Lý do lựa chọn đề tài
Nghèo đói là rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững, và giảm nghèo là điều kiện tiên quyết cho sự tiến bộ kinh tế Sự phát triển kinh tế vững chắc cần gắn liền với công bằng xã hội để đảm bảo thành công trong chương trình giảm nghèo Tình trạng nghèo đói không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả những nước giàu có Hiện tượng này cho thấy sự phát triển chậm chạp của lực lượng sản xuất, lạc hậu về kỹ thuật và trình độ phân công lao động thấp, dẫn đến năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế ở mức thấp Thất nghiệp và thu nhập không đủ cho nhu cầu thiết yếu khiến người dân không có khả năng chi cho các nhu cầu văn hóa và tinh thần, làm cho việc vượt qua ngưỡng sinh tồn trở nên khó khăn Do đó, công cuộc xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ cấp bách mà mỗi quốc gia cần ưu tiên giải quyết.
Trong những năm qua, việc đo lường nghèo tại Việt Nam chủ yếu dựa trên thu nhập, với chuẩn nghèo xác định từ mức chi tiêu tối thiểu Tuy nhiên, nhiều hộ cận nghèo vẫn gặp khó khăn như việc làm không ổn định và thu nhập bấp bênh, dẫn đến nguy cơ tái nghèo cao Một số người mặc dù không nghèo về thu nhập nhưng lại thiếu tiếp cận các nhu cầu cơ bản như y tế và giáo dục Sự mỏng manh giữa nghèo và cận nghèo tạo ra vòng luẩn quẩn trong việc thoát nghèo Đồng thời, một bộ phận người dân vẫn trông chờ vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, làm giảm hiệu quả giảm nghèo Việc chỉ dựa vào thu nhập để xác định nghèo có thể dẫn đến bỏ sót đối tượng và phân loại chưa chính xác Để cải thiện tình hình, Việt Nam đã áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều, xem xét năm chiều gồm y tế, giáo dục, điều kiện sống, tiếp cận thông tin và nhà ở, giúp các nhà hoạch định chính sách ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các nhu cầu cơ bản, từ đó nâng cao hiệu quả của các chương trình hỗ trợ giảm nghèo.
Quận Ô Môn, thuộc thành phố Cần Thơ, được thành lập từ huyện Ô Môn và huyện Cờ Đỏ theo Nghị định 05/2004/NĐ-CP, hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn về đời sống vật chất và tinh thần của người dân Trình độ dân trí và năng lực quản lý ở cơ sở còn hạn chế, đặc biệt tỷ lệ hộ nghèo cao với 2.442 hộ nghèo (chiếm 7,31%) và 1.177 hộ cận nghèo (chiếm 3,52%) tính đến tháng 8 năm 2016 Thực trạng nghèo và giải pháp giảm nghèo đa chiều tại quận Ô Môn đang là vấn đề cấp bách cần được giải quyết, do đó, việc nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng nghèo ở vùng nông thôn quận Ô Môn là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi đã quyết định chọn đề tài “Giải pháp giảm nghèo đa chiều tại quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá thực trạng nghèo tại quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ thông qua tiếp cận nghèo đa chiều giúp phân tích và đánh giá tình hình nghèo một cách chính xác Từ đó, các giải pháp cụ thể được đề xuất nhằm giảm nghèo bền vững và ngăn chặn tình trạng tái nghèo trong khu vực.
Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo và nghèo đa chiều
- Đánh giá thực trạng nghèo đơn chiều và đa chiều quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ
- Phân tích các nhân tố nghèo ảnh hưởng tới nghèo trên địa bàn quận Ô Môn và nguyên nhân ảnh hưởng đến nghèo
- Đề xuất đƣợc các giải pháp nhằm thoát nghèo bền vững tại quận Ô Môn.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Phạm vi về nội dung:
Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng nghèo và các mối quan hệ kinh tế - xã hội liên quan đến công tác giảm nghèo tại quận Ô Môn Đặc biệt, nghiên cứu sẽ tập trung vào việc thực hiện công tác giảm nghèo đa chiều từ nay đến năm 2020.
3.2.2 Phạm vi về không gian: Điều tra đánh giá thực trạng hộ nghèo tại 7 phường trên địa bàn quận Ô
Môn (phường Châu Văn Liêm, phường Phước Thới, phường Thới Long, phường Long Hưng, phường Thới An, phường Trường Lạc và phường Thới Hòa)
3.2.3 Phạm vi về thời gian:
Luận văn tập trung nghiên cứu những số liệu sơ cấp năm 2016 và số liệu thứ cấp giai đoạn 2012 - 2016.
Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác giảm nghèo
- Thực trạng nghèo và những nhân tố chủ yếu tác động đến nghèo trên địa bàn quận Ô Môn
- Các nhân tố nghèo ảnh hưởng tới nghèo trong địa bàn quận Ô Môn và nguyên nhân ảnh hưởng đến nghèo
- Giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác giảm nghèo đa chiều trên địa bàn quận.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đa chiều
Chương 2: Đặc điểm quận Ô Môn và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Cơ sở lý luận về giảm nghèo đa chiều
1.1.1 Một số lý luận cơ bản về nghèo
1.1.1.1 Khái niệm về đói nghèo
Theo Liên hợp quốc, nghèo không chỉ là thiếu thốn về vật chất như thực phẩm, quần áo, và nơi ở, mà còn bao gồm việc không có cơ hội học tập, chăm sóc sức khỏe, đất đai để canh tác, và nghề nghiệp để tự nuôi sống Nghèo còn đồng nghĩa với sự thiếu an toàn, quyền lợi, và sự loại trừ trong xã hội, dẫn đến nguy cơ bị bạo hành và sống trong điều kiện rủi ro Ngoài ra, người nghèo thường không được tiếp cận nước sạch và các công trình vệ sinh an toàn, làm gia tăng những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.
