu của Zahariah Mohd Zain và cộng sự (2010), Ambad và Damit (2016), cùng với Nguyễn Thu Thủy.
(2015) với 03 biến được ký hiệu MT1, MT2, MT3 cụ thể bằng bảng dưới đây:
Bảng 2.2 Thang đo môi trường tác động khởi sự kinh doanh
Ký hiệu Nội dung Nguồn
MT1 Gia đình tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi - Zahariah Mohd Zain và cộng sự, 2010
MT2 Bạn bè tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi
MT3 Nhà nước có các chính sách khuyến khích sinh viên khởi sự kinh doanh
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Động cơ khởi sự kinh doanh được đo lường dựa trên thang đo kế thừa từ các nghiên cứu của Shane và cộng sự (2003), Linán và cộng sự (2011), cũng như Nguyễn Thanh Hùng.
Nguyễn Thị Kim Pha (2016) với 04 biến được ký hiệu ĐC1, ĐC2, ĐC3, ĐC4 cụ thể bằng bảng dưới đây:
Bảng 2.3 Thang đo động cơ khởi sự kinh doanh
Ký hiệu Nội dung Nguồn ĐC1 Tôi khao khát có một địa vị cao trong xã hội - Shane và cộng sự,
- Nguyễn Thanh Hùng và Nguyễn Thị Kim Pha, 2016 ĐC2 Tôi muốn được mọi người tôn trọng và biết đến ĐC3 Tôi luôn thích trải nghiệm những cái mới ĐC4
Tôi tự tin có đủ kỹ năng và khả năng để khởi sự kinh doanh
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Đặc điểm tính cách cá nhân phù hợp với khởi sự kinh doanh được đo lường dựa trên thang đo của các nghiên cứu trước đây, bao gồm Luthje và Franke (2003), Mat và cộng sự (2015), Ambad và Damit (2016), cùng với Phan Anh.
Tú và Trần Quốc Huy (2017) với 04 biến được ký hiệu TC1, TC2, TC3, TC4 cụ thể bằng bảng dưới đây:
Bảng 2.4 Thang đo đặc điểm tính cách cá nhân phù hợp với khởi sự kinh doanh
Ký hiệu Nội dung Nguồn
TC1 Tôi có xu hướng chọn những nghề nghiệp đòi hỏi sự khám phá, sáng tạo
- Phan Anh Tú và Trần Quốc Huy, 2017
TC2 Tôi coi kinh doanh là thú vị, vì thách thức khả năng của tôi TC3 Tôi dám đối mặt trở ngại trong kinh doanh
TC4 Tôi dám chấp nhận rủi ro trong kinh doanh
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Thái độ tích cực đối với khởi sự kinh doanh là một yếu tố quan trọng được đo lường thông qua thang đo kế thừa từ các nghiên cứu của Krueger và cộng sự (2000), Autio & cộng sự (2001), Linan và Chen (2009), cũng như Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2016) Bảng dưới đây trình bày 04 biến được ký hiệu là TĐ1, TĐ2, TĐ3, TĐ4, giúp làm rõ hơn về các khía cạnh này.
Bảng 2.5 Thang đo thái độ tích cực với khởi sự kinh doanh
Ký hiệu Nội dung Nguồn
TĐ1 Tôi không thích đi làm thuê cho người khác sau khi tốt nghiệp
- Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự, 2016
TĐ2 Tôi hứng thú với việc khởi sự kinh doanh để trở thành một doanh nhân
TĐ3 Tôi nghĩ là trở thành một doanh nhân đem lại nhiều lợi ích hơn là bất lợi
TĐ4 Là một doanh nhân sẽ có nhiều đóng góp cho xã hội
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
* (H6) Ý định khởi sự kinh doanh
Tác giả kế thừa thang đo theo một số nghiên cứu của Krueger và cộng sự
Nghiên cứu của Krueger và cộng sự (2000), Linan và Chen (2009), Lĩnán và cộng sự (2011), Ambad và Damit (2016), cùng với Haris và cộng sự (2016) đã xác định 04 biến quan trọng, được ký hiệu là YĐ1, YĐ2, YĐ3, và YĐ4, như được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 2.6 Thang đo ý định khởi sự kinh doanh
Ký hiệu Nội dung Nguồn
YĐ1 Tôi luôn xác định sẽ lập một công ty trong tương lai
YĐ2 Tôi quyết tâm trở thành doanh nhân
YĐ3 Tôi sẽ cố gắng để công ty tôi sớm được thành lập YĐ4
Nếu chưa thể khởi sự kinh doanh khi còn đang học, tôi sẽ nỗ lực để bắt đầu khởi sự kinh doanh sau khi tốt nghiệp ra trường
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Thu thập số liệu
2.3.1 Xây dựng phiếu điều tra, bảng hỏi
Tác giả xây dựng Phiếu điều tra khảo sát với nội dung gồm 02 phần như sau:
Bài viết này cung cấp thông tin tổng quan về các yếu tố nhân khẩu học, bao gồm giới tính, năm học, kết quả học tập, hộ khẩu thường trú và kinh nghiệm kinh doanh Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và đánh giá sự phát triển cá nhân cũng như ảnh hưởng đến cơ hội nghề nghiệp trong tương lai Việc hiểu rõ các nhân tố này giúp xác định xu hướng và nhu cầu của thị trường lao động hiện nay.
Phần 2 của bài viết đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên, bao gồm 19 câu hỏi tương ứng với 19 biến quan sát Những yếu tố này sẽ giúp làm rõ những động lực và rào cản mà sinh viên gặp phải khi quyết định khởi nghiệp Việc phân tích các biến quan sát này là cần thiết để hiểu sâu hơn về tâm lý và hành vi khởi nghiệp trong giới trẻ.
Chi tiết Phiếu khảo sát tại Phụ lục
Tác giả tiến hành điều tra, khảo sát để lấy số liệu như sau:
- Về số lượng, thành phần khảo sát: Chọn mẫu thuận tiện đối với sinh viên năm thứ 3 và thứ 4 của Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN.
- Thời gian tiến hành: từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 01 năm 2021.
- Cách thức tiến hành: Gửi Phiếu điều tra khảo sát qua Google form.
Nghiên cứu áp dụng phương pháp phân tích số liệu bao gồm phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi quy đa biến Kích thước mẫu tối thiểu cho EFA là gấp 5 lần tổng số biến quan sát, trong khi đó, đối với phân tích hồi quy đa biến, kích thước mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công thức NP + 8*m, với m là số biến độc lập Trong nghiên cứu này, cỡ mẫu tối thiểu được xác định là N = 50 + 8*22, tương ứng với 6 quan sát Tác giả đã thu thập được 280 mẫu quan sát, vượt gần 25% so với kích thước mẫu tối thiểu yêu cầu để thực hiện phân tích.
Mô tả mẫu nghiên cứu thu được
Bảng 2.7 Thông tin mẫu nghiên cứu rril i •
Thông tin mẫu Số lượng Tỷ lệ (%)
Kết quả năm học gần nhất
Bạn đã bao giờ tự bán thứ gì chưa?
Bạn có hợp tác buôn bán hàng hóa với người khác chưa?
Bạn có đi làm thêm chưa?
Bạn có bao giờ làm việc ở công ty hoặc cơ sở kinh doanh chưa?
Bạn có được học môn khởi sự kinh doanh/môn liên quan đến kinh doanh không?
Theo kết quả khảo sát, đối tượng tham gia là sinh viên năm thứ 3 và thứ 4 của Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN, với tổng số phiếu thu được là 280.
- Về đặc điểm giới tính: Có 251 sinh viên nữ chiếm tỷ lệ 89,6% và 29 sinh viên nam chiếm tỷ lệ 10,4%.
- Về năm học: Có 121 sinh viên năm thứ 3 chiếm tỷ lệ 43,2% và 159 sinh viên năm 4 chiếm tỷ lệ 56.8%.
Trong năm học gần nhất, có 24 sinh viên đạt kết quả học tập xuất sắc, chiếm 8,6% tổng số sinh viên Bên cạnh đó, 100 sinh viên đạt kết quả học tập giỏi, tương đương 35,7% Số lượng sinh viên có kết quả học tập loại khá là 138, chiếm 49,3%, trong khi 18 sinh viên có kết quả học tập loại trung bình, chiếm 6,4%.
- Về hộ khẩu thường trú: 132 sinh viên có hộ khẩu thành thị, chiếm tỷ lệ 47,1% và 148 sinh viên có hộ khẩu nông thôn, chiếm tỷ lệ 52,9%.
Theo kinh nghiệm kinh doanh, có 67,1% sinh viên tham gia làm thêm, tương đương với 188 sinh viên Trong đó, 63,6% sinh viên làm việc tại các công ty hoặc cơ sở kinh doanh, tương ứng với 178 sinh viên.
Trong chương trình học, chỉ có 52 sinh viên, chiếm 18,6%, đã được học môn khởi sự kinh doanh và các môn liên quan, trong khi đó, 228 sinh viên còn lại, tương đương 81,4%, chưa có cơ hội tiếp cận những kiến thức này.
Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN có tỷ lệ sinh viên nữ chiếm ưu thế, với nhiều sinh viên đến từ các vùng nông thôn hơn là thành phố Sinh viên tập trung vào việc học, chủ yếu đạt thành tích giỏi và khá Đặc biệt, sinh viên năm 3 và 4 đã có trải nghiệm làm thêm, nhưng chỉ một số ít từng hợp tác kinh doanh, trong khi một lượng vừa phải đã làm việc tại các công ty hoặc cơ sở kinh doanh Hơn nữa, đa số sinh viên chưa được học môn khởi sự kinh doanh.