Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu về phát triển chương trình đào tạo (CTĐT) ở Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và các cơ sở đào tạo Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào cơ sở lý luận của CTĐT bậc đại học, sự cần thiết phải phát triển CTĐT để đáp ứng yêu cầu hội nhập và nền kinh tế tri thức Nổi bật trong lĩnh vực này là PGS.TS Trần Khánh Đức, người nhấn mạnh rằng quá trình đổi mới giáo dục đã đặt ra yêu cầu mới về nội dung và chương trình đào tạo Ông chỉ ra rằng thực trạng lạc hậu của CTĐT có nhiều nguyên nhân, trong đó việc thiếu sự quan tâm đúng mức đến nghiên cứu và ứng dụng trong phát triển CTĐT là một yếu tố quan trọng Do đó, việc phát triển chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu xã hội là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học hiện nay Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi nghiên cứu và phát triển các phương thức và cách tiếp cận mới.
PGS.TS Lê Đức Ngọc, một chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế và phát triển chương trình đào tạo đại học, đã thực hiện nhiều nghiên cứu về xây dựng và phát triển chương trình Ông nhấn mạnh rằng việc phát triển chương trình đào tạo là một quá trình liên tục tại các cơ sở giáo dục Hiện nay, xu hướng phát triển chương trình chủ yếu tập trung vào mục tiêu đầu ra, với việc xác định mục tiêu là điều kiện tiên quyết trong thiết kế chương trình Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam cũng đang chú trọng đến yêu cầu này trong việc chỉ đạo xây dựng và phát triển chương trình ở các cấp học.
Các tác giả Lâm Quang Thiệp và Lê Viết Khuyến đồng thuận rằng có nhiều phương pháp phát triển chương trình đào tạo (CTĐT) khác nhau Họ phân tích và nhận diện ưu điểm cũng như hạn chế của từng phương pháp, nhấn mạnh rằng CTĐT cần đáp ứng tối đa nhu cầu của người học Việc xây dựng CTĐT theo mô-đun cho phép người học, với sự hỗ trợ của giáo viên, tự xác định chương trình đào tạo phù hợp với bản thân.
Việc chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ tại Việt Nam là một yêu cầu thiết yếu, phản ánh xu thế phát triển của kinh tế tri thức và chương trình đại học hiện đại.
TS Hoàng Thị Tuyết trong bài viết “Phát triển chương trình đại học theo cách tiếp cận năng lực: Xu hướng và nhu cầu” nhấn mạnh rằng phát triển chương trình đại học theo hướng này là chiến lược quan trọng để kết nối giáo dục đại học Việt Nam với nhu cầu kinh tế xã hội Các chương trình đào tạo đại học truyền thống cần được điều chỉnh dựa trên nhu cầu thực tiễn của xã hội, nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về phát triển chương trình đào tạo ở các ngành học cụ thể, như luận văn thạc sĩ của Nguyễn Duy Phấn về ngành công nghệ cơ khí và nghiên cứu của Hoàng Thị Minh Huệ về quản lý phát triển chương trình đào tạo tại Đại học dân lập Phương Đông Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc phát triển chương trình đào tạo chuyên ngành Lưu trữ học bậc đại học Trong các hội thảo và bài viết trên tạp chí chuyên ngành, các nhà khoa học và giảng viên cho rằng chương trình đào tạo Lưu trữ học ở Việt Nam đã được thiết kế phù hợp với từng thời kỳ, nhưng hiện nay cần được cập nhật và hiện đại hóa Cần loại bỏ một số môn học không còn phù hợp và bổ sung các môn học mới, đặc biệt là những môn liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lưu trữ và tổ chức tài liệu điện tử.
3 http://text.123doc.org/document/1303303-tai-lieu-phat-trien-chuong-trinh-va-to-chuc-qua-trinh-dao-tao-dai- hoc.htm
Bài viết này nhìn lại bốn mươi năm thực hiện nhiệm vụ đào tạo đại học lưu trữ tại Việt Nam, nhấn mạnh những thành tựu và thách thức trong lĩnh vực này Đặc biệt, Đoàn Thị Hòa đã đề cập đến việc đổi mới chương trình đào tạo nguồn nhân lực văn thư-lưu trữ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và cải cách nền hành chính nhà nước Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn chưa có nghiên cứu tổng thể về phát triển chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học ở Việt Nam, đặc biệt tại trường Đại học Nội vụ.
Tình hình nghiên cứu nước ngoài cho thấy, giống như ở Việt Nam, phát triển chương trình đào tạo tại các trường đại học trên toàn thế giới luôn được chú trọng và nghiên cứu từ cả lý luận đến thực tiễn Theo Wentling và Tim L trong cuốn "Planning for Effective Training: Guide to Curriculum Development" (1993), phát triển chương trình đào tạo là quá trình thiết kế và thực thi chương trình, sau đó cần đánh giá và điều chỉnh dựa trên phản hồi nhận được Điều này khẳng định rằng phát triển chương trình đào tạo là một quá trình liên tục và không thể thiếu trong bất kỳ chương trình đào tạo nào.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện bởi các học giả và cơ sở đào tạo quốc tế nhằm phát triển chương trình đào tạo điện tử (CTĐT) cho Việt Nam Những công trình này không chỉ thiết kế mà còn xây dựng các mô hình CTĐT phù hợp với nhu cầu và bối cảnh giáo dục của nước ta.
Hướng dẫn xây dựng chương trình đào tạo (CTĐT) dựa trên năng lực của Trường Đại học Công nghệ Queensland (Australia) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển CTĐT theo hướng tiếp cận năng lực Các tác giả phân tích yêu cầu, cấu trúc và phương pháp xây dựng CTĐT, khẳng định rằng “việc phát triển CTĐT là một hoạt động cao và liên tục”, với việc sửa đổi thường xuyên trong quá trình thiết kế và phát triển các môn học CTĐT cần lấy người học làm trung tâm, với các chiến lược dạy và học nhằm giúp người học đạt được các năng lực nghề nghiệp cần thiết để đáp ứng yêu cầu và dự đoán khả năng phát triển công việc trong tương lai.
CTĐT ngành Lưu trữ học cũng được thường xuyên phát triển Khi chưa có sự xuất hiện của công nghệ thông tin, CTĐT cũng được xây dựng định hướng
Trong bài viết "Bốn mươi năm đào tạo cán bộ lưu trữ bậc đại học ở Việt Nam", tác giả Vũ Minh Châu đánh giá kết quả của quá trình đào tạo và dự báo nhu cầu trong lĩnh vực lưu trữ tại Việt Nam Bài viết được trình bày trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học về 40 năm nghiên cứu và đào tạo đại học lưu trữ, nêu bật những thành tựu đạt được cũng như những vấn đề cần giải quyết trong tương lai Tài liệu được xuất bản bởi NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội vào năm 2007, trang 84.
Trường Đại học Công nghệ Queensland, Australia, đang hướng dẫn xây dựng chương trình đào tạo dựa trên năng lực tiếp cận tài liệu trên nền giấy Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong lĩnh vực hành chính văn phòng và lưu trữ, chương trình đào tạo chuyên ngành Lưu trữ học cũng đang được cải tiến và định hướng theo công nghệ hiện đại.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Phát triển chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần dựa trên cơ sở khoa học vững chắc để đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại Việc cập nhật nội dung giảng dạy, nâng cao kỹ năng thực hành và áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý lưu trữ là rất quan trọng Chương trình cần phản ánh được nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động, đồng thời khuyến khích nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực lưu trữ Đảm bảo chất lượng đào tạo sẽ giúp sinh viên có đủ năng lực cạnh tranh và đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để triển khai thực hiện đề tài và đạt mục đích đã đề ra, nhóm nghiên cứu sẽ phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc phát triển CTĐT;
- Cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc phát triển CTĐT ngành Lưu trữ học;
Nghiên cứu chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học tại một số quốc gia trên thế giới nhằm so sánh và rút ra bài học kinh nghiệm để điều chỉnh chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học của trường Đại học Nội vụ Hà Nội Việc này không chỉ giúp nâng cao chất lượng đào tạo mà còn đảm bảo tính cập nhật và phù hợp với xu hướng phát triển của ngành.
- Khảo sát nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực văn thư-lưu trữ được đào tạo theo hướng công nghệ hiện đại;
- Khảo sát, phân tích, đánh giá chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học bậc đại học đang sử dụng tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
- Xây dựng nội dung một số học phần cần bổ sung vào chương trình và điều thời lượng tổng thể của chương trình;
- Xây dựng phương án chương trình mới sau khi đã điều chỉnh và bổ sung một số học phần theo hướng hiện đại hóa.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng trong đề tài
Đề tài đã áp dụng phương pháp phân tích để làm rõ các khái niệm và nội dung lý luận cơ bản, cũng như các quy định pháp lý liên quan Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp khảo sát thực tế nhằm đánh giá ý kiến từ các cơ quan, tổ chức và người học, những đối tượng hưởng lợi từ chương trình đào tạo của trường Đại học Nội vụ Dựa trên kết quả khảo sát, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp và đánh giá chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học tại trường để đưa ra những đề xuất cải tiến phù hợp.
Kết cấu của Đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Đề tài gồm ba chương Đó là:
Chương 1 tập trung vào cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển chương trình đào tạo đại học ngành Lưu trữ học Nội dung chương này khái quát các cơ sở lý luận và pháp lý liên quan đến việc xây dựng chương trình đào tạo đại học tại Việt Nam, đồng thời phân tích sự cần thiết của việc phát triển chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học tại Đại học Nội vụ Hà Nội.
Chương 2: Đánh giá thực trạng chương trình đào tạo đại học ngành Lưu trữ học tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Bài viết sẽ phân tích chi tiết nội dung và cấu trúc của chương trình Lưu trữ học hiện tại, nhằm xác định những điểm mạnh và điểm yếu trong quá trình đào tạo sinh viên.
Hà Nội đang nghiên cứu và so sánh chương trình giáo dục với một số quốc gia khác trên thế giới, nhằm đánh giá những ưu điểm và hạn chế của các chương trình này Điều này sẽ tạo cơ sở cho việc đề xuất các nội dung mới cần bổ sung vào chương trình trong chương 3.
Chương 3 trình bày các giải pháp nhằm phát triển chương trình đào tạo Lưu trữ học tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội Dựa trên kết quả đánh giá ở chương 2, bài viết đề xuất bổ sung một số học phần mới vào chương trình đào tạo, đồng thời xây dựng chương trình tổng thể cho ngành Lưu trữ học bậc đại học, kèm theo các giải pháp cụ thể để hiện thực hóa chương trình này.
Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận liên quan đến phát triển chương trình đào tạo chuyên ngành Lưu trữ học.
Kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ được áp dụng trong chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học bậc đại học tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội cũng như các trường đại học khác, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC NGÀNH LƯU TRỮ HỌC 9 1.1 Cơ sở lý luận
Một số khái niệm
1.1.1.1 Chương trình đào tạo a Chương trình
Theo Từ điển tiếng Việt, chương trình được định nghĩa là danh sách dự kiến các công việc cần thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, theo trình tự cụ thể, hoặc là nội dung giảng dạy của từng môn học cho từng lớp và cấp học.
Chương trình học được định nghĩa bởi Nguyễn Văn Khôi là tập hợp các kế hoạch hoạt động được sắp xếp theo trình tự và thời gian nhất định Theo Từ điển giáo dục của Carter V Good (1973), chương trình là một hệ thống các môn học cần thiết để đạt được tốt nghiệp hoặc chứng nhận hoàn thành một lĩnh vực học tập.
Theo Tanner (1975), chương trình học là những trải nghiệm học tập được tổ chức và lên kế hoạch với mục tiêu học tập rõ ràng Nó được hình thành thông qua việc xây dựng kiến thức và kinh nghiệm một cách có hệ thống dưới sự hướng dẫn của nhà trường, nhằm phát triển liên tục năng lực xã hội và cá nhân của người học.
Chương trình là tập hợp các công việc cần thực hiện trong một lĩnh vực hoặc toàn bộ hoạt động của một cơ quan, ngành chủ quản hoặc Nhà nước, được thực hiện theo trình tự và thời gian nhất định Đối với các chương trình quan trọng, cần có sự phê duyệt hoặc quyết định ban hành từ cơ quan có thẩm quyền Sau khi được phê duyệt, chương trình sẽ được triển khai thực hiện.
Theo Nguyễn Văn Khôi và Nguyễn Văn Bính (2008) trong cuốn "Phương pháp luận nghiên cứu Sư phạm kỹ thuật", việc ban hành các quy định cần được các cơ quan và tổ chức liên quan thực hiện một cách nghiêm túc.
Chương trình đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cơ quan, tổ chức đạt được mục tiêu một cách chính xác và duy trì sự ổn định trong hoạt động Nó không chỉ nâng cao hiệu quả làm việc mà còn giúp nhà quản lý chủ động ứng phó linh hoạt với mọi thay đổi trong quá trình điều hành, vẫn đảm bảo đạt được các mục tiêu đã đề ra Hơn nữa, chương trình còn là cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát và đánh giá toàn bộ hoạt động của cơ quan, tổ chức.
Khi xây dựng chương trình công tác, cần đảm bảo các yêu cầu quan trọng như bám sát đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, tính trọng tâm và trọng điểm, tính đồng bộ, đúng thẩm quyền, khả thi và tính hệ thống.
- Phân loại chương trình có thể phân loại theo cấp lãnh đạo và phân loại theo thời gian b Chương trình đào tạo
Tùy thuộc vào cách tiếp cận thiết kế và quan điểm tổ chức hoạt động đào tạo, cùng với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn, các chuyên gia giáo dục đưa ra những định nghĩa khác nhau về chương trình đào tạo (CTĐT).
Nguyễn Văn Khôi có đưa ra hai định nghĩa về CTĐT như sau: Định nghĩa 1
CTĐT là bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo, có thể kéo dài từ vài giờ đến vài năm Nó cung cấp toàn bộ nội dung đào tạo, xác định những kỳ vọng đối với người học sau khóa học, phác thảo quy trình thực hiện nội dung, và chỉ ra các phương pháp đào tạo cùng cách đánh giá kết quả học tập Tất cả những yếu tố này được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ.
Chương trình đào tạo (CTĐT) là một thiết kế tổng thể, đồng bộ, bao quát các hoạt động chính trong quá trình giáo dục trong một khoảng thời gian xác định CTĐT trình bày các mục tiêu học tập cần đạt được, khối lượng và mức độ nội dung học tập, định hướng phương pháp và hình thức tổ chức học tập, cũng như cách thức đánh giá kết quả học tập, nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Theo Nguyễn Đức Chính, chương trình đào tạo (CTĐT) không chỉ đơn thuần là danh sách nội dung mà còn là toàn bộ hành trình hướng tới mục tiêu của người học Định nghĩa này nhấn mạnh vai trò của người học, đặt họ làm trung tâm trong toàn bộ quá trình giảng dạy và đào tạo.
CTĐT là bản thiết kế tổng thể cho hoạt động đào tạo, bao gồm mục tiêu, nội dung, phương pháp và phương tiện cần thiết Nó cũng xác định hình thức tổ chức và các phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập để đạt được mục tiêu giáo dục.
Chương trình đào tạo (CTĐT) phản ánh trình độ và mục tiêu đào tạo, bao gồm đối tượng đào tạo, điều kiện nhập học và tốt nghiệp Nó xác định chuẩn kiến thức, kỹ năng cần có của người học sau khi tốt nghiệp, cùng với khối lượng kiến thức lý thuyết, thực hành và thực tập CTĐT cũng đề ra kế hoạch đào tạo theo thời gian, phương pháp và hình thức đào tạo, cũng như cách thức đánh giá kết quả học tập và các điều kiện cần thiết để thực hiện chương trình.
CTĐT được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp
Chương trình đào tạo (CTĐT) bao gồm nhiều môn học, mỗi môn có vai trò và đặc thù riêng, cung cấp kiến thức cần thiết cho sinh viên Thông qua việc truyền tải kiến thức của từng môn, các kỹ năng khác cũng được rèn luyện, góp phần phát triển toàn diện cho người học.
8 Đại học Quốc Gia Hà Nội (2003), Giáo dục học đại học (Tài liệu bồi dưỡng dùng cho các lớp Giáo dục học đại
Khái niệm Chương trình đào tạo (CTĐT) là một khái niệm linh hoạt, phản ánh sự phát triển của kinh tế - xã hội cũng như khoa học, kỹ thuật và công nghệ CTĐT không ngừng điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao động qua các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội Do đó, việc phát triển CTĐT là cần thiết để thực hiện hiệu quả các chức năng của nó.
1.1.1.2 Phát triển CTĐT a Phát triển
Các cách tiếp cận xây dựng Chương trình đào tạo
Phát triển chương trình giáo dục là một quá trình liên tục nhằm cải thiện cơ hội học tập và tương tác trong lớp học, tập trung vào dạy - học - đánh giá Để đáp ứng các yêu cầu đa dạng, cần xây dựng một chương trình giáo dục mở, bao gồm chương trình hạt nhân và phần lựa chọn giúp học sinh phát huy sở trường Chương trình giáo dục nên tập trung vào việc hình thành các năng lực cần thiết, đặc biệt là những năng lực chung để học sinh có thể áp dụng kiến thức trong nhiều tình huống khác nhau.
Dạy học là một hoạt động xã hội lịch sử, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao kinh nghiệm giữa các thế hệ, đảm bảo sự kế thừa và phát triển của xã hội Do đó, việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo (CTĐT) luôn bị ảnh hưởng bởi nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó có một số cách tiếp cận cần được chú ý đặc biệt.
1.1.2.1 Tiếp cận nội dung Đây là cách tiếp cận có tính kinh điển về CTĐT và đang được đa số giảng viên ở nhiều nơi sử dụng Một CTĐT theo cách này giúp người dạy có thể biết mình phải dạy những gì, còn người học thì có thể biết mình sẽ học cái gì Theo đó một CTĐT được đánh giá chủ yếu ở khối lượng và chất lượng kiến thức mà nó định chuyển tải đến người học Quan điểm này có mối liên hệ với quan niệm cho rằng “dạy học là quá trình truyền thụ kiến thức”
1.1.2.2 Tiếp cận mục tiêu Đây là cách tiếp cận cho rằng: Xuất phát điểm của việc xây dựng một CTĐT phải là sự xác định một cách rõ ràng và đầy đủ mục tiêu mà chương trình đó muốn đạt được, Những mục tiêu này gồm 3 loại: Nhận thức, kĩ năng, thái độ Dựa trên mục tiêu này để quyết định lựa chọn nội dung, phương pháp giảng dạy, cách thức kiểm tra đánh giá Và cũng chính những mục tiêu này được dùng làm căn cứ để đánh giá chất lượng của việc xây dựng và thực thi chương trình Do đó, giáo dục được xem là công cụ để tạo nên các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn đã được xác định trước
1.1.2.3 Tiếp cận phát triển Đây là cách tiếp cận mà giáo dục được xem như là phương tiện để giúp con người phát triển một cách toàn diện và liên tục, chương trình phải được xây dựng sao cho sản phẩm do nó tạo ra có thể đương đầu với những đòi hỏi đa dạng của nghề nghiệp, có thể thích ứng và vươn lên trong một thế giới không ngừng phát triển Đặc điểm nổi bật của cách tiếp cận này là sự quan tâm tới những đặc thù riêng của người học, giúp người học tìm được sự phù hợp của CTĐT đối với hoàn cảnh, năng lực, sở thích của riêng mình Do đó, chương trình thường được xây dựng thành các modul kiến thức Dưới sự giúp đỡ của giảng viên, người học có thể lựa chọn cho mình một tổ hợp modul phù hợp nhất
Chương trình đào tạo được hiểu là bản thiết kế tổng thể từ khâu tuyển chọn đến kết thúc khoa học, bao gồm các hoạt động đào tạo liên kết chặt chẽ và tương tác lẫn nhau Tiếp cận hệ thống trong thiết kế chương trình giúp xây dựng một cấu trúc hợp lý, làm rõ vai trò và tác dụng của từng khâu, nội dung, đồng thời đảm bảo sự liên hệ và tương tác giữa các thành tố trong chương trình đào tạo.
1.1.3 Sự cần thiết phải phát triển CTĐT trong giáo dục đại học
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, giáo dục đại học Việt Nam cần phát triển để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế Sản phẩm đào tạo từ các trường đại học phải phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động, bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp Đồng thời, sinh viên cần có khả năng tự học và nghiên cứu để tiếp thu tri thức và thích nghi với sự thay đổi của khoa học công nghệ.
Sự cần thiết phải phát triển Chương trình đào tạo trong giáo dục đại học 15 1.1.4 Nội dung các bước phát triển Chương trình đào tạo
Những thay đổi trong xã hội yêu cầu điều chỉnh chương trình đào tạo đại học, đánh dấu sự chuyển mình từ giáo dục chính quy sang thị trường lao động Giáo dục đại học có khả năng tự đánh giá để nâng cao hiệu quả giảng dạy Đồng thời, sự phát triển trong các lĩnh vực khác và những ý tưởng mới cũng thúc đẩy sự cần thiết phải thay đổi chương trình đào tạo.
Phát triển chương trình đào tạo là cần thiết để cập nhật và bổ sung những nội dung mới, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học Điều này giúp chương trình phù hợp hơn với nhu cầu và hoàn cảnh của đất nước, xã hội, đồng thời đảm bảo xu hướng hội nhập khu vực và toàn cầu.
1.1.4 Nội dung các bước phát triển CTĐT
Để xác định mục tiêu đào tạo của khóa học, cần phân tích tình hình cụ thể, các điều kiện dạy và học cả trong và ngoài trường, cũng như nhu cầu đào tạo của người học và xã hội.
Phân tích nhu cầu đào tạo dựa trên việc xử lý thông tin phản hồi từ nhiều nguồn khác nhau nhằm xác định sự phù hợp giữa kiến thức và kỹ năng đã được trang bị với yêu cầu thực tế công việc của sinh viên Thông tin từ các cơ sở sử dụng lao động, các cơ sở đào tạo sau đại học và cựu sinh viên rất hữu ích trong việc dự báo nhu cầu đào tạo, tạo cơ sở tin cậy để xác định mục tiêu đào tạo và các bước tiếp theo trong quá trình phát triển chương trình đào tạo.
Sau khi phân tích tình hình, xác định được nhu cầu thực tiễn, bước tiếp theo là xác định mục đích và mục tiêu đào tạo
1.1.4.2 Xác định mục đích chung và mục tiêu cụ thể
Mục đích của chương trình đào tạo (CTĐT) là xác định rõ ràng đích đến chung của chương trình, định hướng cho toàn bộ quy trình đào tạo về năng lực chuyên môn và phẩm chất hành vi CTĐT cần trả lời câu hỏi về hướng đi mà môn học sẽ dẫn dắt người học, đồng thời chỉ ra những phương hướng dự kiến mà không đi sâu vào các phương pháp dạy và học cụ thể.
Mục đích là khái niệm bao quát hơn so với mục tiêu, trong đó mục tiêu là sự diễn đạt cụ thể về những gì người học có thể thực hiện sau khi hoàn thành khóa học Mục tiêu được phân chia thành nhiều mức độ, từ mục tiêu chung nhất (đầu ra của chương trình đào tạo) đến mục tiêu cụ thể (mục tiêu của môn học hay giờ học) Việc xác định mục tiêu đào tạo sẽ khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận trong xây dựng và phát triển chương trình đào tạo; nếu theo cách tiếp cận mục tiêu, sẽ xác định mục tiêu đầu ra, trong khi cách tiếp cận phát triển hay quy trình sẽ coi các nguyên tắc chỉ đạo quá trình là mục tiêu của chương trình đào tạo.
Dựa trên mục tiêu đào tạo, cần xác định nội dung, phương pháp giảng dạy, và phương tiện hỗ trợ phù hợp để đánh giá kết quả học tập Sau đó, tiến hành thử nghiệm chương trình đào tạo ở quy mô nhỏ nhằm kiểm tra tính hiệu quả của các nội dung đã thiết kế Kết quả của giai đoạn này sẽ là một chương trình đào tạo cụ thể, bao gồm mục tiêu, nội dung, phương pháp, điều kiện hỗ trợ, và phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cùng với phân phối thời gian đào tạo.
Sau khi hoàn tất thiết kế, chương trình đào tạo sẽ được triển khai và tổ chức thực hiện Việc đánh giá chương trình dạy học là cần thiết ở tất cả các giai đoạn, nhằm đảm bảo chất lượng Dựa trên các mục tiêu đào tạo mới và tình hình thực tế, chương trình dạy học sẽ được điều chỉnh và hoàn thiện liên tục Nhờ đó, chương trình sẽ không ngừng phát triển và cải tiến cùng với quá trình đào tạo.
Đánh giá chương trình cần được thực hiện liên tục trong suốt quá trình triển khai, không chỉ chờ đến giai đoạn cuối Trong quá trình thực thi, chương trình có thể bộc lộ nhược điểm và nhận được ý kiến đóng góp từ học viên và giảng viên, từ đó cần điều chỉnh kịp thời Sau khi kết thúc khóa đào tạo, việc đánh giá tổng kết sẽ diễn ra để xem xét toàn bộ chu kỳ Giảng viên và những người xây dựng, quản lý chương trình đào tạo cần tự đánh giá thường xuyên qua từng buổi học và hàng năm, nhằm cải thiện chương trình cho các chu kỳ tiếp theo Qua đó, chương trình đào tạo sẽ không ngừng được hoàn thiện và phát triển song song với quá trình giáo dục.
Việc xây dựng chương trình là một quá trình liên tục, không phải là một giai đoạn tách biệt trong đào tạo Nhìn nhận chương trình từ góc độ phát triển dạy học giúp tăng tính linh hoạt, cho phép giáo viên điều chỉnh nội dung phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để đạt được mục tiêu Người xây dựng chương trình cần có cái nhìn tổng quát về toàn bộ quá trình đào tạo, vì các chương trình dạy học có mối liên hệ chặt chẽ không chỉ giữa các cấp học mà còn trong cùng một cấp học Do đó, các bước xây dựng chương trình nên được sắp xếp theo hình thức vòng tròn thay vì theo thứ tự tuyến tính.
Mối quan hệ các bước phát triển chương trình đào tạo
1 Cách sắp xếp như trên cho thấy rõ đây là một quá trình liên tục để hoàn thiện và không ngừng phát triển CTĐT, bước này ảnh hưởng trực tiếp đến bước kia, không thể tách rời từng bước riêng rẽ hoặc không xem xét đến các tác động hữu cơ giữa các bước
2 Các khâu này là liên tục và tác động trực tiếp đến nhau, chẳng hạn khi phát triển một chương trình dạy học nào đó thường phải đánh giá chương trình dạy học hiện hành xem nó có phù hợp và hiệu quả không? Sau đó tiến hành phân tích tích tình hình (những nhu cầu của việc đổi mới từ người học và xã hội) Nếu chương trình không phù hợp và có yêu cầu của sự đổi mới, chúng ta sẽ tiến hành xây dựng các kế hoạch phát triển chương trình
3 Khi lên kế hoạch phát triển chương trình, cần xác định cụ thể mục đích, mục tiêu của việc phát triển chương trình Từ mục tiêu này sẽ xác định nội dung dạy học, lựa chọn các phương pháp giảng dạy thích hợp, các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập Đồng thời xác định rõ các nguồn lực để phát triển chương trình, gồm: Nguồn lực về giáo viên, người học; nguồn lực về các cơ quan liên đới, các chuyên gia; các phương pháp tiếp cận chương trình dạy học trong tương lai; thời gian và kinh phí phát triển chương trình; địa điểm, hình thức phát triển chương trình Trong quá trình lập kế hoạch, cần phải tiến hành các hoạt động truyền bá và phổ biến nhằm giúp cho việc phát triển chương trình đạt được hiệu quả mong muốn.Việc lên kế hoạch phát triển chương trình mới phụ thuộc vào phạm vi hoạt động của chương trình Vì vậy nó có thể diễn ra trong vài tháng hoặc có thể một vài năm
4 Dựa vào kế hoạch đã xây dựng, chúng ta tiến hành thiết kế hoặc cải tiến chương trình dạy học Kết quả của giai đoạn này sẽ là một bản chương trình dạy học cụ thể Nó cho ta biết mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, các điều kiện và phương tiện hỗ trợ đào tạo, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập cũng như việc phân phối thời gian dạy học
5 Sau khi xây dựng chương trình hoặc cải tiến chương trình, chúng ta sẽ tiến hành thực nghiệm chương trình đào tạo nhằm bước đầu đánh giá tính hiệu
Cơ sở pháp lý về phát triển Chương trình đào tạo đại học
6 Khi đánh giá thực hiện chương trình cần phải đánh giá nhiều mặt và có sự đánh giá của các bên liên quan như: Người trực tiếp thực hiện chương trình, các bên liên đới, các chuyên gia, đánh giá của người học
7 Việc thể chế hóa một chương trình mới trong thực tế diễn ra rất phức tạp, mất nhiều thời gian và đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều yếu tố.Sau khi chương trình đã được thể chế hóa chúng ta lại tiếp tục đánh giá kết quả và quá trình thực hiện chương trình Các hoạt động đánh giá này cần diễn ra một cách liên tục trong tất cả các giai đoạn
8 Tuy nhiên không phải đến khâu này là kết thúc, trong quá trình thực hiện chương trình lại có những yêu cầu mới nảy sinh từ phía môi trường và người học nhằm thay đổi và đổi mới chương trình đào tạo Lúc này lại phải dựa vào yêu cầu mới, tình hình mới để thiết kế lại hoặc điều chỉnh chương trình dạy học cho phù hợp Cứ như vậy, các chương trình dạy học sẽ liên tục được hoàn thiện và phát triển không ngừng cùng với quá trình đào tạo Lúc này chúng ta lại tiến hành quay trở lại các bước của phát triển chương trình đào tạo, quá trình này diễn ra theo một vòng tròn và liên tục
1.2 Cơ sở pháp lý về phát triển CTĐT đại học
1.2.1 Những văn bản chỉ đạo của Đảng về phát triển CTĐT
Đảng ta khẳng định trong các văn kiện trình Đại hội XII rằng việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là cần thiết và nhất quán Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI đã nhấn mạnh đây là quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa” cho sự phát triển của đất nước và là “mệnh lệnh” của cuộc sống Một giải pháp quan trọng được đề xuất là đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, và hình thức giáo dục, chú trọng vào phát triển năng lực và phẩm chất của người học Việc xác định đúng mục tiêu đổi mới giáo dục và công khai các tiêu chuẩn “đầu vào” là rất cần thiết.
Để nâng cao chất lượng "đầu ra" của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo, cần đổi mới chương trình khung và nội dung các môn học theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học Điều này đảm bảo sự hài hòa giữa đức, trí, thể, mỹ, đồng thời thực hiện tốt phương châm mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề, thay vì dạy chữ, dạy người và dạy nghề như trước đây.
Trong Văn kiện đại hội XII, Đảng ta tiếp tục kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, đưa ra đường lối đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, coi đây là quốc sách hàng đầu cho sự phát triển Đường lối này mang tính đột phá, nhằm phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, đồng thời khẳng định triết lý giáo dục mới với ba mục tiêu: “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và nghề nghiệp, còn thấp so với yêu cầu Hệ thống giáo dục thiếu liên thông giữa các trình độ và phương thức, nặng lý thuyết mà nhẹ thực hành, và chưa gắn kết với nghiên cứu khoa học cũng như nhu cầu thị trường lao động Phương pháp giáo dục, thi cử và đánh giá kết quả còn lạc hậu và thiếu thực chất, trong khi quản lý giáo dục có nhiều hạn chế Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý chưa đáp ứng đủ về chất lượng, số lượng và cơ cấu Đầu tư cho giáo dục chưa hiệu quả và chính sách tài chính chưa phù hợp Cơ sở vật chất, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, còn thiếu thốn và lạc hậu.
Việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo là rất cần thiết để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới Quá trình này cần bắt đầu từ việc thay đổi quan điểm và tư tưởng chỉ đạo, cho đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách và điều kiện thực hiện Đổi mới phải diễn ra từ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đến hoạt động quản trị tại các cơ sở giáo dục và sự tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội, cùng với sự chủ động của người học Tất cả các bậc học và ngành học đều cần được đổi mới để phù hợp với xu thế phát triển.
1.2.2 Những qui định của Nhà nước về phát triển CTĐT
Xu hướng trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đại học đang được áp dụng như một giải pháp chiến lược nhằm nâng cao chất lượng đào tạo Để thể hiện nỗ lực đổi mới này, một hệ thống văn bản pháp quy đã được xây dựng.
- Luật Giáo dục đại học 2012
- Điều lệ trường đại học (ban hành theo Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10 tháng 12 năm 2014)
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ, ban hành ngày 2/11/2005, đề ra mục tiêu đổi mới toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 Trong đó, một trong bảy giải pháp quan trọng là đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo, nhằm áp dụng quy trình đào tạo linh hoạt và liên thông Nghị quyết nhấn mạnh việc xây dựng thể chế nhập học linh hoạt, cho phép người học có thể theo học đại học vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời Đặc biệt, lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ được đề ra, tạo điều kiện thuận lợi cho người học trong việc tích lũy kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, cũng như liên thông và chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo cả trong nước và quốc tế.
- Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục trong giai đoạn 2010- 2012
- Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT- BNV của Bộ GD&ĐT và
Bộ Nội vụ tháng 4/2009, hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ
- Chương trình giáo dục đại học Theo Luật Giáo dục đại học Việt Nam
Năm 2012, hệ thống giáo dục đại học bao gồm các chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, cùng với các cơ sở giáo dục đại học, cả trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài Đào tạo trình độ đại học cần đảm bảo sinh viên nắm vững kiến thức khoa học cơ bản và chuyên môn, đồng thời phát triển phương pháp làm việc khoa học và khả năng áp dụng lý thuyết vào thực tiễn chuyên môn.
Mục tiêu phát triển giáo dục đại học đến năm 2020 là đạt được sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nâng cao trí tuệ dân tộc Giáo dục đại học cần tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới, nâng cao một số trường lên đẳng cấp quốc tế, từ đó góp phần tăng cường sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và nền kinh tế đất nước.
Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT quy định các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo đại học, nhấn mạnh việc thu thập và xử lý thông tin để đưa ra nhận định dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá toàn diện Điều này bao gồm mục tiêu và chuẩn đầu ra của chương trình, mô tả chương trình đào tạo, cấu trúc và nội dung giảng dạy, phương pháp dạy và học, cùng với việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên Ngoài ra, việc đánh giá cũng liên quan đến đội ngũ giảng viên, nhân viên, hoạt động hỗ trợ sinh viên, cũng như cơ sở vật chất và trang thiết bị nhằm nâng cao chất lượng và kết quả đầu ra.
Luật Giáo dục 2012 và các văn bản pháp lý liên quan đã tạo điều kiện cho việc phát triển hệ thống tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học Việt Nam Điều này không chỉ được khẳng định về mặt pháp lý mà còn cần được triển khai thực tế Việc xây dựng chương trình đào tạo (CTĐT) cần phải phù hợp với học chế tín chỉ và tiếp cận theo năng lực trong các cơ sở giáo dục.
Cơ sở thực tiễn về phát triển Chương trình đào tạo ngành Lưu trữ học bậc đại học tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
1.3.1 Nhu cầu thực tiễn về nguồn nhân lực văn thư-lưu trữ được đào tạo theo hướng hiện đại ở Việt Nam hiện nay
Nguồn nhân lực chất lượng là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của mỗi nền kinh tế - xã hội và ngành khoa học Đào tạo đóng vai trò cốt lõi trong việc xây dựng nguồn lực, giúp đưa khoa học vào cuộc sống Chương trình đào tạo (CTĐT) là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực, cần được phát triển và cập nhật liên tục để đáp ứng yêu cầu của xã hội đang không ngừng vận động và phát triển Việc đảm bảo CTĐT phù hợp với nhu cầu thực tiễn là điều tất yếu để tạo ra nguồn nhân lực có chuyên môn vững vàng.
Lưu trữ học là một khoa học thuộc nhóm ngành khoa học thông tin
Ngành khoa học lưu trữ nghiên cứu và phát triển hệ thống lý luận cũng như phương pháp thực hiện nghiệp vụ lưu trữ tài liệu Đào tạo nguồn nhân lực lưu trữ học nhằm xây dựng đội ngũ có khả năng thực hiện nghiệp vụ lưu trữ và phát huy giá trị tài liệu, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành lưu trữ cả về lý luận lẫn thực tiễn Hiện nay, ngành lưu trữ tại Việt Nam và trên toàn thế giới đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự phát triển của khoa học công nghệ, điều này vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra thách thức cho ngành lưu trữ, đồng thời là bài toán cần giải quyết trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
1.3.1.1.Tác động của khoa học công nghệ đến ngành văn thư- lưu trữ Ở Việt Nam, quá trình ứng dụng công nghệ thông tin đang diễn ra mạnh mẽ trong mọi mặt của đời sống xã hội Trong hoạt động quản lý cũng như trong công tác hành chính văn phòng, công nghệ thông tin đã đóng một vai trò không thể thay thế Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hành chính văn phòng và trong hoạt động quản lý đồng nghĩa với việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử, tăng cường thực hiện giao dịch dưới dạng điện tử Trong “Nghị quyết Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020” ( số 30c/NQ-CP) do Chính phủ ban hành ngày 8/11/2011, một trong những nội dung trọng điểm là “Hiện đại hóa hành chính” Theo đó sẽ “Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử của Chính phủ trên internet”, Chính phủ Việt Nam đã đặt ra mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020:
90% văn bản và tài liệu chính thức giữa các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay được thực hiện dưới dạng điện tử, cho phép giao dịch diễn ra mọi lúc, mọi nơi thông qua phương tiện truyền thông đa phương tiện Ngày 22/5/2012, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành chỉ thị số 15/CT-TTg nhằm tăng cường sử dụng văn bản điện tử, coi đây là một phần của cải cách hành chính và phát triển Chính phủ điện tử Việt Nam cũng đang tích cực triển khai hệ thống “một cửa điện tử”, cho thấy sự chuyển mình rõ rệt sang giao dịch điện tử trong các hoạt động hành chính Trong tương lai gần, hầu hết các giao dịch hành chính, kinh doanh và các hoạt động văn hóa-xã hội sẽ được thực hiện dưới hình thức điện tử.
Chính phủ đang chỉ đạo cải cách hành chính trong các cơ quan nhà nước, trong khi các tổ chức xã hội và doanh nghiệp cũng tích cực áp dụng công nghệ thông tin Họ tăng cường giao dịch điện tử nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Nghị quyết về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ trong quản lý và hiệu quả lao động Trong mọi cơ quan, từ nhà nước đến tư nhân, máy tính kết nối internet là thiết bị thiết yếu Hiệu quả trong công tác văn bản, bao gồm soạn thảo, ban hành, xử lý, lưu trữ và tìm kiếm thông tin, luôn được các tổ chức và cá nhân đặc biệt chú trọng.
Việc ứng dụng công nghệ tự động hóa trong công tác văn bản điện tử và các giao dịch điện tử đã cải thiện chất lượng công việc và thay đổi diện mạo hoạt động của các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam Văn bản điện tử đang dần thay thế văn bản giấy, dẫn đến sự hình thành một loại tài liệu lưu trữ mới - tài liệu lưu trữ điện tử, phản ánh xu hướng hiện đại hóa trong quản lý thông tin.
Tài liệu lưu trữ là tấm gương phản chiếu lịch sử và sự phát triển của quốc gia, đóng vai trò là nguồn tài nguyên thông tin quý giá Truyền thống, tài liệu lưu trữ chủ yếu được lưu giữ dưới dạng giấy Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã dẫn đến sự ra đời của tài liệu điện tử, mang lại nhiều thay đổi trong quản lý và hoạt động xã hội Dù tài liệu điện tử có nhiều ưu điểm, nhưng cũng đặt ra thách thức trong việc bảo đảm tính toàn vẹn, khả năng tiếp cận và giá trị pháp lý của chúng trong tương lai, đặc biệt khi xem xét vai trò của chúng như chứng cứ lịch sử và di sản văn hóa dân tộc.
1.3.1.2 Định hướng phát triển của ngành văn thư-lưu trữ trong giai đoạn tới và nhu cầu về nguồn nhân lực của ngành
Vào ngày 27 tháng 6 năm 2012, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký Quyết định số 579/QĐ-BNV, nhằm nhận thức rõ sự thâm nhập của khoa học công nghệ vào hoạt động của các cơ quan tổ chức và tác động của nó đến ngành văn thư-lưu trữ.
“Quyết định phê duyệt Quy hoạch ngành Văn thư-Lưu trữ đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030” (sau đây gọi là Quyết định Quy hoạch ngành)
Quyết định quy hoạch ngành đặt mục tiêu nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, nhằm hiện đại hóa công tác văn thư-lưu trữ 100% cơ quan nhà nước sẽ quản lý văn bản đi, đến theo quy định và lập hồ sơ công việc đối với tài liệu truyền thống Hệ thống mạng nội bộ và thư điện tử sẽ được duy trì, với 50% văn bản chính thức trao đổi qua môi trường mạng và sử dụng chữ ký số để bảo mật thông tin Đến năm 2030, 90% cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương sẽ lập hồ sơ công việc trên mạng Về lưu trữ, dự báo đến năm 2020 sẽ có khoảng 400.000 mét giá tài liệu, 100% tài liệu được chỉnh lý hoàn chỉnh, trong đó 20.000.000 trang tài liệu được số hóa Đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 700.000 mét giá và 40.000.000 trang tài liệu số hóa, với 20% thông tin tài liệu lưu trữ được tổ chức khai thác trên mạng phục vụ công chúng Mục tiêu về nguồn nhân lực cũng được đề ra trong quy hoạch ngành.
Xây dựng đội ngũ nhân lực văn thư-lưu trữ chất lượng cao là yếu tố then chốt để đáp ứng yêu cầu của ngành trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Về mặt số lượng, Theo Quyết định qui hoạch ngành văn thư-lưu trữ, đến năm
Đến năm 2020, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học và sau đại học được đào tạo đúng chuyên ngành tại Việt Nam dự kiến đạt từ 75-80% Về chất lượng, sự phát triển này đang được chú trọng nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả công việc trong các lĩnh vực khác nhau.
Quyết định số 579/QĐ-BNV phê duyệt quy hoạch ngành văn thư-lưu trữ đến năm 2020 đã chỉ ra sự thâm nhập sâu rộng của công nghệ điện tử vào các hoạt động của cơ quan, tổ chức và đời sống xã hội, dẫn đến nhu cầu cấp bách về nguồn nhân lực văn thư-lưu trữ và hành chính văn phòng được đào tạo theo hướng công nghệ hiện đại Nguồn nhân lực này không chỉ cần có kỹ năng soạn thảo văn bản và thực hiện các công tác văn thư, lưu trữ trên tài liệu giấy, mà còn phải thành thạo trong việc xử lý văn bản điện tử, bao gồm soạn thảo, ban hành, xử lý, chu chuyển và kiểm soát văn bản trong môi trường điện tử Việc ứng dụng hệ thống văn thư điện tử và thực hiện các giao dịch điện tử cũng là yêu cầu thiết yếu đối với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực hành chính-văn phòng và văn thư-lưu trữ.
Nhu cầu về nguồn nhân lực được đào tạo theo định hướng công nghệ hiện đại trong lĩnh vực văn bản ngày càng gia tăng Điều này đảm bảo rằng các văn bản phục vụ cho hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức xã hội và doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thực hiện hiệu quả.
Nhu cầu về nguồn nhân lực có khả năng làm việc với văn bản điện tử đang gia tăng, đặc biệt là những người có năng lực thực hiện tự động hóa công tác văn bản Điều này nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng chính phủ điện tử tại Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và cải thiện dịch vụ công.