MỞ ðẦU
Nuôi cá biển đã phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam Theo FAO, sản lượng cá biển thế giới năm 2005 đạt 1,237 triệu tấn, trong khi Việt Nam đạt khoảng 5.000 tấn Ngành nuôi cá biển không chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội mà còn tạo ra việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần ổn định an ninh lương thực.
Nuôi cỏ biển có những tác động tích cực đến môi trường sinh thái Để giảm thiểu các tác động tiêu cực, nhiều quốc gia có nghề nuôi cỏ biển phát triển mạnh như Na Uy, Anh, Scotland, Hy Lạp, Canada, Mỹ, Australia, Chi Lê, và Nhật Bản đã áp dụng các phương pháp giám sát và điều chỉnh hiệu quả Đặc biệt, Na Uy đã xây dựng một hệ thống kiểm soát tác động của nuôi biển đến môi trường.
MOM, viết tắt của "Modelling – Ongrowing fish farm – Monitoring", là mô hình quản lý và giám sát môi trường trong trại nuôi cá biển, được đề xuất bởi Hansen và cộng sự vào năm 1997.
MOM là hệ thống phương pháp dùng để giám sát và đánh giá tác động của hoạt động nuôi cá biển đến môi trường, dựa trên sức tải môi trường của vùng nuôi Tại Na Uy, các trang trại nuôi cá biển phải áp dụng hệ thống MOM để đánh giá tác động môi trường, và nhiều quốc gia khác như Hy Lạp, Australia, Indonesia, và Philippines cũng đã áp dụng và cải tiến hệ thống này cho phù hợp với điều kiện địa lý cụ thể Tại Việt Nam, hiện chưa có phương pháp chuẩn thống nhất để đánh giá tác động của nuôi biển đến môi trường, mặc dù đã có một số nghiên cứu liên quan Việc ứng dụng MOM tại Việt Nam rất có ý nghĩa, vì đây sẽ là phương pháp chuẩn cho chương trình quan trắc vùng nuôi biển trong nhiệm vụ giám sát môi trường MOM có thể được cải tiến dựa trên tiêu chuẩn môi trường và nuôi thủy sản của Việt Nam, đồng thời dễ dàng cập nhật các nghiên cứu mới và so sánh với phương pháp của các nước khác Quan trọng hơn, việc áp dụng MOM sẽ cung cấp dữ liệu tin cậy về điều kiện môi trường vùng nuôi, phục vụ cho việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm trong xuất khẩu thủy sản.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đang nghiên cứu đề tài thạc sĩ khoa học nông nghiệp với tiêu đề “Ứng dụng phương pháp MOM (modelling – ongrowing fish farm – monitoring) để đánh giá tác động của nuôi cá biển đến môi trường lý, hóa học tại Cát Bà, Hải Phòng.” Đề tài này sẽ là cơ sở quan trọng cho việc triển khai ứng dụng MOM trong việc giám sát và đánh giá các tác động của nuôi cá biển đến môi trường.
1.1 Mục tiờu của ủề tài
Từng bước ỏp dụng phương phỏp MOM nghiờn cứu tỏc ủộng của nuụi cỏ biển ủến mụi trường vựng nuụi ở Việt Nam
Nghiờn cứu tỏc ủộng của nuụi cỏ biển ủến mụi trường lý húa học trầm tớch vựng nuôi bằng phương pháp MOM
• Nghiờn cứu tỏc ủộng của nuụi cỏ biển ủến một số thụng số húa học trầm tớch
• Nghiờn cứu tỏc ủộng của nuụi cỏ biển tới mụi trường bằng phương phỏp MOM
TỔNG QUAN
Hiện trạng nuôi cá biển
2.1.1 Nuôi cá bi ể n trên th ế gi ớ i
Nuôi cỏ biển đã phát triển mạnh mẽ trong hơn 20 năm qua, tạo ra việc làm và thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động, đồng thời mang lại lợi ích kinh tế lớn cho nhiều quốc gia Theo FAO (2007), các khu vực nuôi cá biển chủ yếu trên thế giới bao gồm Tây – Bắc Âu, Địa Trung Hải, Châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc, Châu Mỹ La Tinh và Caribe, Bắc Mỹ, và Australia Nhận thức được tầm quan trọng chiến lược lâu dài của nuôi cỏ biển, nhiều quốc gia như Na Uy, Chi Lê, Nhật Bản và Trung Quốc đã coi đây là một ngành kinh tế quan trọng Các công nghệ tiên tiến trong thiết kế lồng nuôi, chế biến thức ăn, chọn giống, quản lý môi trường và phòng trị bệnh đã tạo ra những bước phát triển lớn trong ngành nuôi cỏ biển Sản lượng năm 2005 của 10 nước hàng đầu trong ngành này được ghi nhận là rất ấn tượng.
Bảng 2-1: Sản lượng nuôi cá Hồi trên thế giới năm 2005
Stt Quốc gia Sản lượng
Tỷ lệ (%) Stt Quốc gia Sản lượng
Các loài cá nuôi chủ yếu là, cá Hồi (Salmonidae), cá Chình (Anguillidae), cá
Cá Hồi (Salmonidae) là loài cá có sản lượng cao nhất trên thế giới, chiếm 66% tổng sản lượng cá nuôi biển, theo FAO (2007) Ngoài cá Hồi, các loài cá như cá Tráp (Pagrus auratus), cá Cam (Seriola dumerili) và cá Hồng (Lutjanus) cũng đóng góp vào ngành nuôi trồng thủy sản.
Cỏ hồi đại tây dương (Atlantic salmon) là loài cá nuôi phổ biến nhất, với diện tích nuôi trồng và giá trị xuất khẩu lớn, chủ yếu tập trung ở các quốc gia như Na Uy, Chi Lê, Anh, Canada và Đan Mạch.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp 4
Australia và Ireland Sản lượng cỏ biển năm 1970 chỉ cú 294 tấn ủó tăng lờn 1.237.977 tấn năm 2005, giá trị khoảng 4,767 tỷ USD (FAO, 2007)
2.1.2 Nuôi cá bi ể n t ạ i Vi ệ t Nam
Việt Nam, với bờ biển dài và tiềm năng nuôi biển lớn, vẫn chưa phát triển quy mô và sản lượng nuôi thủy sản biển Theo FAO (2007), sản lượng nuôi cá biển tăng từ 2.600 tấn năm 2001 lên khoảng 5.000 tấn năm 2005 và ước đạt trên 10.000 tấn vào năm 2008 Năm 2004, cả nước có 40.059 lồng nuôi cỏ biển, chủ yếu tập trung tại các tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Yên, Bà Rịa – Vũng Tàu và Kiên Giang.
Trong những năm qua, nuôi cỏ biển đã có những bước phát triển đáng kể, với mục tiêu quan trọng là tạo ra những vùng nuôi có sản lượng lớn, đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ môi trường sinh thái Đồng thời, sản phẩm cũng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhằm xuất khẩu hiệu quả và đạt được giá trị kinh tế cao.
2.1.3 Hi ệ n tr ạ ng nuôi cá bi ể n t ạ i Cát Bà, H ả i Phòng
Hải Phũng đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của nghề nuôi cỏ biển trong khoảng 10 năm qua, đặc biệt tại các vịnh và vụng thuộc quần đảo Cát Bà Đây là những khu vực kinh tế và du lịch trọng điểm, nơi nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên biển được phát triển hợp lý, kết hợp với du lịch, tạo ra một hướng đi bền vững, với sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai lĩnh vực này.
Quy ho ạ ch và phát tri ể n nuôi cá bi ể n
Vịnh Cái Bèo có diện tích khoảng 6 km², trong khi vịnh Lan Hạ rộng hơn 22 km², được bao quanh bởi các đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho nghề nuôi trồng thủy sản Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, nghề nuôi trồng thủy sản tại đây đã phát triển nhanh chóng trong những năm qua Số lượng lồng nuôi tăng nhanh, tuy nhiên, chủ yếu là tự phát và việc neo đậu chưa được quy hoạch và quản lý chặt chẽ bởi các cơ quan chức năng.
Theo Viện nghiên cứu Hải sản (2010), năm 2008, Cát Bà ghi nhận hơn 10.000 lồng nuôi cá biển, tăng 3.000 lồng so với năm 2005 Vịnh Cái Bèo dẫn đầu với 305 bè nuôi và 6.478 ô lồng, tiếp theo là vịnh Lan Hạ với 101 bè nuôi và 1.773 ô lồng, và cuối cùng là vịnh Cát Bà với 165 bè nuôi và 2.158 ô lồng.
Bảng 2-2: Số lượng lồng nuụi cỏ biển ủảo Cỏt Bà
Nguồn: Viện nghiên cứu Hải sản (2010); Phòng NN & PTNT huyện Cát Hải (2010)
Hỡnh 2-1: Bố nuụi cỏ biển dày ủặc trờn vịnh Cỏi Bốo
Theo số liệu điều tra năm 2010, tại vịnh Cỏi Bèo có 290 bè nuôi cỏ biển, trong khi vịnh Lan Hạ có gần 50 bè Mỗi bè trung bình có từ 30-50 ô lồng, nhưng hiện chỉ khoảng 70% số ô lồng đang được sử dụng Khoảng 30% số ô lồng còn lại bị bỏ trống do hiệu quả nuôi cỏ biển trong những năm gần đây thấp, nhiều bè nuôi cá gặp khó khăn và thất thu.
Khu vực hai vịnh có khoảng 20 bãi nuôi tu hài cùng với nhiều bè nuôi tu hài phân bố rải rác Diện tích nuôi được thiết kế bằng lưới và phên nứa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản ngay trên mặt vịnh.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp 6
Trình độ kỹ thuật của người dân còn hạn chế, cùng với ý thức bảo vệ môi trường và phòng trị bệnh cho cây trồng chưa cao, đã ảnh hưởng đến việc phát triển nông nghiệp Hơn nữa, vấn đề giao thông và thông tin liên lạc khó khăn cũng khiến cho việc phổ biến kiến thức và tập huấn kỹ thuật nuôi trồng gặp nhiều trở ngại.
Kết cấu lồng nuôi đơn giản, chủ yếu làm bằng gỗ với phao nổi từ thùng phi nhựa hoặc xốp Kích thước lồng phổ biến là 3m x 3m x 3m, một số ít có kích thước 5m x 5m x 3m, giúp dễ dàng triển khai ở các khu vực xa với điều kiện môi trường tốt hơn Các loài cá biển nuôi chủ yếu là cá Mú – Song (Epinephelus spp), cá Giò (Rachycentron canadum), cá Hồng (Lutjanus spp), cá Tráp (Pagrosomus spp), cá Dìa (Siganus guttatus) và cá đù (Sciaenops ocellatus) Những loài cá này có giá trị kinh tế cao trên thị trường, đặc biệt là cá Song với giá từ 200.000 – 250.000 VNĐ/kg, trong khi cá Sủ và cá Hồng có giá từ 50.000 – 80.000 VNĐ/kg tại lồng nuôi.
Nguồn cá giống chủ yếu được thu gom từ tự nhiên hoặc nhập khẩu từ Đài Loan và Trung Quốc, dẫn đến việc chất lượng di truyền và dịch bệnh chưa được kiểm soát, gây khó khăn cho người nuôi Mật độ cá giống thả phụ thuộc vào kinh nghiệm của người nuôi và lượng cá giống đã mua Ví dụ, cá Sủ sao thường được thả giống dựa trên những yếu tố này.
150 con – 300 con/lồng (3m x 3m x 3m), khú xỏc ủịnh ủược năng suất trờn ủơn vị diện tích nuôi
Thức ăn chính cho nuôi cá biển tại Cát Bà chủ yếu là cá tạp, không sử dụng thức ăn tổng hợp, dẫn đến hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) cao từ 7 đến 9 Điều này tạo ra khó khăn trong việc phát triển nuôi cá biển quy mô lớn, gây trở ngại cho ngành nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam.
Nguồn cỏ tạp cho nuôi cỏ biển hiện đang khan hiếm, dẫn đến giá tăng cao, với mức dao động từ 5.000 – 7.000 VNĐ/kg, gấp hơn 2 lần so với năm 2006-2007, khi giá chỉ từ 2.500 – 3.000 VNĐ/kg Sự gia tăng này đã góp phần đẩy giá thành sản phẩm lên cao, làm giảm hiệu quả thu nhập cho người nuôi.
Hình 2-2: Sử dụng cá tạp làm thức ăn cho nuôi cá biển trên vịnh Cái Bèo
Nghiờn cứu tỏc ủộng của nuụi cỏ biển ủến mụi trường sinh thỏi
Lợi ích kinh tế của nuôi cỏ biển rất lớn, tuy nhiên, những ảnh hưởng của nó đối với môi trường sinh thái cũng không nhỏ Các tác động của nuôi cỏ biển đến môi trường đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có các quốc gia như Na Uy.
Uy, Iceland, Anh, Mỹ, Ca-na-da, Australia, Nhật Bản và Chi Lê, Các báo cáo nghiên cứu của EAO (1996), G3 Consulting Ltd (2000), Heinig (2000), Kenneth (2001), Nash
(2001), Buschmann (2002), Crawford và cộng sự (2002), Weber (2003), Shakouri,M
Nghiên cứu của (2003) và Phillips (2005) chỉ ra rằng, mặc dù có sự khác biệt về rủi ro và mức độ tác động đặc trưng khu vực giữa các vùng, nhưng các nghiên cứu đều thống nhất về các rủi ro và tác động của nuôi cá biển Những tác động và rủi ro này được tổng hợp thành ba nhóm chính, giúp hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của nuôi cá biển đối với môi trường sinh thái.
(1) Nhóm có nguy c ơ r ủ i ro cao
• Tỏc ủộng của cỏc phản ứng sinh húa từ cỏc chất hữu cơ lắng ủọng (phõn cỏ, thức ăn thừa ) trên bề mặt trầm tích
• Tỏc ủộng của cỏc kim loại nặng tớch tụ trong trầm tớch ủến khu hệ ủộng vật ủỏy
• Tỏc ủộng khụng mong muốn của thuốc, húa chất trị bệnh lờn cơ thể sinh vật
• Tỏc ủộng sinh lý của hàm lượng ụxy hũa tan thấp trong mụi trường nước
• Tỏc ủộng gõy ủộc của H2S và NH3 từ cỏc phản ứng sinh húa
• Tỏc ủộng gõy ủộc của tảo nở hoa
• Sự biến ủổi của khu hệ ủộng vật ủỏy, biến mất hệ ủộng vật ủỏy
• Phát tán mầm bệnh của con người vào môi trường nước
• Phỏt tỏn mầm bệnh của cỏ và ủộng vật thõn mềm vào mụi trường nước
• Gia tăng tỷ lệ mắc bệnh của cá tự nhiên
• Thay thế nguồn cá khai thác tự nhiên bởi cá nuôi
(3) Nhóm có ít nguy c ơ ho ặ c không có nguy c ơ r ủ i ro
• Phỏt tỏn những giống loài khụng thuộc bản ủịa ra mụi trường tự nhiờn, sau ủú chỳng tỏc ủộng ủến những giống loài ủặc hữu trong vựng
• Tỏc ủộng của vi khuẩn khỏng thuốc lờn cỏ tự nhiờn
• Tỏc ủộng lờn sức khỏe và sự an toàn của con người
Nguồn Forrest và cộng sự (2007)
Hỡnh 2-5: Những tỏc ủộng sinh thỏi từ trại nuụi cỏ biển
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp 12
Hỡnh 2-6: Mụ hỡnh lý thuyết về tớch ủọng P và N trong nuụi cỏ biển
Theo báo cáo tổng quan của Forrest và cộng sự (2007), tác động sinh thái của nuôi cỏ biển trên toàn cầu là rất lớn, đặc biệt do các yếu tố như thức ăn thừa, phân thải và dư lượng hóa chất cùng thuốc trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản.
Theo White (2009), lý thuyết về tích tụ phốt pho (P) và nitơ (N) trong nuôi cỏ biển cho thấy rằng vật chất hữu cơ, bao gồm nitơ và phốt pho, lắng đọng dưới đáy lồng nuôi với tỷ lệ đáng kể, trong đó phốt pho chiếm từ 47% đến 54% và nitơ từ 12% đến 20%.
Bệnh cỏ biển là vấn đề quan trọng trong nuôi cỏ biển, liên quan đến hiện tượng cỏ nuôi thoát ra ngoài tự nhiên, sử dụng thuốc, hóa chất và sự tích lũy vật chất hữu cơ dưới nền nuôi Những vấn đề này cần được xem xét trong mối quan hệ với nhau, vì mật độ nuôi cao cùng với việc tích lũy thức ăn thừa và phân cá có thể gây sốc (stress) cho cá, làm chậm lớn và dẫn đến bệnh tật, sự bùng phát của các vật chủ trung gian mang bệnh, và tăng cường sử dụng thuốc phòng trị bệnh Vật chất hữu cơ tích lũy ở tầng nuôi có thể ảnh hưởng đến các hình thức tác động môi trường khác nhau.
Nghiờn cứu về tỏc ủộng của nuụi biển ủến mụi trường sinh thỏi tại Việt Nam hiện rất hạn chế
Báo cáo của Bộ Thủy sản và Ngân hàng Thế giới (2005) chỉ ra rằng nuôi trồng và khai thác thủy sản, cả ven bờ lẫn xa bờ, có tác động đáng kể đến nguồn lợi thủy sản và môi trường sinh thái tại Việt Nam.
• Mụi trường nước vịnh Bắc Bộ ủó bị khai thỏc quỏ mức so với sức tải mụi trường
• Gia tăng nuụi trồng thủy sản và Trung Quốc cấm ủỏnh bắt theo mựa làm tăng khai thác cá (bao gồm cả cá tạp) trong vùng nước Việt Nam
Quan trắc và giám sát nguồn tác động đến môi trường nuôi cá biển chưa được thực hiện thường xuyên Nghiên cứu của Trần Lưu Khanh (2005) tại Tùng Gấu (Cát Bà - Hải Phòng) và Phất Cờ (Vân Đồn – Quảng Ninh) cho thấy sức chịu tải môi trường thủy vực ở hai khu vực này vẫn nằm trong giới hạn cho phép Báo cáo đề xuất tăng số lượng lồng nuôi cá tại hai vịnh, với Vịnh Tùng Gấu có thể lên tới 465 lồng (thể tích mỗi lồng là 60 m³) và Vịnh Phất Cờ có thể lên tới 180 lồng Khoảng cách giữa các cụm lồng bè dao động từ 569 - 1.388 m² với 20 ô lồng/bè và từ 1.634 - 3.471 m² với những cụm bè nuôi có khoảng 50 ô lồng (Trần Lưu Khanh, 2005).
Theo kết quả quan trắc năm 2008 của Viện nghiên cứu hải sản, môi trường nước tại khu vực nuôi cá biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng đang bị ô nhiễm Các muối dinh dưỡng như N-NH4+ và P-PO4 3- cùng với vi khuẩn Vibrio đã được phát hiện tại khu nuôi cá lồng bè gần cảng Cát Bà Đặc biệt, nước biển tại Cái Bèo và Tùng Gấu, gần cảng Cát Bà, có dấu hiệu ô nhiễm nghiêm trọng với sự hiện diện của N-NO2-.
Phương pháp quan trắc chất lượng môi trường biển tại Hải Phòng và Quảng Ninh của Viện nghiên cứu NTTS 1 và Viện nghiên cứu Hải sản hiện chỉ dừng lại ở việc mô tả và đánh giá hiện trạng chất lượng nước và trầm tích, chưa thực sự nghiên cứu sâu về tác động của nuôi cò biển đến trầm tích.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp 14
Giám sát môi trường nuôi cá biển của một số quốc gia trên thế giới
Trờn thế giới ủặc biệt ở cỏc quốc gia cú nghề nuụi cỏ biển phỏt triển mạnh như:
Na Uy, Anh, Ireland, Scotland, Canada, Mỹ, Chile, Australia và New Zealand đều có những tiêu chuẩn và phương pháp riêng để quản lý, giám sát và kiểm soát môi trường nuôi cá biển.
Scotland, một phần của Vương quốc Anh, thực hiện chính sách bắt buộc các chủ trại nuôi cá biển tự giám sát môi trường, với sự kiểm tra định kỳ từ cơ quan bảo vệ môi trường (SEPA) Việc giám sát và thu mẫu được điều chỉnh theo tình hình và mức độ nhạy cảm của trại nuôi, nhằm đảm bảo đánh giá thường xuyên SEPA cung cấp hướng dẫn chi tiết về các khía cạnh giám sát môi trường và thiết lập Tiêu chuẩn chất lượng môi trường (EQS) Họ cũng áp dụng mô hình dự đoán đơn giản để đánh giá tác động của hoạt động nuôi trồng đến môi trường.
Bảng 2-3: Phương pháp giám sát môi trường nuôi cá biển tại Anh
Thông số giám sát Phương pháp phân tích đánh giá trực quan
Màu sắc trầm tớch: ủen, nõu hoặc sỏng, xỏm
Tớnh ủồng nhất trầm tớch: cứng, mềm, lỏng
Kết cấu trầm tích: cát, Limon, sét
Sự có mặt của thức ăn, vi khuẩn Beggiatoa
Thế ụxy húa – khử Hai mẫu ủược thu và ủo trực tiếp thế ụxy húa –Khử tại hiện trường (lớp trầm tích bề mặt khoảng 1cm)
Carbon hữu cơ 50g mẫu ủược thu trong khoảng 2cm lớp trầm tớch bề mặt
Mẫu ủược thu được từ lớp trầm tích bề mặt có độ dày 20cm, chứa 100g phõn tớch thành phần cơ học Động vật ủỏy trong mẫu trầm tích đã được lọc qua sàng với kích thước mắt lưới 1mm và cố định bằng formalin.
Giám sát môi tr ườ ng n ướ c
Giám sát môi trường nước tập trung vào các yếu tố như mức độ dinh dưỡng, oxy hòa tan, thuốc và hóa chất Các tần số và mức độ chi tiết có liên quan trực tiếp đến sinh khối cỏ và sự nhạy cảm của môi trường tiếp nhận, đồng thời cũng liên quan đến thời gian xả các nguồn nước.
Giám sát môi tr ườ ng tr ầ m tích
Thời gian giám sát môi trường trầm tích thường kéo dài một tháng, diễn ra trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, khi sinh khối của trại nuôi đạt cao nhất Ngoài ra, cần thực hiện các cuộc điều tra cơ bản trước khi xây dựng trại nuôi Tất cả các vị trí sẽ được ghi chép và cố định cho các lần thu mẫu Sử dụng gầu thu mẫu có diện tích tối thiểu 0,02m² với năm lần lặp để phân tích động vật và hai lần lặp cho phân tích các thông số hóa học.
Giám sát môi trường nuôi cá biển tại Ireland bao gồm việc báo cáo môi trường và các hoạt động sản xuất của các trại nuôi, được thực hiện bởi chính các chủ trại Đồng thời, một phần đánh giá độc lập cũng được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu biển.
Giỏm sỏt mụi trường trong nuụi cỏ biển ủược thực hiện bởi một số cỏc phương pháp:
Môi trường nước được phân tích hàng tháng từ tháng mười hai đến tháng ba hàng năm Mẫu nước được thu ngay dưới lồng nuôi và khu vực cách xa lồng nuôi Các chỉ tiêu được phân tích bao gồm độ nhiệt độ, độ mặn, ammonia, nitrat, nitrit và phốt phát.
• Mẫu ủỏy ủược thu trong vũng 30 ngày, thời gian sinh khối cao ủiểm của trại nuôi
Tất cả các vị trí trong trại nuôi được so sánh với điều kiện trầm tích tại các vị trí cách xa trại nuôi Chương trình này được áp dụng để đánh giá việc tuân thủ các quy định trong giấy phép hoạt động.
Viện nghiên cứu biển thực hiện kiểm tra định kỳ mức độ ảnh hưởng của rận cỏ trên toàn quốc theo quy định Mỗi trại nuôi cỏ đều phải trải qua 14 lần kiểm tra rận cỏ trong một năm.
Bảng 2-4 trình bày phương pháp giám sát môi trường nuôi cá biển tại Ireland, bao gồm việc thu mẫu và phân tích tần suất rận có mặt trên cơ thể cá Số lượng rận được ghi nhận là 30 con trên một cá nuôi, được thu thập từ 2 lồng nuôi ngẫu nhiên.
Trong năm, việc lấy mẫu nước Cỏcủiểm được thực hiện 14 lần, với hai lần trong tháng ba, tháng tư và tháng năm Chất lượng nước được kiểm tra theo hướng dẫn của viện nghiên cứu biển, với sai số cho điểm lấy mẫu là ± 0,5m.
Nhiệt ủộ Ammonia Nitrite Nitrate Phốt phỏt ðộ mặn
Mẫu nước ủ được thu bờn cạnh lồng nuôi ở các tầng mặt, giữa và cống ủy biển khoảng 1,0m Việc thu mẫu diễn ra hàng tháng, bắt đầu từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau Mẫu ủy được lấy tại các điểm cách nhau ±10m, ±20m, ±50m, ±100m dọc theo hai mặt cắt vuông góc ở lồng nuôi, cùng với một điểm chứng cách xa khu vực lồng nuôi 500m.
Sự xuất hiện của sinh khối vi khuẩn, thức ăn thừa, rác thải, bọt khí, khu vực thiếu oxy, động vật chết, tảo lớn, màu sắc trầm tĩnh và thành phần cơ học là những yếu tố quan trọng trong môi trường nước Việc quay video hoặc chụp ảnh dưới nước được thực hiện bởi thợ lặn chuyên nghiệp nhằm ghi lại những quan sát này.
Hằng năm, vào thời điểm sinh khối của trại nuôi cỏ lớn nhất hoặc trong vòng 30 ngày sau khi thu hoạch, việc báo cáo sẽ được thực hiện vào cuối tháng 11 Mức độ 2 yêu cầu phải có các số liệu về thế úxi húa – khử Ngoài những công việc trên, tối thiểu cần phải có 3 số liệu thế úxi húa – khử tại mỗi điểm thu mẫu Mức độ 3 yêu cầu mức độ 2 cộng với động vật có kích thước trên 1mm.
Xỏcủịnh số lượng và thành phần loài (Nguồn: Wilson và Black, 2009)
Giám sát môi tr ườ ng n ướ c
Mụi trường nước cũng ủược giỏm sỏt bởi Viện nghiờn cứu biển, tuy nhiờn ủa số cỏc giỏm sỏt cú liờn quan ủến ủộng vật thõn mềm
Giỏm sỏt tỏc ủộ ng n ề n ủ ỏy
Chương trình giám sát môi trường trầm tích được thực hiện bởi Cơ quan Bảo vệ môi trường Scotland thuộc Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland Chương trình này bao gồm ba cấp độ nhằm đánh giá tác động của nuôi cỏ biển đến môi trường.
Phương pháp giám sát môi trường (MOM)
Na Uy đã phát triển hệ thống giám sát môi trường nuôi cá biển trong nhiều năm qua Hệ thống MOM được thiết kế để theo dõi tác động đến môi trường của hoạt động nuôi cá biển, đảm bảo điều kiện nuôi tốt nhất cho cá nuôi và đồng thời ngăn ngừa ô nhiễm môi trường.
Dựa trên tiêu chí bảo vệ môi trường nuôi cá biển, MOM đã ghi nhận ba mức độ khai thác vùng nước, mỗi mức đều tương ứng với một mức độ quan trắc cụ thể Việc khai thác vượt quá mức độ 3 sẽ dẫn đến tình trạng suy thoái, ảnh hưởng đến hệ động vật dưới đáy và làm tổn hại đến trại nuôi.
Năm 2000 MOM ủó ủược chuẩn húa thành tiờu chuẩn quốc gia của Na Uy (Norwegian Standard – NS 9410 (E) - Environmental monitoring of fish farms) Năm
2008 tiờu chuẩn này ủó ủược nõng cấp sửa ủổi thành tiờu chuẩn quốc tế - ISO (ISO/TC 234 N028: Environmental monitoring of marine fish farms)
Việc lựa chọn phương pháp MOM để đánh giá tác động của nuôi biển đến môi trường sinh thái trong nghiên cứu này dựa trên các yếu tố thuận lợi như tính chính xác, khả năng phân tích sâu và sự phù hợp với đặc thù của hệ sinh thái biển.
Na Uy là nước ủi ủầu trờn thế giới về nuụi cỏ biển
Phương phỏp MOM dễ ỏp dụng và phự hợp với ủiều kiện của Việt Nam
Phương phỏp ủỏnh giỏ nhanh, phự hợp với mục ủớch cảnh bỏo kịp thời
MOM gồm 3 hợp phần chính (Hình 2-7): o Mụ hỡnh, mụ phỏng cỏc tỏc ủộng (Mụ hỡnh, mụ phỏng)
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cung cấp chương trình thạc sĩ khoa học nông nghiệp, trong đó bao gồm việc giám sát các tác động môi trường thông qua chương trình quan trắc Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn chất lượng môi trường (Environmental Quality Standards - EQS) được thiết lập để xác định giới hạn cho phép nhằm bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng.
Ba yếu tố liên kết chính gồm: Mức độ khai thác và mức độ quan trắc cần được điều chỉnh phù hợp với tác động môi trường lên vùng nuôi.
Mụ hỡnh, mụ ph ỏ ng cỏc tỏc ủộ ng là phần mềm chuyên dụng giúp các chuyên gia nghiên cứu và phát triển đánh giá tác động môi trường của nuôi cá biển Các mô hình của MOM bao gồm nhiều tiểu mô hình khác nhau.
Tiểu mụ hỡnh thải lượng: ðõy là một mụ hỡnh dựng ủể ước lượng ủiểm tới hạn vật chất hữu cơ thải ra dưới trang trại nuôi cá
Tiểu mô hình Fjord được sử dụng để ước lượng sức tải của các trang trại nằm trong các vịnh hẹp, đồng thời xác định ngưỡng của lưu vực Khu vực miền tây Na Uy nổi bật với nhiều vịnh hẹp, có đặc điểm nông và dài, trong đó Fjord bao gồm nhiều nhánh nhỏ kết hợp tạo thành một lưu vực rộng lớn.
Tiểu mô hình chất lượng nước: Ước lượng chất lượng nước trong các trang trại nuôi cá
Cỏc mụ hỡnh mụ phỏng này cú thể ủược thực hiện trước khi xõy dựng trại nuụi cá biển hoặc trong quá trình vận hành trại nuôi
Nguồn: Ervik và cộng sự (1997)
Hỡnh 2-7: Sơ ủồ hệ thống MOM
Các trang trại dự kiến xây dựng
Các trang trại ủang hoạt ủộng
Tiêu chuẩn chất lượng môi trường
Mức ủộ khai thác (Degree of exploitation)
Mức ủộ quan trắc (Level of serveillance)
Tiêu chuẩn chất lượng môi trường là những ngưỡng giá trị quy định cho các tác động môi trường đối với nuôi cỏ biển, được xác định trong bộ thông số cụ thể.
(3) Ch ươ ng trỡnh quan tr ắ c ủược mụ tả túm tắt như sau:
Chương trình quan trắc là phần quan trọng trong nghiên cứu của báo cáo này, bao gồm ba loại điều tra: A, B, và C, được điều chỉnh theo mức độ nghiêm trọng của tác động đến môi trường Trong nghiên cứu về tác động của nuôi cá biển đến môi trường, chúng tôi áp dụng chương trình điều tra dạng B để đánh giá, vì điều tra dạng A là công việc đơn giản và tốn nhiều thời gian, còn điều tra dạng C là nghiên cứu sâu về thành phần động vật hoang dã, nằm ngoài khả năng của nghiên cứu này.
Bảng 2-8: Phõn vựng chịu tỏc ủộng và chương trỡnh giỏm sỏt của MOM
Khu vực ngay bên dưới trại nuôi Khu vực trung gian xung quanh trại nuôi Khu vực ngoài vùng nuôi
Mô tả Khu vực bên dưới trại nuôi, nơi thức ăn thừa ủược tớch lũy tập trung Vùng này khoảng 5-15 m từ trại nuôi
Ngoài khu vực chịu tác động, nơi nền nuôi lắng đọng, có các mảnh thức ăn thừa, phân cá và các chất lơ lửng khác từ nền nuôi Bán kính của vùng này thường dao động từ 100-150 mét so với khu vực tác động dưới trại nuôi.
Khu vực nằm ngoài khu vực tác ủộng xung quanh trại nuôi
Nguồn tác ủộng ðiều kiện môi trường chịu tỏc ủộng chủ yếu bởi cỏc hoạt ủộng của trại nuôi
Cỏc hoạt ủộng của trại nuụi là nguồn tỏc ủộng cơ bản, nhưng cỏc hoạt ủộng khỏc cũng cú thể ủúng vai trũ quan trọng
Tỏc ủộng từ trại nuôi chỉ là một trong số các tác ủộng
Làm biến ủổi thành phần hữu cơ, pH, Eh, vi khuẩn, khu hệ ủộng vật ủỏy của, giảm ôxy hòa tan và tăng amoniac trong nước
Cỏc thay ủổi nhỏ về pH, Eh và khu hệ ủộng vật ủỏy
Tăng sức sản xuất sơ cấp và tiêu thụ oxy trong tầng nước sâu Tác ủộng phụ thuộc vào tính chất của vực nước xung quanh
Giám sát môi trường ðiều tra dạng A, B và
C ðiều tra dạng C ðiều tra dạng C kèm với quan trắc môi trường ven biển, bao gồm cả ủo hàm lượng Oxy
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp 26
Chương trình quan trắc liên quan đến các điều kiện trầm tích dưới trại nuôi, khu vực xung quanh và phản ánh những thay đổi do tích lũy chất hữu cơ thải ra Những thay đổi này bao gồm sự biến đổi của các điều kiện hóa học trong lớp trầm tích, cùng với sự thay đổi về loài và số lượng động vật sống dưới bề mặt.
Hệ thống MOM phân chia các vùng chịu tác động trong nuôi tôm biển thành ba khu vực: khu vực ngay bên dưới trại nuôi, khu vực trung gian xung quanh trại nuôi và khu vực ngoài vùng nuôi.
2.4.2 Ch ươ ng trình giám sát (quan tr ắ c) c ủ a MOM ð i ề u tra d ạ ng A ðo lượng trầm tớch lắng xuống ủỏy biển ngay phớa dưới trại nuụi Cụng việc thực hiện khỏ ủơn giản, nhưng hiệu quả hạn chế Với việc lặp lại hoạt ủộng ủo trong một thời kỳ, nú cú thể cung cấp thụng tin về mức ủộ lắng ủọng trầm tớch bờn dưới trang trại và những thông tin về lượng ăn quá mức Tiêu chuẩn môi trường không ủược sử dụng trong ủiều tra dạng A ð i ề u tra d ạ ng C
Nghiên cứu về thành phần loài động vật ủ bón trong lớp trầm tích cho thấy rằng động vật ủ bón sống dưới bề mặt trầm tích rất nhạy cảm với chất hữu cơ thải ra Cấu trúc của hệ động vật ủ bón phản ánh mối liên hệ mật thiết với chất thải từ trại nuôi Do đó, việc nghiên cứu sinh vật ủ bón và ủang là một trong những phương pháp chính được sử dụng để quản lý sự phát thải chất hữu cơ từ các trại nuôi cỏ.
Nghiên cứu này nhằm mục đích nắm bắt sự thay đổi dài hạn liên quan đến trang trại nuôi cá và các khu vực tiếp nhận Nó đặc biệt nhạy cảm với việc thải chất hữu cơ từ mức thấp đến trung bình Thông thường, điều tra dạng C được tiến hành trước khi các trại nuôi cá bắt đầu hoạt động, trong khi điều tra dạng B cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.