6/2008, đƣợc lãnh đạo của tất cả các tổ chức UN thông qua)
Hội nghị chống nghèo đói khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 đã đƣa ra định nghĩa:
Nghèo được định nghĩa là tình trạng một bộ phận dân cư không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản, tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương Ngoài ra, nghèo còn mang nghĩa tương đối, khi một nhóm người sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng, phản ánh vấn đề bất bình đẳng trong xã hội Mức sống trung bình có sự khác biệt giữa các quốc gia và vùng miền, do đó khái niệm nghèo này chỉ có ý nghĩa tương đối và không áp dụng cho mọi trường hợp.
Nghèo không chỉ đơn thuần là thiếu thốn tài chính mà còn là sự thiếu hụt về tài sản cơ bản và cơ hội mà mỗi cá nhân có quyền được hưởng Theo Ngân hàng phát triển Châu Á, mọi người cần được tiếp cận giáo dục cơ sở và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản Các hộ nghèo có quyền duy trì cuộc sống thông qua lao động của họ, nhận được thù lao hợp lý và được bảo trợ khi gặp khó khăn do các yếu tố bên ngoài.
Nghèo đói được coi là một hiện tượng đa chiều, và có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia, nhà chính trị và học giả rằng nó phản ánh sự thiếu hụt hoặc không thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người.
Việt Nam đã phát triển các khái niệm cụ thể về nghèo đói dựa trên quan niệm của cá nhân và tổ chức toàn cầu, nghiên cứu ở cả mức độ cá nhân và cộng đồng Nghèo đói được hiểu là tình trạng của một bộ phận cư dân có mức sống dưới mức tối thiểu, với thu nhập không đủ để đáp ứng nhu cầu vật chất thiết yếu cho cuộc sống, dẫn đến việc nhiều hộ gia đình thiếu ăn.
Trong hai tháng qua, tình trạng vay mượn trong cộng đồng gia tăng do thiếu khả năng chi trả Tại Việt Nam, tiêu chí xác định chuẩn nghèo chủ yếu dựa vào thu nhập, với phương pháp “chi phí cho các nhu cầu cơ bản”, bao gồm chi tiêu cho lương thực và các nhu cầu phi lương thực thiết yếu như giáo dục, y tế và nhà ở Tuy nhiên, cách tiếp cận này không phản ánh đầy đủ tính đa chiều của nghèo đói Một số nhu cầu cơ bản không thể quy ra tiền hoặc không thể mua được bằng tiền, như an ninh, vị thế xã hội và tiếp cận cơ sở hạ tầng Hơn nữa, hộ gia đình có thu nhập trên chuẩn nghèo có thể không chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu do không tiếp cận được dịch vụ hoặc ưu tiên cho các chi phí khác như thuốc lá và bia rượu Khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010, với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng, phương pháp xác định nghèo này càng bộc lộ nhiều hạn chế.
1.1.1.2 Phương pháp xác định chuẩn nghèo
* Chuẩn mực xác định nghèo đói trên thế giới
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai phương pháp chủ yếu tính toán của WB
- Phương pháp Atlas tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD
WB chia ra làm 6 loại nước (tính toán năm 1990):
+ Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu
+ Từ 20.000 dến dưới 25.000 UDS/người/năm là nước giàu
+ Từ 10.000 đến dưới 20.000 USD/người/năm là nước khá giàu
+ Từ 2.500 đến dưới 10.000 USD/người/năm là nước trung bình
+ Từ 500 đến dưới 2.500 USD/người/năm là nước nghèo
+ Dưới 500 USD/người/năm là nước cực nghèo
Tuy nhiên, phương pháp chuyển đổi thu nhập hiện tại thường dẫn đến sai lệch và không phản ánh đúng sức mua ngang Vì lý do này, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Liên hợp quốc đã giới thiệu phương pháp tính bình quân thu nhập của mỗi quốc gia dựa trên sức mua tương đương (PPP).
- Phương pháp sức mua tương đương (PPP)
Phương pháp so sánh thu nhập bình quân đầu người giữa các quốc gia là một cách phổ biến, nhằm đưa ra các chỉ tiêu định lượng có thể so sánh Bằng cách quy đổi đồng tiền của mỗi nước về một đơn vị đo lường thống nhất là đồng USD, chúng ta có thể đánh giá và phân tích sự chênh lệch về mức sống giữa các quốc gia.
WB sau nhiều cuộc điều tra trên toàn cầu đã đƣa ra ngƣỡng nghèo chung theo (PPP):
+ Đối với các nước có thu nhập thấp: < 1 USD/ngày
+ Đối với các nước có thu nhập trung bình thấp: