Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường quan hệ hợp tác giữa hộ nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ chè tại tỉnh Thái Nguyên là cần thiết để phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chè Việc này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản phẩm chè mà còn tạo ra sự bền vững trong chuỗi cung ứng, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 3
Mục tiêu cụ thể
Bài viết này nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến hợp tác, kinh tế hợp tác và hợp tác xã, từ đó áp dụng những lý thuyết này vào thực tiễn sản xuất và tiêu thụ chè.
Trong những năm gần đây, mối quan hệ hợp tác kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ chè tại tỉnh Thái Nguyên đã có những thay đổi đáng kể Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều nguyên nhân hạn chế sự phát triển của các quan hệ hợp tác này, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và tiêu thụ chè Việc đánh giá thực trạng các mối quan hệ hợp tác kinh tế là cần thiết để xác định rõ những yếu tố cản trở và đề xuất giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành chè trong khu vực.
Để tăng cường và phát triển quy hoạch hợp tác xã (QHHT) trong sản xuất và tiêu thụ chè, cần triển khai một số giải pháp chủ yếu Những giải pháp này nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè tại vùng chè trọng điểm của tỉnh Thái Nguyên Các biện pháp bao gồm cải tiến quy trình sản xuất, tăng cường liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, và đẩy mạnh marketing sản phẩm chè Thực hiện các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao giá trị sản phẩm chè, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành chè địa phương.
3 Những đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học của việc tăng c−ờng QHHT trong sản xuất, tiêu thụ chè
Trong sản xuất và tiêu thụ chè, các hộ nông dân cần xác định các mối quan hệ hợp tác quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh tế Mối quan hệ tương quan giữa các hình thức hợp tác này và thu nhập của hộ nông dân sản xuất chè là rất đáng chú ý Bên cạnh đó, cần xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến các mối quan hệ hợp tác, đồng thời lượng hóa mức độ tác động của những nhân tố này đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ chè tại vùng chè trọng điểm tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất các giải pháp tăng c−ờng QHHT trong sản xuất, tiêu thụ chè ở vùng chè trọng điểm tỉnh Thái Nguyên
4 Đối t−ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối t−ợng nghiên cứu
Các vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ hợp tác (QHHT) trong sản xuất nông nghiệp bao gồm hợp tác, kinh tế hợp tác (KTHT), và liên kết kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất chè Mối quan hệ kinh tế giữa hộ nông dân và các đơn vị tham gia sản xuất, tiêu thụ chè, cũng như các cơ quan chức năng Nhà nước tại vùng chè trọng điểm tỉnh Thái Nguyên, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững ngành chè.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 4
Lý luận về quan hệ hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ chè
Khái niệm về quan hệ hợp tác
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2008, "quan hệ" được định nghĩa là trạng thái tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật Trong bối cảnh này, QHHT (quan hệ hỗ trợ lẫn nhau) đề cập đến mối quan hệ giữa con người với con người, nơi mọi người cùng chung sức giúp đỡ nhau để thực hiện một hoạt động vì mục tiêu chung.
QHHT trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong ngành chè, là mối quan hệ hợp tác giữa con người nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động sản xuất với mục tiêu chung và mục tiêu riêng của từng thành viên Nội dung của QHHT bao gồm các hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế, thể hiện qua việc hình thành các tổ chức từ đơn giản đến phức tạp, từ nhóm không chính thức đến tổ chức có cấu trúc quản trị rõ ràng Trong xã hội hiện đại, tổ chức đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực, và được xem là nguồn sức mạnh của xã hội Do đó, trong sản xuất nông nghiệp, việc hình thành các tổ chức là cần thiết để phát huy sức mạnh tập thể và cạnh tranh hiệu quả trên thị trường.
Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các tổ chức, cần phải hiểu rõ vai trò của từng cá nhân và sự hợp tác giữa họ Tổ chức cần được xem xét trong một hệ thống, với mối liên hệ giữa các cá nhân và các thành phần trong hệ thống, cũng như giữa các hệ thống khác nhau Tại Việt Nam, hộ nông dân được xem là đơn vị kinh tế tự chủ, nhưng thường có quy mô sản xuất nhỏ lẻ Do đó, việc phát triển kinh tế hộ nông dân cần tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các hộ và với các tổ chức kinh tế khác Để làm điều này, cần hiểu rõ về hợp tác, kinh tế hợp tác và các tổ chức hỗ trợ nông dân.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với sự tiến bộ của lực lượng sản xuất và các quan hệ sản xuất tương ứng Sự hợp tác giữa con người không chỉ phục vụ cho nhu cầu sản xuất mà còn đáp ứng nhu cầu sống, tạo sự hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau C.Mác đã phân tích quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản qua ba giai đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, phản ánh sự tiến bộ tuần tự của lực lượng sản xuất và các quan hệ sản xuất phù hợp.
Theo Từ điển Tiếng Việt (1992), hợp tác là hoạt động có mục tiêu, trong đó các bên cùng nhau hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong một lĩnh vực hoặc công việc nhất định nhằm đạt được mục đích chung Hợp tác thể hiện sự cộng tác và phối hợp để thực hiện công việc vì lợi ích chung.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 7
Hợp tác là sự kết hợp sức lực giữa các cá nhân hoặc đơn vị nhằm tạo ra sức mạnh lớn hơn Qua đó, việc thực hiện các công việc sẽ trở nên dễ dàng hơn, vì nếu hoạt động riêng lẻ, mỗi cá nhân hoặc đơn vị sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể hoàn thành nhiệm vụ hoặc hiệu quả sẽ thấp hơn so với khi hợp tác.
Hợp tác là hoạt động phổ biến trong đời sống hàng ngày, từ những công việc đơn giản đến phức tạp, bao gồm cả việc khiêng vật nặng và nghiên cứu khoa học Tính cộng đồng và xã hội của con người thúc đẩy sự hợp tác trong lao động sản xuất, tổ chức đời sống gia đình và xã hội Nhiều công việc có thể thực hiện một mình nhưng vẫn cần sự hỗ trợ từ người khác, trong khi một số công việc bắt buộc phải có sự cộng tác mới có thể hoàn thành Để làm rõ khái niệm hợp tác, cuốn "Danh từ Kinh tế" đã đưa ra hai định nghĩa về hợp tác lao động và hợp tác giản đơn.
Hợp tác lao động là hình thức tổ chức lao động xã hội, trong đó nhiều người cùng tham gia vào một hoặc nhiều quá trình lao động khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ trong quá trình sản xuất.
"Hợp tác giản đơn" là hình thức tổ chức lao động tập thể, trong đó tất cả người lao động cùng tham gia thực hiện các thao tác giống nhau để hoàn thành một loại công việc chung.
Hợp tác được biểu hiện rõ nét qua sự liên kết, đòi hỏi một không gian và thời gian nhất định để phát huy sức mạnh của mối quan hệ này.
Hoạt động hợp tác của con người rất phong phú và đa dạng, phản ánh nhu cầu sản xuất và yêu cầu của cuộc sống Sự hợp tác này không chỉ cần thiết cho sự phát triển kinh tế mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hợp tác trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp là một yếu tố quan trọng giúp con người tồn tại và phát triển Bên cạnh tính độc lập, hoạt động lao động của con người mang tính cộng đồng và xã hội, bắt nguồn từ những ngày đầu của nền văn minh khi con người đã biết hợp tác trong săn bắt và hái lượm Qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, sự hợp tác ngày càng phát triển về trình độ và hình thức Theo C Mác và F Ăngghen, con người không thể sản xuất nếu không kết hợp với nhau để thực hiện các hoạt động chung và trao đổi Do đó, hợp tác trở thành một nhu cầu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực lao động sản xuất.
Lịch sử phát triển của xQ hội loài người gắn liền với sự tiến bộ của lực lượng sản xuất và mối quan hệ sản xuất tương ứng.
Tư liệu sản xuất và người lao động có kinh nghiệm tạo thành lực lượng sản xuất, trong đó quan hệ sản xuất phản ánh mối liên hệ giữa con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội Hợp tác là một hình thức phân công lao động xã hội, nơi người lao động cùng tham gia vào các quá trình sản xuất khác nhau, hỗ trợ lẫn nhau để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và đạt được mục tiêu chung.
V.I Lênin nhấn mạnh rằng hợp tác không chỉ tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (HTX) mà còn có nhiều hình thức khác nhau, dựa trên những tư tưởng của C Mác và F Ăngghen về hợp tác hoá Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc đa dạng hoá các mô hình hợp tác để phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội.
Quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ chè
QHHT trong sản xuất và tiêu thụ chè là sự hợp tác giữa các đơn vị sản xuất chè và các tổ chức kinh tế xã hội khác nhằm tối ưu hóa lợi ích chung Qua việc liên kết trong mua sắm nguyên liệu, tạo vốn, trao đổi lao động và dịch vụ kỹ thuật, các đơn vị này nâng cao hiệu quả trong trồng, chăm sóc, thu hái, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời xây dựng thương hiệu mạnh mẽ.
Để hoạt động sản xuất hiệu quả, các doanh nghiệp chế biến chè cần thiết lập mối quan hệ hợp tác với nhau, nhằm trao đổi và tối ưu hóa kết quả lao động Mặc dù nhiều doanh nghiệp sở hữu công nghệ hiện đại và vốn đầu tư lớn, nhưng họ thường không kiểm soát được nguồn nguyên liệu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt chè nguyên liệu cần thiết cho quá trình chế biến Ngược lại, các hộ nông dân lại là những người sản xuất chè, tạo ra nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghiệp này.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nhấn mạnh rằng ngành chè đang đối mặt với nhiều khó khăn như manh mún, thiếu vốn và công nghệ chế biến lạc hậu Để nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ, việc hợp tác giữa các hộ nông dân, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế là điều cần thiết Mối quan hệ hợp tác này giúp khắc phục những điểm yếu trong hoạt động sản xuất đơn lẻ, đồng thời phát huy sức mạnh tập thể và tiết kiệm chi phí Để phát triển bền vững, ngành chè cần tổ chức thành hệ thống doanh nghiệp có sự quản lý từ Nhà nước, đồng thời khuyến khích các hộ nông dân và doanh nghiệp chủ động hợp tác qua hiệp hội để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Các quy trình hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ chè được thực hiện bởi các đơn vị liên quan, trong đó các hộ nông dân đóng vai trò chủ chốt, có thể được tóm tắt qua sơ đồ dưới đây.
Sơ đồ 1.1 minh họa mối quan hệ hợp tác trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh chè Để thực hiện hiệu quả các khâu này, các hộ nông dân cần thiết lập mối quan hệ hợp tác không chỉ với nhau mà còn với các tổ chức kinh tế và xã hội.
Hợp tác thực hiện các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật, thông tin thị tr−ờng
Trồng Chăm sóc Thu hái Chế biến Tiêu thô
Các doanh nghiệp Các hộ nông d©n SX chÌ
Nhà n−ớc, tổ chức xQ hội
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đang nghiên cứu về vai trò của các hội trong việc mua sắm yếu tố đầu vào, tín dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật và trao đổi thông tin thị trường Mục tiêu là tiết kiệm chi phí, phát huy sức mạnh tập thể, hình thành vùng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh doanh, và phát triển kinh tế hộ cũng như lợi thế của địa phương.
Vai trò của quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ chè
QHHT đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế thị trường Nó giúp các hộ nông dân thực hiện những công việc mà cá nhân hoặc từng nông hộ không thể làm hiệu quả, từ đó nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm chi phí đầu tư cho sản xuất kinh doanh Bên cạnh đó, QHHT còn huy động được nhiều vốn và nhân lực, giúp kiểm soát thiên tai, địch họa, và đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh.
QHHT đóng vai trò quan trọng trong việc chuyên môn hóa và tập trung hóa các ngành sản xuất và dịch vụ, đồng thời thúc đẩy sự phát triển hợp lý và thâm canh khoa học Nó giúp phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước, đảm bảo sự cân bằng và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Nền kinh tế Việt Nam được chia thành ba khu vực chính: khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Trong đó, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước bao gồm các thành phần kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân Kinh tế cá thể đóng vai trò quan trọng, với một lực lượng lao động lớn tham gia, thường do các yếu tố khách quan và chủ quan khiến họ không thể cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, do đó họ tự tổ chức kinh doanh.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nghiên cứu các hình thức kinh tế hộ gia đình và cá thể nhỏ lẻ, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi Sự hợp tác này giúp các hộ gia đình và cá nhân sản xuất, cung cấp dịch vụ với chi phí thấp hơn, chất lượng phù hợp với nhu cầu, từ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam cho thấy vai trò của các khu vực kinh tế có sự thay đổi qua từng thời kỳ, nhưng kinh tế cá thể và tiểu chủ vẫn giữ vị trí quan trọng, đặc biệt ở nông thôn với khoảng 38 triệu lao động, chiếm 73.4% Đa số là hộ nông dân tự chủ, với nhiều người còn nghèo và chưa có tích lũy, gặp khó khăn trong phát triển và dễ bị tổn thương trước biến động thị trường Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế, họ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước và tư nhân, gia tăng rủi ro và có thể rơi vào khó khăn Do đó, họ rất cần sự hỗ trợ từ Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội, đặc biệt là trong việc liên kết thành cộng đồng để cùng có lợi Các hình thức hợp tác và hợp tác xã có thể được coi là cầu nối giúp người lao động và sản xuất nhỏ hòa nhập vào sự phát triển chung của xã hội.
QHHT giữa các hộ nông dân trong sản xuất và tiêu thụ chè thể hiện mối quan hệ hợp tác kinh tế, với bản chất là kinh tế hợp tác Theo Nguyễn Đức Thịnh (2001), vai trò của kinh tế hợp tác trong sản xuất của hộ tiểu nông và tự cung tự cấp là rất mờ nhạt Tuy nhiên, đối với các trang trại hoạt động trong lĩnh vực quan hệ hàng hóa và thị trường, hợp tác trở thành một yêu cầu thiết yếu.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nhấn mạnh rằng trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu hợp tác giữa các hộ nông dân sản xuất hàng hóa, đặc biệt là các hộ sản xuất chè, là một yếu tố cần thiết và không thể thiếu.
Các mối quan hệ hợp tác chủ yếu trong sản xuất và tiêu thụ chè và lợi ích của nó đ−ợc thể hiện trong sơ đồ 1.2
Sơ đồ 1.2 minh họa các mối quan hệ hợp tác (QHHT) và lợi ích của chúng trong sản xuất và tiêu thụ chè Lợi ích kinh tế từ các mối QHHT đóng vai trò quyết định trong sự phát triển bền vững của ngành chè Những lợi ích này giống như rễ cây, cung cấp nền tảng vững chắc cho các mối quan hệ hợp tác giữa các hộ sản xuất.
Hình thành vùng sản xuất hàng hoá
Tiêu thụ theo nhãm hé
Hợp tác trong thu hái, chế biến
Hợp tác trong trồng, chăm sóc
Hợp tác trong mua sắm vật t−
Sử dụng chung th−ơng hiệu
Trao đổi kinh nghiệm, bÝ quyÕt KD
Hợp tác trong huy động vốn Hợp tác trong chuyÓn giao KHCN
Hợp tác trong mua sắm máy móc, thiết bị Trao đổi thông tin thị tr−ờng
Tiết kiệm chi phÝ T¨ng c−êng khả năng cạnh tranh
Nâng cao hiệu quả KD, tăng thu nhËp
Phát huy lợi thế của địa phương
Phát triển kinh tế đất nước
Phát huy sức mạnh tập thể
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đang nghiên cứu mối liên hệ giữa cây chè và các tổ chức kinh tế, xã hội Nếu rễ cây chắc khỏe và hấp thụ đủ dinh dưỡng, cành cây sẽ phát triển xanh tốt Ngược lại, nếu rễ không hút được nhiều dinh dưỡng, cành cây sẽ không phát triển hiệu quả.
Thực tiễn sản xuất và tiêu thụ chè cho thấy các hộ nông dân hiện đang thực hiện nhiều mối quan hệ hợp tác, nhưng chúng còn khá thụ động và không bền vững Các hình thức hợp tác chủ yếu mang tính tự phát, rời rạc và thiếu tính hệ thống, thường chỉ diễn ra trong phạm vi nhóm hộ nhỏ Trong khi đó, hợp tác xã (HTX) là hình thức thể hiện sự phát triển cao của các mối quan hệ hợp tác trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất và tiêu thụ chè Do đó, việc nhận dạng và đánh giá các mối quan hệ hợp tác, cũng như những lợi ích thực sự từ chúng giữa các hộ nông dân và các tổ chức kinh tế xã hội khác, là cơ sở quan trọng để tăng cường phát triển các mối quan hệ hợp tác này.
Các tổ chức kinh tế hợp tác (KTHT) và hợp tác xã (HTX) đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa KTHT giúp người lao động thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế hiện đại, tạo điều kiện cho họ tiếp cận thị trường với tư cách là một tổ chức kinh tế Để phát triển bền vững, KTHT và HTX cần cải thiện chất lượng lao động, khuyến khích sự tham gia của những người có tri thức, vốn và kinh nghiệm kinh doanh, đồng thời áp dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, từ đó đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 20
Đặc điểm, nội dung và ph−ơng thức quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ chè
Chè là cây trồng có giá trị thương mại cao, với hơn 95% sản phẩm được sản xuất để bán Trong quá trình sản xuất và tiêu thụ, các hộ nông dân chè thiết lập nhiều mối quan hệ hợp tác với nhau và với các tác nhân khác trong ngành Mối quan hệ này diễn ra ở tất cả các khâu, từ sản xuất đến tiêu thụ Các hộ sản xuất chè có sự phân công lao động rõ ràng, không chỉ trong nội bộ ngành mà còn giữa các hộ, thể hiện sự hợp tác và phân công lao động theo chiều ngang và chiều dọc.
Sự phân công và hợp tác trong ngành chè chủ yếu thể hiện qua các hộ sản xuất chuyên chè, trong khi việc trồng cây khác và chăn nuôi chỉ đóng góp một phần nhỏ vào thu nhập Các hộ thường hình thành tổ, nhóm để hỗ trợ nhau trong chăm sóc và thu hái, nhưng sự hợp tác theo chiều dọc còn hạn chế, đặc biệt trong khâu tiêu thụ và xây dựng thương hiệu Hiện tại, các hoạt động sản xuất và tiêu thụ chè vẫn mang tính tự phát, nhỏ lẻ và thiếu bền vững Do đó, cần tăng cường hợp tác theo hướng chuyên môn hóa các khâu và dịch vụ trong quá trình sản xuất và chế biến chè.
Nội dung của các mối quan hệ hợp tác trong ngành chè bao gồm việc trao đổi công lao động, dịch vụ và kinh nghiệm, nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè Điều này giúp tiết kiệm chi phí sản xuất, phát huy sức mạnh tập thể và nâng cao hiệu quả kinh doanh, đồng thời cải thiện khả năng cạnh tranh của các hộ trong nền kinh tế thị trường Cụ thể, các hoạt động trao đổi bao gồm công lao động trong trồng, chăm sóc và thu hái chè, cũng như việc chia sẻ kinh nghiệm và thông tin trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ, cùng với việc cung ứng các dịch vụ kinh tế và kỹ thuật như tín dụng.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đang tiến hành nghiên cứu về chuyển giao công nghệ và hợp tác trong sản xuất nông nghiệp Nghiên cứu này nhấn mạnh việc sử dụng chung công cụ và máy móc trong quá trình tưới tiêu và chế biến, cũng như việc hợp tác tiêu thụ sản phẩm dựa trên uy tín của các hộ gia đình, nhóm hộ hoặc hợp tác xã.
Phương thức QHHT trong sản xuất và tiêu thụ chè bao gồm hợp tác dựa trên quan hệ cộng đồng, sự tin tưởng lẫn nhau và ký kết hợp đồng Hợp tác dựa trên quan hệ cộng đồng diễn ra giữa các hộ nông dân, giúp họ trao đổi kinh nghiệm, mua sắm vật tư, vay vốn và sử dụng chung công cụ lao động Hợp tác dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau được thực hiện giữa các hộ nông dân và các trung gian như người thu gom, tiểu thương hoặc doanh nghiệp chế biến, nhằm mua vật tư hoặc bán sản phẩm chè búp tươi và chè khô Cuối cùng, ký kết hợp đồng thường được thực hiện giữa các hộ nông dân để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ chè.
Các nhân tố ảnh h−ởng tới quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thô chÌ
Nhóm nhân tố hỗ trợ từ Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội như Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, và Liên minh HTX Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể Sự tác động của các nhóm này chủ yếu thông qua các chính sách vĩ mô và chỉ đạo thực hiện từ cấp trung ương đến cơ sở Nghị quyết Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh rằng kinh tế tập thể cần phát triển đa dạng hình thức hợp tác, trong đó hợp tác xã (HTX) là nòng cốt, nhằm tăng cường sự hợp tác và hình thành tổ chức cho các hộ nông dân.
Kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đang ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân Tại Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, đã thông qua 5 nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện hệ thống chính trị và xây dựng Đảng, đồng thời khẳng định rằng Đảng cần chủ động tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ sự phát triển của kinh tế tập thể và hợp tác xã (HTX).
Sự phát triển của các mối quan hệ hợp tác xã (QHHT) và các loại hình hợp tác phụ thuộc nhiều vào các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, bao gồm đất đai, thuế, đổi mới công nghệ và đầu tư cơ sở hạ tầng Những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các mối quan hệ và loại hình kinh tế hợp tác (KTHT) trong bối cảnh chúng vẫn còn yếu về kinh nghiệm, trình độ và khả năng tài chính.
1.1.5.2 Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế - x7 hội
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, buộc nông dân phải chấp nhận cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Để nâng cao khả năng cạnh tranh, nông dân hợp tác trong các khâu sản xuất từ mua sắm, chăm sóc, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ Mối quan hệ hợp tác giữa họ và các tổ chức kinh tế xã hội khác chịu ảnh hưởng lớn từ các yếu tố tự nhiên, kinh tế và xã hội Khi cần khắc phục các yếu tố môi trường tác động đến mục tiêu sản xuất, nhu cầu hợp tác sẽ gia tăng.
Mối quan hệ giữa sản xuất nông nghiệp và các yếu tố tự nhiên như địa hình, thời tiết khí hậu có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành chè ở mỗi vùng lãnh thổ Mỗi khu vực có đặc điểm riêng về trình độ phát triển nông nghiệp, dân trí, tập quán canh tác và điều kiện tự nhiên Ví dụ, Thái Nguyên, tỉnh trung du miền núi, nổi bật với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thuận lợi, là một trong những vùng trồng chè hàng đầu của cả nước, tạo ra sản phẩm chè chất lượng cao.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã nghiên cứu về sản phẩm chè xanh nổi tiếng của Thái Nguyên, nơi có hương thơm và vị đượm đặc trưng Nông dân tại đây đã tích lũy kinh nghiệm trong sản xuất và chế biến để tạo ra những sản phẩm độc đáo mà các vùng khác không có Đặc điểm tự nhiên của Thái Nguyên đã hình thành nên sự khác biệt về trình độ lao động và tập quán canh tác Các hộ sản xuất chè ở Thái Nguyên không chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp mà còn trực tiếp chế biến, trong khi ở những địa phương khác, nông dân chủ yếu sản xuất chè nguyên liệu để bán cho doanh nghiệp chế biến.
Từ góc độ này, có thể nhận thấy sự khác biệt rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp và mức sống của người dân, đồng thời ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển các mối quan hệ hợp tác và hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là trong sản xuất chè Những yếu tố như truyền thống văn hóa, tâm lý, hướng ước và tập tục cũng đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên những đặc trưng riêng về kinh tế hợp tác ở mỗi vùng.
Những nhân tố chung về hệ thống đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức xã hội, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quan hệ hợp tác (QHHT) và các hình thức hợp tác Sự phát triển của QHHT và kinh tế hợp tác (KTHT) phụ thuộc vào sự hỗ trợ và điều tiết kịp thời từ Chính phủ ở tầm vĩ mô Các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tạo ra sự khác biệt trong phát triển QHHT và các hình thức hợp tác giữa các vùng, địa phương Do đó, việc phát triển QHHT và các hình thức hợp tác cần dựa trên đặc điểm riêng của từng vùng, địa phương và loại cây trồng, vật nuôi, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nông dân trong sản xuất nông sản hàng hóa.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 24
Cơ sở thực tiễn về tăng c−ờng quan hệ hợp tác trong sản xuất và tiêu thô chÌ
Quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ chè của các n−ớc trên thế giới
Sản xuất chè toàn cầu chủ yếu diễn ra ở châu Á, với 7 trong số 10 quốc gia hàng đầu về sản lượng chè, chiếm khoảng 90% tổng sản lượng thế giới Mặc dù diện tích trồng chè không tăng đáng kể, nhưng năng suất đã cải thiện, dẫn đến sự gia tăng sản lượng Kinh nghiệm từ Ấn Độ, Sri Lanka và Trung Quốc - những quốc gia xuất khẩu chè lớn - có thể cung cấp bài học quý giá cho ngành chè Việt Nam, đặc biệt là tỉnh Thái Nguyên Ấn Độ hiện là quốc gia sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu chè lớn nhất, chiếm 27% sản lượng chè toàn cầu, với các vùng chè nổi tiếng như Atxam và Dariling ở phía Bắc, cùng Kerala và Madras ở phía Nam Thị trường trong nước Ấn Độ không chỉ tiêu thụ một lượng lớn chè mà còn yêu cầu chất lượng cao Để nâng cao năng lực cạnh tranh, Chính phủ Ấn Độ đã ban hành Đạo luật Chè năm 1953, quy định kiểm soát trồng chè và thành lập Uỷ ban Chè, một tổ chức phi lợi nhuận không tham gia sản xuất chè nhưng có trách nhiệm quản lý ngành chè.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 25
- Điều tiết việc sản xuất và trồng chè;
- Nâng cao chất l−ợng chè;
- Thúc đẩy những nỗ lực hợp tác giữa những ng−ời trồng chè nguyên liệu và ng−ời chế biến chè;
- Thực hiện, hỗ trợ và khuyến khích nghiên cứu kinh tế, khoa học kỹ thuật trồng và chế biên chè;
- Hỗ trợ việc kiểm soát các loại sâu bệnh có ảnh hưởng đến cây chè;
- Điều tiết việc mua bán và xuất khẩu chè;
- Đ−a ra những tiêu chuẩn về sản phẩm chè;
- Thúc đẩy việc tiêu thụ chè ở ấn Độ và các n−ớc khác
Uỷ ban Chè đQ có nhiệm vụ điều tiết toàn bộ hoạt động liên quan đến phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu chè Uỷ ban tập trung vào quá trình sản xuất chè nguyên liệu, nghiên cứu cây chè và ứng dụng khoa học để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh Đồng thời, các yếu tố giá trị gia tăng như bao bì và lợi ích cho sức khỏe cũng được đưa vào các chương trình nghiên cứu của Uỷ ban nhằm thúc đẩy tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Uỷ ban Chè đã thực hiện 10 chương trình giới thiệu về hệ thống phân tích rủi ro tại điểm tới hạn (HACCP) thông qua các hội thảo trên toàn quốc và phát triển chương trình đào tạo HACCP cho sản phẩm chè Ngành chè Ấn Độ đã quen thuộc với chứng nhận ISO-9000, với nhiều nhà máy chè trong nước đạt chứng nhận này Việc giới thiệu HACCP là bước tiến tiếp theo, bổ sung cho chứng nhận ISO-9000, nhằm nâng cao tiêu chuẩn trong cả quy trình trồng và chế biến chè Nhiều nông trường chè đang tìm kiếm sự hỗ trợ từ Uỷ ban Tiêu chuẩn Ấn Độ (BIS).
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 26
Uỷ ban Tiêu chuẩn Ấn Độ (Bureau of Indian Standards) là cơ quan duy nhất có quyền cấp chứng nhận HACCP và giấy chứng nhận hệ thống chất lượng theo luật Ấn Độ Uỷ ban Chè cũng đảm nhận việc phát triển và bảo hộ thương hiệu chè Darjeeling, nổi tiếng với chất lượng cao trên toàn thế giới Để sử dụng thương hiệu Darjeeling, các tổ chức và cá nhân phải đảm bảo chè có xuất xứ từ vùng Darjeeling và được chế biến theo tiêu chuẩn quy định, với sự chấp thuận của Uỷ ban Chè Hoạt động tiêu thụ chè chủ yếu diễn ra tại các trung tâm đấu giá, hiện Ấn Độ có 7 trung tâm đấu giá chè tại Calcutta, Guwahati, Siliguri, Amristar, Cochin, Coimbatore và Coonoor.
Các hiệp hội trong ngành chè Ấn Độ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm chè Ngành chè bắt đầu từ những công ty tư nhân nhỏ, nhưng hiện nay đã phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của nhiều hiệp hội lớn Những hiệp hội này không chỉ tập trung vào việc phát triển ngành công nghiệp chè mà còn bảo vệ quyền lợi của người lao động trong lĩnh vực này.
- Hiệp hội Chè ấn Độ
- Liên minh những ng−ời trồng chè vùng Nam ấn Độ
- Hiệp hội những ng−ời trồng chè Darjeeling
- Liên minh các hiệp hội những ng−ời kinh doanh chè
- Hiệp hội những ng−ời trồng chè ấn Độ
- Hiệp hội những người đóng gói chè ấn Độ
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 27
Ngành chè Ấn Độ, dưới sự quản lý của Uỷ ban Chè, đã thiết lập mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp trong các khâu trồng, chăm sóc, chế biến và tiêu thụ Điều này thể hiện sự phân công lao động chuyên môn hóa, góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh trong sản xuất chè.
1.2.1.2 Quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ chè ở Sri Lanka
Sri Lanka bắt đầu trồng chè từ năm 1837 - 1840 và phát triển mạnh mẽ từ năm 1867 - 1873, với các vùng sản xuất chè chủ yếu nằm ở miền Trung, miền Tây và Tây Bắc Ngành chè hiện nay đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước, bên cạnh các sản phẩm nổi tiếng khác như xơ dừa và cao su Sri Lanka có 6 vùng sản xuất chè lớn, với tổng diện tích khoảng 190.000 hecta và sản lượng hàng năm đạt khoảng 310.000 tấn, chiếm 10% sản lượng chè toàn cầu Năm 2007, sản lượng chè đạt 304.600 tấn, giảm 2% so với năm 2006.
Xuất khẩu chè hàng năm đóng góp 93 - 95% vào tổng sản lượng chè sản xuất và chiếm 21% tổng lượng chè xuất khẩu toàn cầu Sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất chè chủ yếu được tiêu thụ qua thị trường đấu giá Colombo, một trong những thị trường lớn nhất thế giới, nơi có 5 quốc gia tham gia kinh doanh chè từ 60 quốc gia khác nhau.
Sri Lanka có hai loại người sản xuất chè: nông dân tiểu điền với diện tích trồng chè nhỏ hơn 2 ha, chiếm khoảng 45% tổng diện tích chè cả nước, và các trang trại lớn với diện tích trên 2 ha, chiếm 55%.
Cũng nh− ấn Độ, Chính phủ Sri Lanka thành lập Uỷ ban Chè trực thuộc
Bộ Nông nghiệp, là cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm thúc đẩy và phát triển
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nghiên cứu về ngành chè của Sri Lanka, nơi Uỷ ban Chè có nhiệm vụ chiến lược biến chè Ceylon thành sản phẩm hàng đầu trong ngành đồ uống quốc tế Uỷ ban Chè quản lý thuốc bảo vệ thực vật trên toàn quốc, điều này thể hiện thành công lớn trong nông nghiệp của Sri Lanka Tất cả các đơn vị sản xuất chè đều phải tuân thủ sự quản lý của Uỷ ban và đăng ký kế hoạch sản xuất hàng năm Uỷ ban Chè còn hỗ trợ người trồng, sản xuất và xuất khẩu chè, cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho từng bộ phận trong ngành chè.
• Bé phËn xóc tiÕn chÌ (Tea Promotion Division):
Bộ phận xúc tiến thương mại chè Ceylon chịu trách nhiệm quảng bá sản phẩm cả trong và ngoài nước Các hoạt động xúc tiến được chia thành ba nhóm chính: xúc tiến chung, xúc tiến tại thị trường cụ thể và xúc tiến nhận diện thương hiệu chè Ceylon Dịch vụ của bộ phận này bao gồm các chiến lược và hoạt động nhằm nâng cao giá trị và sự hiện diện của chè Ceylon trên thị trường.
Chúng tôi cung cấp thông tin thị trường cập nhật về chè Ceylon, xuất bản bản tin hai tháng một lần và phát hành các tài liệu xúc tiến cùng sách quảng cáo liên quan.
Chúng tôi hoạt động như một trung tâm xử lý hàng hóa thương mại, hỗ trợ các nhà xuất khẩu địa phương tham gia hội chợ thực phẩm và đồ uống quốc tế Đồng thời, chúng tôi cũng giúp các nhà xuất khẩu địa phương trong việc quảng bá thương hiệu chè của họ.
Chúng tôi hỗ trợ các nhà xuất khẩu địa phương kết nối với khách hàng quốc tế, đồng thời giúp giải quyết tranh chấp giữa nhà xuất khẩu và nhập khẩu chè Ngoài ra, chúng tôi duy trì cửa hàng cung cấp chè Ceylon chất lượng cao và tư vấn cho các nhà xuất khẩu về chiến lược marketing chè trên thị trường nước ngoài.
• Trung tâm thông tin thị tr−ờng (Market Information Center):
- Phổ biến các thông tin liên quan đến chè cho ngành công nghiệp chè trong n−ớc và trên thế giới
- Duy trì trang web của Uỷ ban Chè, xuất bản tin thống kê hàng năm và hàng tháng của Uỷ ban Chè Sri Lanka
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 29
• Phòng thí nghiệm phân tích (Analytical Laboratory)
- Duy trì tiêu chuẩn tối thiểu ISO tại tất cả các điểm bán chè
- Cấp chứng nhận ISO 3720 đối với sản phẩm chè
• Bộ phận thử chè (Tea tasting Unit):
- Cấp quyền sử dụng nhQn hiệu đối với chè Ceylon Đăng ký nhQn hiệu tại các thị tr−ờng n−ớc ngoài
- Tổ chức các buổi đào tạo về phương pháp thử và pha trộn chè cho các nhân viên khách sạn
- Giám sát các vụ bán đấu giá chè
- Phê chuẩn giá của các hợp đồng chè kỳ hạn [28]
Uỷ ban Chè Sri Lanka đóng vai trò điều tiết quan trọng trong ngành chè bằng cách quản lý toàn diện từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ đến cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho nông dân và doanh nghiệp Họ đảm bảo chất lượng, cung cấp thông tin thị trường, xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu, tạo ra hệ thống mối quan hệ chặt chẽ trong ngành chè, từ đó khẳng định hình ảnh và uy tín của chè Sri Lanka trên thị trường quốc tế.
1.2.1.3 Quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ chè ở Trung Quốc
Khái quát về quan hệ hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ chè ở Việt Nam
Cây chè đã được trồng ở Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ 19, bắt đầu từ Tĩnh Cương, tỉnh Phú Thọ và Đức Phổ, tỉnh Quang Nam Đến năm 1938, diện tích chè ở Việt Nam đạt khoảng 13.500 ha với sản lượng trên 6.000 tấn chè khô Trong giai đoạn từ 1925 đến 1940, người Pháp đã thành lập các đồn điền chè tại Tây Nguyên.
Từ năm 1939 đến 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của cây chè, dẫn đến nhiều vườn chè bị bỏ hoang và không được chăm sóc Kết quả là diện tích và sản lượng chè giảm sút đáng kể, với đặc điểm sản xuất chủ yếu là nhỏ lẻ và phân tán.
Kỹ thuật canh tác trong giai đoạn 1954 - 1986 chủ yếu là phương thức quảng canh, dẫn đến năng suất và sản lượng thấp Sản xuất mang tính cá thể, tự cấp tự túc, và các mối quan hệ hợp tác hầu như không tồn tại.
Sau khi kháng chiến chống Pháp thành công, miền Bắc được giải phóng hoàn toàn và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Trong giai đoạn này, cây chè được chú trọng phát triển, trở thành một loại cây trồng mang lại thu nhập cao, góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của các hộ nông dân trồng chè.
Trong giai đoạn phát triển sản xuất chè, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ quan trọng từ Liên Xô (cũ) và Trung Quốc về vốn đầu tư và kinh nghiệm tổ chức sản xuất Nhiều nhà máy chế biến chè đen với công suất lớn từ 13.5 đến 42 tấn/ngày, cùng với các nhà máy chế biến chè xanh có công suất từ 6 đến 12 tấn/ngày đã được xây dựng.
Sau khi đất nước thống nhất, cây chè đã được Bộ Nông nghiệp và Bộ Lương thực Thực phẩm chú trọng điều tra, quy hoạch và phát triển ở cả hai miền Tuy nhiên, chiến tranh kéo dài đã gây ra nhiều khó khăn trong sản xuất chè, khiến cho sự phát triển của ngành này chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 35
Sản xuất chè giai đoạn 1954 - 1986 được chia thành hai khu vực chính: quốc doanh và tập thể, với khu vực quốc doanh bao gồm các nông trường và nhà máy chế biến chè do Nhà nước quản lý, trong khi khu vực kinh tế tập thể gồm các HTX do nông dân tự nguyện thành lập Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế quốc doanh và tập thể đã khiến kinh tế cá thể bị xem nhẹ và gần như bị triệt tiêu Mô hình quản lý trong giai đoạn này là kế hoạch hóa tập trung, với mọi hoạt động sản xuất và tiêu thụ đều chịu sự chỉ huy từ Trung ương, dẫn đến việc các đơn vị sản xuất không có quyền tự chủ và các hộ sản xuất chè cá thể không thể phát triển.
Do đất nước vừa trải qua chiến tranh vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mô hình quản lý đã phát huy những ưu việt trong chỉ huy Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào thi đua sản xuất được phát động rộng rãi, với yếu tố tinh thần đóng vai trò quyết định trong các hoạt động sản xuất, tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước Tuy nhiên, khi đất nước hòa bình, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch, tập trung bắt đầu bộc lộ hạn chế, đặc biệt là tình trạng quan liêu và duy ý chí, dẫn đến đình đốn và hiệu quả sản xuất giảm sút Điều này đã thúc đẩy sự xuất hiện của các tư tưởng cải cách và đổi mới kinh tế.
1.2.2.3 Thời kỳ từ 1986 đến nay
Sau năm 1985, tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam tiếp tục suy giảm, dẫn đến nhiều khó khăn trong đời sống của nhân dân Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã diễn ra trong bối cảnh này.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã nghiên cứu luận án tiến sĩ kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm giúp nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng ta chủ trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển đổi hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò kinh tế quốc doanh và phát huy khả năng của các thành phần kinh tế khác Đặc biệt, việc chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh và đổi mới quản lý Nhà nước về kinh tế đã được khẳng định Từ Đại hội VI đến Đại hội X, đường lối đổi mới không ngừng hoàn thiện, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đã mang lại thành công lớn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành sản xuất chè, khẳng định quyền tự chủ kinh tế cho các đơn vị sản xuất, đặc biệt là kinh tế hộ nông dân Sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, nhà máy, nông trường, HTX và hộ nông dân đã mang lại những thành tựu to lớn cho ngành chè Các đơn vị kinh tế có quyền quyết định trong việc lựa chọn nhà cung cấp, dịch vụ kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm, tạo ra mối quan hệ chằng chịt với các tổ chức kinh tế xã hội khác Trước đây, ngành chè chủ yếu chỉ có nông trường quốc doanh và HTX, nhưng hiện nay đã hình thành một hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh chè đa dạng.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã thực hiện luận án tiến sĩ kinh tế, nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và quản lý ngành chè Nghiên cứu này nhấn mạnh sự tham gia của nhiều bên, bao gồm Nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp quốc doanh, tư nhân, và các hộ sản xuất, cùng với các đầu mối trung gian Sơ đồ tổ chức và quản lý ngành chè sẽ được trình bày để minh họa cho sự phối hợp này.
Sơ đồ 1.3: Cơ cấu tổ chức và quản lý ngành chè Việt Nam
Ngành sản xuất chè Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương, cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tất cả đều được quản lý bởi các cơ quan chức năng như Bộ Nông nghiệp và UBND tỉnh Các hợp tác xã và hộ nông dân sản xuất chè cũng hoạt động dưới sự giám sát của UBND huyện và xã Sự hình thành của Tổng công ty Chè Việt Nam vào năm 1987 và Hiệp hội Chè Việt Nam vào năm 1988 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của ngành chè trong cả nước.
Các DN trồng, chế biến và KD chè QD trung −ơng
Các XN, nông tr−ờng trồng, chế biến chè QD ĐP, các DN t− nhân
Các tổ hợp tác Hiệp héi chÌ
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã nghiên cứu luận án tiến sĩ kinh tế về sự phát triển của ngành chè Việt Nam Ngành chè đã chuyển mình từ những sản xuất đơn lẻ thành một hệ thống liên kết chặt chẽ, bao gồm các lĩnh vực như dịch vụ kinh tế, kỹ thuật, tư vấn, quy hoạch, thông tin, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, chế biến, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu và quảng bá văn hóa trà.
Việt Nam hiện có 35 tỉnh thành phố trồng chè với tổng diện tích khoảng 130.000 ha, trong đó 16 địa phương có diện tích từ 1.000 ha trở lên Khoảng 6 triệu người sinh sống trong vùng chè có thu nhập từ trồng, chế biến và kinh doanh chè Ngành chè có khoảng 650 cơ sở công nghiệp, hàng ngàn hợp tác xã và hộ gia đình hoạt động liên quan Đến năm 2006, cả nước có 263 doanh nghiệp xuất khẩu chè, trong đó Công ty chè Phú Bền, Tổng công ty Chè Việt Nam và Công ty TNHH Thế hệ mới là những doanh nghiệp hàng đầu Thị trường xuất khẩu chè Việt Nam đã mở rộng ra 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tỷ lệ chè xanh chiếm 20%, chè đen 60%, chè thành phẩm 7% và 14% là các loại chè khác.
Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn quan hệ hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ chè trên thế giới và Việt Nam
Hợp tác tự nguyện giữa nông dân là một quy luật tất yếu trong nông nghiệp, thể hiện rõ trong mọi hình thức sản xuất của các hệ thống kinh tế - xã hội Nông dân luôn có nhu cầu hợp tác, từ những hình thức đơn giản đến phức tạp, từ chuyên ngành đến đa ngành Nhu cầu này chủ yếu xuất phát từ lợi ích kinh tế mà họ mong muốn đạt được.
Cơ sở hình thành các quan hệ hợp tác xã (QHHT) của nông dân xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào thiên nhiên và mang tính tự cấp tự túc, nông dân phải đối mặt với áp lực từ thiên tai, dịch bệnh, và thú dữ, dẫn đến thiệt hại mùa màng Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, lợi nhuận trở thành động lực chính, và sự cạnh tranh gia tăng, áp lực kinh tế đối với sản xuất nông nghiệp ngày càng lớn do sự độc quyền và chèn ép từ các nhà tư bản Vì vậy, nhu cầu hợp tác giữa nông dân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Các QHHT của nông dân được thực hiện trong toàn bộ quy trình sản xuất kinh doanh, chủ yếu thông qua các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật và tín dụng chuyên môn hóa Các hộ nông dân tự tổ chức sản xuất nông nghiệp nhằm tiết kiệm chi phí, phát huy sức mạnh tập thể và tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn Mục tiêu là nâng cao khả năng cạnh tranh và đạt được thành công trên thị trường.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận án tiễn sĩ kinh tế 40
Sự phát triển của các lĩnh vực và hình thức hợp tác, từ mức độ thấp đến cao, phản ánh quy luật quan hệ sản xuất cần phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Quyết định về hoạt động và các lĩnh vực hợp tác chủ yếu do các hộ nông dân tự lựa chọn.
Nhu cầu hợp tác khác nhau tùy thuộc vào từng ngành, lĩnh vực và vùng miền Để nâng cao hiệu quả của mối quan hệ hợp tác, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng, yêu cầu cần có bộ phận quản lý và hướng dẫn phù hợp.
Nhà nước cần nhanh chóng ban hành luật và các quy định mẫu về hợp tác xã nông dân, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan về chức năng và nhiệm vụ của mình Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho các thành viên trong cộng đồng hợp tác mà còn cho toàn xã hội Việc này còn góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt chú trọng đến phát triển nông thôn, bắt đầu từ nông nghiệp và hỗ trợ những hộ nông dân còn gặp khó khăn.
Các quan hệ hợp tác trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp giữa các hộ nông dân và các tổ chức, đơn vị khác được xây dựng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và cùng chịu trách nhiệm, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng.