đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
Đặc điển địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Vĩnh phúc là một tỉnh thuộc vùng đông Bắc Bộ
- Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang
- Phía Nam giáp tỉnh Hà Tây
- Phía Đông giáp Thành phố Hà Nội
- Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ
Vĩnh Phúc nằm ở tọa độ 21°07' - 21°34' vĩ bắc và 105°19' - 105°47' kinh đông, cách Hà Nội 45 km về phía Tây qua quốc lộ 2 Thị xã Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh, với hạ tầng giao thông phát triển bao gồm tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai và gần cảng hàng không quốc tế Nội Bài Vĩnh Phúc nằm ở vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, chịu ảnh hưởng từ sự phát triển của các khu công nghiệp lớn tại Hà Nội như Bắc Thăng Long và Sóc Sơn Sự hình thành các tuyến hành lang giao thông quốc gia như Việt Trì, Hà Giang đã giúp Vĩnh Phúc kết nối gần hơn với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và thành phố lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu hàng hóa và phát triển kinh tế.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm đặc trưng cho miền Bắc, nhưng Vĩnh Phúc có nhiệt độ thấp hơn so với các vùng lân cận Mùa hè ở đây nóng ẩm và mưa nhiều, kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, trong khi mùa đông lạnh diễn ra từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Mùa thu có tiết trời mát mẻ, là thời điểm lý tưởng để trồng nhiều loại nấm Mùa hè thích hợp cho việc trồng nấm rơm từ tháng 4 đến tháng 9, trong khi nấm sò có thể được trồng vào vụ hè thu từ tháng 4-5 và tháng 9-10 Mùa đông là thời điểm tốt để trồng nấm mỡ, với thời vụ từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau Nhờ vào điều kiện khí hậu này, người dân có thể luân phiên trồng nhiều loại nấm mà không có thời gian trống Ngoài ra, còn có thể trồng các loại nấm dược liệu như nấm mọc nhĩ và nấm linh chi trên mùn cưa sau khi kết thúc chu kỳ sản xuất.
Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 23,2°C đến 25°C, với nhiệt độ cao nhất trung bình đạt 27,4°C Các tháng 6, 7, 8 là thời điểm có nhiệt độ cao nhất, từ 27,7°C đến 30°C, cùng với độ ẩm trung bình từ 80% đến 84%, rất lý tưởng cho sự phát triển của nấm rơm Ngược lại, nhiệt độ thấp nhất từ 16°C đến 17,4°C thường xảy ra vào tháng 12, tháng 1 và tháng 2, với độ ẩm cũng thích hợp cho việc trồng nấm mỡ.
Biến đổi nhiệt độ theo mùa và chênh lệch nhiệt độ ngày đêm ở khu vực này không đáng kể Gió mùa Đông – Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 9, trong khi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, mang theo mưa phùn và nhiệt độ có thể xuống dưới 15°C Mặc dù điều này không thuận lợi cho cây trồng, đặc biệt là cây lúa, nhưng lại tạo điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của nấm mỡ, đặc biệt trong giai đoạn từ khi hình thành sợi nấm đến khi thu hoạch.
Độ ẩm trung bình hàng năm ở khu vực này đạt 80-81%, với mức độ ẩm cao nhất vào cuối mùa đông, có tháng lên tới 84%, tạo ra không khí ẩm ướt Điều kiện độ ẩm này rất phù hợp cho việc trồng cả ba loại nấm ăn, được phân theo từng vụ.
Ánh sáng tại khu vực này có số giờ nắng trung bình hàng năm dao động từ 1340 đến 1800 giờ Trong mùa đông, số giờ nắng trong ngày thường dưới 5 giờ, cùng với độ ẩm không khí cao và nhiệt độ thấp, tạo nên một không khí mùa đông đặc trưng.
Thời tiết âm u kéo dài tạo điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của nhiều loại sâu bệnh hại cây trồng Đồng thời, điều kiện này cũng rất phù hợp với đặc điểm kỹ thuật của một số loại nấm, giúp chúng phát triển mạnh mẽ.
Điều kiện khí hậu tại tỉnh Vĩnh Phúc rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng các loại nấm ăn như nấm mỡ từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, nấm rơm từ tháng 4 đến tháng 9, và nấm sò có thể trồng quanh năm, ngoại trừ tháng 1-3 do thời tiết quá lạnh Bên cạnh việc phát triển các cây nông nghiệp, việc tận dụng tối đa khả năng của đất và sản phẩm phụ từ nông nghiệp sẽ giúp sản xuất nhiều loại nấm hàng hóa, mang lại giá trị kinh tế cao.
Tỉnh có ba loại đất chính: đất đồng bằng phù sa sông Hồng, sông Lô và sông Phó Đáy chiếm 62,2%, chủ yếu tập trung ở phía nam tỉnh; đất bạc màu chiếm 24,2%, phân bố ở vùng gò đồi ven chân núi Tam Đảo và huyện Lập Thạch; và đất đỏ vàng nhạt chiếm 15,1%, chủ yếu nằm ở phía bắc tỉnh ven chân núi Tam Đảo.
Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 137.136,18 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 52,64% với 66.659,68 ha, đất lâm nghiệp 22,2% tương đương 30.439,33 ha, và đất chuyên dùng 18.780,02 ha, tăng trung bình 8,3% chủ yếu là đất cho nguyên vật liệu xây dựng Sự chuyển dịch cơ cấu đất đai đã dẫn đến việc giảm 1,9% diện tích đất trồng cây hàng năm trong ba năm qua, trong khi đất vườn tạp tăng 7,31% Trong tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, 46.174,06 ha, có đến 85,91% được sử dụng để sản xuất lúa, cho thấy lúa vẫn là cây trồng chủ lực của tỉnh, trong khi diện tích trồng hoa màu, rau và các cây trồng khác chỉ chiếm 13,84%.
Bảng 7 Khí hậu thời tiết tỉnh Vĩnh Phúc qua các tháng
3 Số giờ nắng Tb (giờ) 76 52,1 57,5 98,1 198,6 178,2 210,0 188,8 192,5 180,2 145,5 123,1 1700,6
4 Tốc độ gió TB năm (m/s) 1,6 1,9 2,0 2,3 2,2 1,9 1,9 1,5 1,3 1,3 1,3 1,4 1,7
5 Số ngày có s−ơng mù (ngày) 1,0 0,6 1,0 0,2 0 0 0 0,04 0,2 0,4 0,7 1,3 5,4
* Nguồn: Niên giám thống kê khí t−ợng thuỷ văn Việt Nam, 2000 trồng lúa (hàng năm Vĩnh Phúc có trên 300.000 tấn rơm rạ) để sản xuất mặt hàng nấm
Mặt khác tận dụng đ−ợc một số nhà kho, bãi hoang để xây lán trồng nấm là tiết kiệm đ−ợc rất nhiều diện tích đất
Diện tích đất lâm nghiệp lên tới 30.346,82 ha, chiếm 22,13% tổng diện tích, là nguồn nguyên liệu gỗ quan trọng cho việc trồng các loại nấm như nấm mọc nhĩ, nấm hương và nấm linh chi.
Tóm lại tiềm năng đất đai ở đây rất thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng nấm
3.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
3.1.2.1 Dân số, lao động, việc làm
Vào năm 2001, tỉnh có tổng dân số 1.132.049 người, với tốc độ tăng trưởng dân số trung bình đạt 1,29% Trong số đó, 948.360 người làm nghề nông, chiếm 83,77% tổng dân số của tỉnh Tuy nhiên, dân số trong ngành nông nghiệp đã giảm qua các năm, cụ thể là giảm 1,07% so với năm 2000, chủ yếu do nhiều lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành nghề khác như công nhân và dịch vụ.
Dân số Vĩnh Phúc năm 2003 đạt 1.147.161 người, với 87,9% dân số sống ở nông thôn và 12,1% ở thành thị, tạo nên một cộng đồng đa dạng với hơn 10 dân tộc Mật độ dân số trung bình là 800 người/km², cho thấy tỉnh vẫn chủ yếu là nông thôn, trong khi ngành công nghiệp mới bắt đầu phát triển Sản xuất nông nghiệp và nghề phụ tại nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra thu nhập chính cho nông hộ, đồng thời là nền tảng cho sự phát triển công nghiệp, dịch vụ và thương mại trong tương lai.
Bảng 8 Tình tình phát triển dân số và lao động của tỉnh Vĩnh Phúc n¨m 1997 – 2003
- Lao động DV và khác 38.860 7,0 42.560 7,2 70.052 11,2 81.000 12,6
Nguồn thông tin trong bài viết được trích dẫn từ Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc năm 2001 và 2002, cùng với báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2003 của Cục thống kê tỉnh Vĩnh Phúc Ngoài ra, bài viết còn tham khảo báo cáo tổng hợp điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001-2010.
Ph−ơng pháp nghiên cứu
3.2.1 Ph−ơng pháp duy vật biên chứng và duy vật lịch sử
Phát triển tiềm năng sản xuất nấm trong vùng là điều cần thiết, bởi vì nó không chỉ nâng cao giá trị kinh tế mà còn tạo ra việc làm cho người dân Sử dụng phương pháp biện chứng, ta có thể chứng minh rằng việc đầu tư vào sản xuất nấm sẽ thúc đẩy sự phát triển bền vững, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường Do đó, việc phát triển ngành nấm không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn hỗ trợ sự phát triển cộng đồng và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là công cụ lý luận khoa học giúp phân tích khách quan các hiện tượng kinh tế - xã hội, cho thấy sự vận động và mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng Phương pháp này cho phép đánh giá chính xác tình hình sản xuất và tiêu thụ nấm trong những năm gần đây, liên quan đến sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước Dựa trên cơ sở khoa học và định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp khu vực, có thể xác định các phương án tổ chức sản xuất nấm hiệu quả và các kênh tiêu thụ sản phẩm tối ưu Đây là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu đề tài.
3.2.2 Ph−ơng pháp thống kê kinh tế và phân tích số liệu thống kê
Phương pháp này cho phép điều tra, tổng hợp và phân tích thống kê tình hình sản xuất nấm một cách khoa học, dựa trên các chỉ tiêu thống kê phản ánh chính xác và khách quan Nó cung cấp cái nhìn đầy đủ về sản xuất và tiêu thụ nấm ở địa phương qua nhiều năm, từ một số hộ sản xuất và mô hình sản xuất tập trung đại diện Đây là phương pháp nghiên cứu khoa học có khả năng lượng hóa các kết luận, mang lại ý nghĩa kinh tế và tính thuyết phục cao Phương pháp này được áp dụng trong hầu hết các nội dung của luận án liên quan đến việc điều tra và phân tích số liệu Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng một số phương pháp và chỉ tiêu bổ sung khác.
- Ph−ơng pháp so sánh liên hoàn t (%) = y n /y n-1
- Tốc độ phát triển bình quân Τ (%) = n-1 √y n /y 1
Trong đó n là số năm
3.2.3 Ph−ơng pháp điều tra nhanh nông thôn (PRA- Participatory Rural
Để nắm bắt nhanh chóng tình hình phát triển kinh tế - xã hội và nghề trồng nấm tại khu vực này, chúng tôi áp dụng một số kỹ thuật cơ bản cùng với các công cụ của phương pháp PRA.
Tổng hợp các nhóm từ 10 đến 15 người và khuyến khích họ sử dụng vật liệu quen thuộc để tự phân chia vào các ô mà họ chọn Trong mỗi ô cần bố trí đầy đủ thông tin cần thu thập Cuối cùng, tổng kết các lựa chọn của nhóm sẽ giúp thu thập thông tin cần thiết.
+ Kỹ thuật thu thập tài liệu sẵn có
Liệt kê các số liệu thông tin cần thiết có thể thu thập, hệ thống hoá theo nội dung, địa điểm thu thập
Liên hệ với các cơ quan cung cấp thông tin
Tiến hành thu thập bằng cách ghi chép, sao chụp
Kiểm tra tính thực tiễn của thong tin thông qua quan sát trực tiếp và kiÓm tra chÐo
+ Sử dụng ph − ơng pháp phỏng vấn linh hoạt
Chuẩn bị danh mục chủ đề để phỏng vấn và ghi rõ từng chủ đề vào phiÕu pháng vÊn
Lựa chọn cá nhân và thông tin viên chính để phỏng vấn Người cung cấp thông tin phải sâu rộng và quan điểm rõ ràng
Lựa chọn thời gian và địa điểm để cuộc phỏng vấn ít bị ảnh hưởng
Ghi chép chi tiết nội dung các cuộc phỏng vấn và kiểm tra thông tin bằng quan sát trực tiếp và kiểm tra chéo
3.2.4 Ph−ơng pháp chuyên gia chuyên khảo
Để phát triển nông thôn và nông nghiệp hiệu quả, việc tham khảo ý kiến từ các chuyên gia có kinh nghiệm là rất quan trọng Những chuyên gia này bao gồm cán bộ khoa học, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và nông dân dày dạn kinh nghiệm, giúp đảm bảo các giải pháp đưa ra phù hợp với thực tiễn và nhu cầu địa phương.
3.2.5 Ph−ơng pháp chọn mẫu điều tra
Chúng tôi chọn địa điểm và số hộ đại diện nhất cho các hộ sản xuất nấm bao gồm 150 hộ điều tra trên 720 hộ sản xuất nấm
Phỏng vấn các hộ sản xuất nấm theo mẫu điều tra
3.2.6 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
+ Các chỉ tiêu phản ánh điều kiện sản xuất của cơ sở sản xuất nấm
- Số lao động, trình độ văn hoá lao động
- Diện tích của cơ sở sản xuất
- Mức trang bị vốn cố định bình quân/ 1 cơ sở sản xuất nấm
+ Các chỉ tiêu phản ánh tình hình thu chi của nông hộ sản xuất nấm
- Tổng thu nhập từ sản xuất nấm, mức thu nhập bình quân/lao động
- Tổng chi sản xuất nấm tính bình quân cho một hộ
+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế sản xuất nấm
Các chỉ tiêu đánh giá kết quả thu đ−ợc và chi phí đã tiêu hao trong quá trình sản xuất đ−ợc thể hiện nh− sau:
- Năng suất tính trên 1 tấn nguyên liệu
Giá trị sản xuất (GO) là tổng giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ được sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
GO = ∑ Qi*Pi Qi: Khối l−ợng sản phẩm thứ i
Pi: Đơn giá sản phẩm loại i
Chi phí sản xuất (TC) bao gồm toàn bộ chi phí vật chất, chi phí dịch vụ và các khoản chi phí khác cần thiết trong quá trình sản xuất.
Trong sản xuất nấm ăn thì tổng chi phí bao gồm: chi phí trung gian và chi phí lao động
Chi phí trung gian (IC) bao gồm tất cả các chi phí liên quan đến sản phẩm vật chất và dịch vụ thường xuyên sử dụng trong quá trình sản xuất, nhằm tạo ra của cải vật chất và dịch vụ khác.
Chi phí trung gian cho sản xuất nấm t−ơi bao gồm: chi phí vật chất (rơm rạ, bông, vật t− hoá chất, giống nấm và chi phí dịch vụ
IC = ∑ Ci*Ii Ii: là đầu vào thứ i đã sử dụng
Ci: là đơn giá đầu vào thứ i đã sử dụng
- Giá trị gia tăng (VA): đó là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí trung gian
Thu nhập hỗn hợp (MI) là tổng thu nhập của người sản xuất, bao gồm cả thu nhập từ lao động và lợi nhuận thu được khi sản xuất sản phẩm trên một đơn vị tính.
MI = VA – (A+T+LĐ thuê nếu có)
A: là giá trị khấu hao tài sản cố định và chi phí phân bổ
Trên cơ sở các chỉ tiêu kết quả và chi phí, hiệu quả kinh tế đ−ợc đánh giá qua các chỉ tiêu là:
- Giá trị sản xuất trên đồng chi phí
- Giá trị gia tăng trên đồng chi phí
- Thu nhập hỗn hợp trên đồng chi phí
- Hiệu quả đầu t− công lao động
+ Lợi nhuận trên một đồng chi phí lao động
+ Thu nhập hỗn hợp trên ngày công lao động: MI/ 1 ngày - người
- Lãi ròng (Pr) là toàn bộ lãi thu đ−ợc sau khi đã khấu từ đi tất cả các khoản chi phí Pr = GO –TC
- Hiệu quả đầu t− vốn H = Pr/TC
thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất một số loại nấm ăn chủ yếu ở tỉnh Vĩnh Phúc
Thực trạng sản xuất và hiệu quả sản xuất nấm ăn ở tỉnh Vĩnh Phúc
4.1.1 Tình hình trang bị cơ sở vật chất và sản xuất nấm những năm gần ®©y
+ Tình hình trang bị cơ sở vật chất của ng − ời trồng nấm
Cơ sở vật chất kỹ thuật và vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quan trọng trong toàn bộ chu kỳ sản xuất nấm Như Mác đã chỉ ra, "hệ thống xương cốt, bắp thịt của sản xuất" chính là cơ sở vật chất kỹ thuật, bao gồm tổng thể các yếu tố vật chất, công nghệ sản xuất kết hợp với tổ chức sản xuất xã hội.
Đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quyết định cho sự phát triển sản xuất nấm trong các hộ nông dân Nếu không được trang bị cơ sở vật chất tốt, việc đầu tư cho sản xuất sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được Kết quả khảo sát về tình hình cơ sở vật chất của người trồng nấm được trình bày trong bảng 9.
Bảng 9 Cơ sở vật chất của hộ trồng nấm (bình quân /hộ)
Diễn giải Đơn vị Số l−ợng Tỉ lệ hộ có (%)
* Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Bảng 9 cho thấy rằng nhà nuôi trồng nấm của hộ nông dân chủ yếu là nhà tạm bằng tre và lứa, mái lợp bằng lá cọ, đảm bảo thoáng mát với chi phí thấp (khoảng 1-2 triệu đồng cho khoảng 30-40 m²) và thời gian sử dụng khoảng 5-6 năm, chi phí sửa chữa hàng năm không đáng kể Do đó, 100% hộ trồng nấm đều sử dụng lán tạm Hình thức nhà nấm này phù hợp với cả hộ sản xuất chuyên canh và không chuyên canh, thường được đặt ngoài đồng, giúp xử lý sản phẩm phụ sau vụ nấm ngay tại ruộng và bón cho cây trồng mà không tốn công vận chuyển phân bón.
Chỉ khoảng 27,8% hộ nông dân sử dụng chuồng trại chăn nuôi và kho tàng, nhưng chủ yếu là khi không có hoạt động chăn nuôi Hầu hết các hộ đều sử dụng lán trại Chi phí xây dựng lò hấp và sấy khá cao, khoảng 6-8 triệu đồng, nhưng thời gian sử dụng lại lâu dài, từ 20-30 năm Đối với các hộ không chuyên canh, việc xây dựng lò hấp ít phổ biến, chủ yếu là các hộ cùng nhau chia sẻ, dẫn đến chỉ khoảng 20% hộ có lò hấp.
Tất cả các hộ đều trang bị giếng khoan, bình bơm và kệ gỗ để phục vụ nhu cầu chăm sóc nấm Chi phí cho những thiết bị này không cao nhưng lại rất tiện dụng.
Trang bị cho công việc sản xuất nấm hiện nay khá đầy đủ, nhưng các trang trại thường có tài sản cố định kiên cố và đầy đủ hơn so với các nông hộ sản xuất quy mô vừa và nhỏ.
+ Tình hình sản xuất nấm ở Vĩnh Phúc
Tỉnh Vĩnh Phúc chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, với mục tiêu sản xuất nông sản sạch, tăng thu nhập trên mỗi đơn vị diện tích canh tác và nâng cao sản lượng xuất khẩu nông sản, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái Dự án sản xuất nấm sạch được triển khai từ năm 2000 đã mở ra hướng phát triển mới cho tỉnh, góp phần vào việc nâng cao giá trị nông sản và thúc đẩy kinh tế địa phương.
41 nghề phụ phù hợp với vùng nông thôn có thể tận dụng sản phẩm phụ từ nông nghiệp để nuôi trồng nấm, tạo ra sản phẩm sạch và giàu dinh dưỡng Nấm có tiềm năng xuất khẩu cao sang các nước hàn đới, mang lại giá trị kinh tế vượt trội so với lúa gạo và một số loại rau quả khác Hơn nữa, việc nuôi trồng nấm còn giúp cải thiện độ phì nhiêu của đất nhờ sử dụng nguồn phân bón, đồng thời không gây tác động xấu đến môi trường.
Dự án nấm ăn sạch tại Vĩnh Phúc đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo 220 kỹ thuật viên là cán bộ khuyến nông và tổ chức 296 lớp huấn luyện cho 16.980 nông dân tại 7 huyện, thị Hoạt động này không chỉ cung cấp việc làm cho hàng nghìn lao động nông thôn trong mùa vụ mà còn giúp các trang trại trong tỉnh cung cấp từ 600 – 700 tấn nấm tươi hàng năm cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
Sau 1 năm thực hiện dự án sản xuất nấm ăn, các năm tiếp theo số hộ tham gia làm mô hình trồng nấm tăng lên nhanh chóng, quy mô sản phẩm cũng tăng nhanh, năm 2002 sản l−ợng đạt 1.238 tấn so với năm 2000 tăng gần gấp ba lần, gấp hai so với năm 2001 (Bảng 10) Song sự phân bố sản xuất không đều mà tập trung chủ yếu ở một số huyện Vĩnh Tường (300 hộ), Bình Xuyên (240 hộ), Tam D−ơng (300 hộ), Vĩnh Yên (120 hộ) Để cung cấp đủ giống cho các hộ sản xuất nấm thì cần khối l−ợng 104 tấn giống, thực tế Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh mới sản xuất đ−ợc một số loại giống nấm nh− nấm sò, nấm mỡ, nấm rơm, nấm mọc nhĩ , đáp ứng đ−ợc khoảng 30-45% l−ợng giống cho sản xuất Số còn lại, các hộ dân phải mua từ Trung tâm công nghệ sinh học thực vật - Viện Di truyền nông nghiệp
Bảng 10: Kết quả huấn luyện và sản xuất nấm ăn ở Vĩnh Phúc
Lớp đào tạo KTV Lớp huấn luyện Lớp tập huấn
S.l−ợng nấm t−ơi (tấn) Số lớp Học viên Số lớp Học viên Số lớp Học viên
* Nguồn: Kết quả 10 năm triển khai ch−ơng trình IPM Vĩnh Phúc (1993-2003), tr 146 )
4.1.2 Một số mô hình sản xuất nấm ăn ở Vĩnh Phúc
+ Trồng nấm hộ gia đình quy mô nhỏ
Mô hình trồng nấm hộ gia đình quy mô nhỏ tận dụng rơm rạ tự có sau mùa thu hoạch lúa, với 30-50% rơm rạ được sử dụng cho mỗi đợt trồng, khoảng 1000 kg Diện tích đất trồng chỉ từ 10-20 m²/hộ và sản xuất cả 3 loại nấm Do quy mô nhỏ, các hộ chủ yếu sử dụng lao động gia đình mà không cần thuê ngoài.
Họ tận dụng thời gian một cách hiệu quả, làm việc ngay cả vào buổi tối khi có thời gian rảnh Mỗi tấn nguyên liệu cần từ 25-30 công lao động, và trong mỗi đợt sản xuất, họ sử dụng từ 10-15 công.
Hộ sản xuất nấm ăn thường có vốn đầu tư từ 300 - 400 ngàn đồng, chủ yếu là vốn tự có trong gia đình Mỗi hộ thu hoạch từ 200 - 250 kg nấm tươi, chủ yếu phục vụ tiêu dùng nội bộ và bán tại chợ địa phương Thu nhập hàng ngày đạt khoảng 30 - 35 ngàn đồng/người, đồng thời tận dụng khoảng 0,5 tấn phân bón từ bã nấm để phục vụ cho trồng trọt.
Trồng nấm hộ gia đình quy mô vừa là mô hình hiệu quả, trong đó hộ gia đình sử dụng toàn bộ rơm rạ có sẵn và mua thêm một lượng nhất định để sản xuất Mỗi năm, hộ trồng từ 4-5 lứa nấm trên diện tích lán trại khoảng 40-50m², tiêu thụ 4-5 tấn rơm rạ Mô hình này huy động toàn bộ nguồn nhân lực trong gia đình và cần thuê thêm lao động cho các công đoạn như chế biến nguyên liệu, đóng bịch và treo dây cho nấm sò Trung bình, mỗi năm hộ sử dụng khoảng 100-200 công, với 20-25 công cho 1 tấn nguyên liệu.
Hộ sản xuất nấm sử dụng khoảng 2-3 triệu đồng vốn mỗi năm, với vốn tự có khoảng 1 triệu đồng Sản lượng nấm tươi đạt 1000 kg, cho thấy quy mô sản xuất hàng hóa nhỏ Nấm được tiêu thụ chủ yếu tại địa phương, bao gồm cả hình thức bán nấm tươi và chế biến thành nấm muối, nấm sấy khi cần thiết.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế sản xuất nấm
421 Sản xuất và cung ứng giống nấm
Giống nấm là yếu tố quan trọng quyết định thành công trong việc trồng nấm Giống tốt không chỉ phát triển nhanh và mạnh trên nguyên liệu nuôi trồng, mà còn có khả năng chống chịu bệnh tật, mang lại sản phẩm chất lượng cao và giá trị thương phẩm tốt, đồng thời chậm thoái hóa Tuy nhiên, hiện nay nhiều hộ trồng nấm không biết rõ chủng nấm mình đang trồng, mà chỉ mua giống phẩm cấp 3 từ các trung tâm cung cấp đại trà.
Chi Cục Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Phúc đã thu thập số liệu và tài liệu để Trung tâm cung ứng giống nấm xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật cho 11 loại giống nấm Trong số đó, có 5 loại giống cấp 2 (nấm sò, nấm rơm, nấm mỡ, mộc nhĩ, linh chi) và 6 loại giống cấp 3 (nấm sò, nấm rơm, nấm mỡ, mộc nhĩ trên gỗ và mùn cưa) được đưa vào sản xuất Kết quả hạch toán này là cơ sở quan trọng để xác định giá thành và giá bán cho người tiêu thụ.
Giá các loại giống nấm biến động qua các năm do nhu cầu tăng và giá nguyên liệu cao, cùng với tỉ lệ nhiễm hỏng cũng ảnh hưởng đến giá cả Cụ thể, năm 2002 tỷ lệ nhiễm hỏng thấp hơn so với năm 2003, với nấm mỡ 20%, nấm rơm 15%, nấm sò 15% trong năm 2002, và tăng lên 30%, 20%, 22% tương ứng trong năm 2003 Sản xuất giống nấm chủ yếu phụ thuộc vào trang bị công nghệ và kỹ thuật viên, trong khi kỹ thuật còn hạn chế Do đó, giá giống nấm có xu hướng tăng nhưng mức biến động không lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nấm của nông dân.
Trong ba năm hoạt động, X−ưởng sinh học (trung tâm IPM và sinh học BVTV) đã sản xuất 34.871 kg giống nấm các loại, trong đó nấm mỡ, nấm rơm và nấm sò chiếm 29.598 kg, tương đương 84,9% tổng sản lượng Cụ thể, nấm sò chiếm 34,5%, nấm mỡ 43,1% và nấm rơm 22,4% Giá bán các loại giống này thấp hơn 10% so với Trung tâm Công nghệ sinh học thực vật – Viện Di truyền nông nghiệp Chất lượng giống đã được khảo nghiệm và trình diễn kỹ thuật tại các địa điểm trước khi đưa ra nuôi trồng đại trà, đảm bảo đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Mặc dù có những tiến bộ, nhưng ngành sản xuất vẫn gặp một số hạn chế như quy mô nhà xưởng nhỏ và trang thiết bị chưa đồng bộ, chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu sản xuất Tỷ lệ nhiễm hỏng sản phẩm vẫn cao, từ 20-30%, trong khi định mức quy định là dưới 15% Hơn nữa, vốn sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào vay mượn, gây áp lực trả lãi cho doanh nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu hiện tại, cần sớm nâng cấp kỹ thuật cho X−ưởng sinh học nhằm đạt công suất 70-100 tấn giống/năm, gấp 3 lần so với hiện nay Việc này là cần thiết để vượt qua những khó khăn mà ngành đang gặp phải.
Nếu điều kiện sản xuất được cải thiện, sản lượng và chất lượng giống sẽ được đảm bảo, giúp giảm chi phí mua giống cho người trồng nấm Điều này mang lại sự yên tâm và chủ động hơn cho họ trong việc bố trí thời vụ và tổ chức sản xuất, không còn phải lo lắng về việc đặt hàng ở Hà Nội xa xôi.
Bảng 34 Kết quả sản xuất giống nấm ở Vĩnh Phúc năm 2002 - 2003
Giá thành (®/kg) Loại giống nấm
* Nguồn: Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Phúc
422 Nguyên liệu sản xuất nấm
Kết quả điều tra 150 hộ sản xuất nấm ăn tại 5 xã thuộc 2 huyện Vĩnh Yên và Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy rằng quy mô sản xuất càng lớn, lợi nhuận càng cao Cụ thể, quy mô sản xuất từ 2-6 tấn nguyên liệu/năm chiếm 56,6% tổng số hộ điều tra Tỷ lệ sử dụng rơm rạ để trồng nấm mỡ và nấm rơm đạt 71,1%, trong khi đó, bông dạng hạt chiếm 18,9% Lợi nhuận trên 1 tấn nguyên liệu dao động từ 684.800 đến 699.300 đồng.
Giá nguyên liệu đạt 88 đồng/tấn, với quy mô sản xuất từ 8-10 tấn và trên 10 tấn mang lại lợi nhuận cao hơn rõ rệt so với quy mô nhỏ Lãi bình quân trên mỗi tấn nguyên liệu dao động từ 734.800 đến 904.100 đồng, trong khi sản xuất quy mô 1-2 tấn chỉ đạt lợi nhuận thấp nhất là 678.000 đồng/tấn.
Quy mô sản xuất của hộ gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến mức thu nhập, với các hộ có quy mô lớn từ 8-10 tấn đạt thu nhập bình quân từ 10-16,1 triệu đồng, cao hơn nhiều so với các hộ quy mô nhỏ Thu nhập cao không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tái sản xuất mà còn giúp quay vòng vốn hiệu quả cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Bảng 35 Quy mô sản xuất nấm ăn phản ánh thu nhập của hộ
(Tấn NL) Số hộ điều tra % số hộ Lãi/1tấn NL
* Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
423 Công nghệ sản xuất và chế biến
Viện Di Truyền Nông nghiệp Việt Nam đã tham khảo kinh nghiệm từ các quốc gia sản xuất nấm như Trung Quốc, cũng như từ các hộ sản xuất nấm tại Thái Bình, Ninh Bình và Đồng Bằng Sông Cửu Long Qua đó, viện đã xây dựng thành công quy trình kỹ thuật trồng và chế biến nấm tại Vĩnh Phúc.
Để đạt hiệu quả cao trong việc trồng nấm ở Vĩnh Phúc, cần xác định thời vụ thích hợp Nấm mỡ nên được trồng từ 15/10 đến 30/11, với thời gian thu hoạch vào tháng 12, tháng 1 và tháng 2 Nấm rơm thích hợp trồng vào các tháng 6, 7, 8 và 9, thu hoạch vào tháng 7, 8, 9 và 10 Nấm sò có thể trồng vào tháng 9 và tháng 10.
11 và 2 – 3 - 4 Th−ờng các loại nấm thu hoạch từ lứa 1 – 2 lứa cho giá trị th−ơng phẩm cao nhất
Định mức chế biến cho 1 tấn nấm tươi như sau: nấm mỡ muối có tỷ lệ đạt 55-60% so với nấm tươi, nấm sò khô đạt 10% so với nấm tươi, và nấm rơm muối đạt 60% so với nấm tươi.
424 Sản l−ợng và chất l−ợng nấm sơ chế
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá và lượng nấm tiêu thụ Người tiêu dùng ưa chuộng nấm tươi ngon, không bị dập nát hay sâu bệnh, dẫn đến giá bán cao hơn và sự hài lòng khi sử dụng Ngược lại, nấm dập nát hoặc quá già có giá thấp và thường tiêu thụ chậm, đôi khi không bán được Thực tế cho thấy, nấm hái vào buổi sáng thường có giá cao hơn và bán nhanh hơn so với nấm hái từ hôm trước Do đó, chất lượng thương phẩm quyết định lựa chọn hàng hóa của người tiêu dùng và giá cả trên thị trường.
Quy mô sản xuất nấm ăn tại tỉnh Vĩnh Phúc đã tăng trưởng so với những năm trước, tuy nhiên vẫn chủ yếu dựa vào hình thức truyền thống, tận dụng rơm rạ và lao động nhàn rỗi Sản phẩm nấm chưa đa dạng, chủ yếu là nấm tươi và nấm sơ chế Các công ty chế biến nấm xuất khẩu đang rất quan tâm đến sản phẩm nấm Vĩnh Phúc Theo kết quả điều tra, sản lượng nấm sơ chế bình quân trên hộ đạt 42,96 kg nấm mỡ muối, 12,27 kg nấm rơm muối và 25,62 kg nấm sò khô Nấm tươi mang sơ chế chỉ chiếm 21,2% tổng sản lượng Khảo sát cho thấy nếu tỷ lệ nấm muối trên nấm tươi dưới 45% sẽ không mang lại lợi nhuận.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hiệu quả sản xuất nấm
431 Định h−ớng phát triển sản xuất nấm
Cần tăng cường sự chỉ đạo và tham gia phát triển nghề trồng nấm từ các cấp, ngành và tổ chức kinh tế - xã hội trong tỉnh Việc lập kế hoạch trồng nấm nên được tích hợp vào kế hoạch nông nghiệp hàng năm của tỉnh, huyện và các cơ sở Đồng thời, cần lồng ghép chương trình phát triển trồng nấm với các chương trình kinh tế - xã hội khác như xoá đói giảm nghèo, dạy nghề nông nghiệp, đầu tư phát triển giống cây trồng, khuyến nông, nông nghiệp sạch, phát triển kinh tế trang trại, cũng như các chương trình của hội nông dân, hội phụ nữ và đoàn thanh niên.
Tăng c−ờng hợp tác toàn diện với các cơ quan, tổ chức khoa học – th
Mô hình bốn nhà trong phát triển nghề nấm
Ph−ơng h−ớng phát triển sản xuất nấm
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về số lượng và chất lượng, cần đầu tư xây dựng cơ sở chế biến nấm hộp, từ đó giải quyết đầu ra và khuyến khích phát triển sản xuất Trong năm tới, tỉnh đặt mục tiêu sản xuất 10.000 tấn nấm tươi Để đạt được sản lượng này, các hộ trồng nấm cần tăng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu suất sử dụng nguyên liệu.
- Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý
4312 Biện pháp về kinh tế - tổ chức - sản xuất
Trong những năm qua, sản xuất nấm ăn cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, phát triển chủ yếu qua hai hình thức: kinh tế hộ nông dân và kinh tế tập trung Xu hướng phát triển mạnh mẽ này đã giúp nâng cao vị trí của sản xuất nấm trong kinh tế hộ nông dân, với sản lượng nấm tươi ngày càng gia tăng nhờ số lượng hộ nông dân tham gia sản xuất ngày càng nhiều.
Nguồn rơm rạ hàng năm từ canh tác 2 vụ lúa tại Vĩnh Phúc tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân phát triển nghề trồng nấm, giúp cả những hộ thiếu vốn tham gia sản xuất Những hộ nông dân có điều kiện kinh tế khá và biết tính toán có thể mở rộng sản xuất nấm để đạt lợi nhuận cao Mô hình sản xuất nấm theo hình thức hộ nông dân phù hợp với điều kiện kinh tế địa phương và tương đồng với kinh nghiệm của các nước như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, nơi mà sản lượng nấm từ trang trại tư nhân chiếm trên 80% tổng sản lượng quốc gia.
Qua nghiên cứu thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng cơ cấu sản phẩm hiện tại rất phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của vùng Do đó, cần tập trung phát triển các sản phẩm này để tối ưu hóa tiềm năng kinh tế địa phương.
Trong những năm qua, sản xuất nấm ăn tại các trang trại nông dân vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng sản lượng của vùng Tuy nhiên, những cơ sở này đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình Để nâng cao hiệu quả sản xuất nấm ăn, cần áp dụng 103 biện pháp phát triển nhằm tối ưu hóa quy trình và tăng cường chất lượng sản phẩm.
Các bộ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn và tổ chức sản xuất nấm, hợp tác với các quốc gia có ngành nấm phát triển, nhằm áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào Việt Nam Mục tiêu là đưa nấm ăn đạt vị trí tương đương với các ngành chè, cà phê và mía đường Việc xây dựng hệ thống tổ chức và quản lý sản xuất nấm cần dựa trên mô hình từ các trường đại học và viện nghiên cứu có đủ điều kiện về cơ sở vật chất và chuyên gia Họ sẽ chịu trách nhiệm trong việc lưu trữ, chọn lọc, nhân giống nấm, đào tạo và nghiên cứu công nghệ chế biến nấm để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất Bên cạnh đó, các trung tâm sản xuất sẽ hỗ trợ nhân giống cấp 2, cấp 3 và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, giúp họ thực hiện các phương án sản xuất hiệu quả Điều này bao gồm việc cung cấp nguyên liệu, các bịch nấm đảm bảo chất lượng và nghiên cứu sản xuất bao bì Do đó, cần tổ chức các cơ sở này thành trung tâm vùng, không theo địa giới hành chính, để tạo điều kiện cho việc hỗ trợ sản xuất của nông dân.
Các hình thức tổ chức sản xuất, dù là phân tán trong hộ nông dân hay tập trung quy mô vừa và nhỏ, cần được quản lý chặt chẽ và nhận sự hỗ trợ từ Chính phủ Hệ thống quản lý và điều hành sản xuất phải được triển khai từ trung ương đến địa phương, bao gồm tất cả các khâu như nghiên cứu khoa học, đào tạo, sản xuất, chế biến và xuất khẩu Điều này không chỉ giúp Chính phủ xây dựng các chính sách khuyến khích và bảo hộ sản xuất mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững Đồng thời, cần mở rộng quan hệ hợp tác để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Các trung tâm khoa học quốc gia nh x
Ng−ời sản xuất và các cơ quan thu mua làm công tác xuất nhập khẩu quan hệ theo ồng uỷ thác x
Sơ đồ 3: Hệ thống tổ chức và quản lý sản xuất nấm ăn
Hệ thống tổ chức quản lý từ trung ương đến địa phương giúp phân công rõ ràng chức năng nhiệm vụ, tăng cường hiệu quả sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành sản xuất nấm ăn, đặc biệt là tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Để phát triển sản xuất nấm, cần áp dụng các biện pháp chính sách kinh tế và mở rộng thị trường thu mua, chế biến trong nước Việc định giá hợp lý là yếu tố tích cực giúp thúc đẩy cơ chế thị trường thông qua hợp đồng kinh tế và hợp đồng xuất khẩu Quan hệ bình đẳng và nguyên tắc cùng có lợi giữa các bên cũng rất quan trọng Đồng thời, nhà nước cần giám sát và bảo hộ thông qua các tổ chức hiệp hội nấm để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Bộ NN&PTNT, Bộ KH,CN và
Các trung tâm khoa học QG tồn trữ, nhân giống, nghiên cứu các ph−ơng án KH, CN sản xuất nấm
C ác trung tâm sản xuất vùng
- Nhân giống cấp 2,3 phục vụ sản xuất
- Tổ chức chuyển giao kỹ thuật
- Giúp ng−ời sản xuất thực hiện các ph−ơng án công nghệ, PA sản xuất
Các hộ ND và tổ chức kinh tế trực tiếp sản xuất và ứng dụng quy tr×nh KT
Cơ quan, công ty thu mua hoặc tổ chức xuất, nhập khẩu nấm
Nấm mỡ đang dần khẳng định vị trí quan trọng trong ngành sản xuất nông nghiệp, trở thành một nghề mới với tiềm năng phát triển cao hơn nhiều nông sản khác Theo phân tích, ngành hàng nấm hiện nay chủ yếu được thúc đẩy bởi các công ty dịch vụ kinh doanh, cho thấy sự gia tăng tiêu thụ và nhu cầu về sản phẩm nấm trong thị trường.
Lợi thế tiêu dùng nội địa và hướng xuất khẩu như nấm chế biến và đóng tổng thể từ khâu sản xuất đến khâu
- Các trung tâm khoa học (bảo quản, lưu trữ giống và nhân giống
- Cơ quan làm công tác dịch vụ (vật t−, hoá chất, nhiên liệu, công cụ lao động… cÊp 1)
- Các cơ sở nhân giống cấp 2, 3
Sơ đồ 4: Các tác nhân ảnh hưởng đến ngành hàng nấm
Ngành hàng nấm chịu ảnh hưởng từ bốn tác nhân chính, bao gồm tác nhân khoa học kỹ thuật, đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu và đào tạo Bên cạnh đó, các tác nhân dịch vụ đầu vào, chủ yếu là các cơ quan, cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển của ngành này.
- Ngân hàng, tín dụng địa phương giải quyết vấn đề vay vốn
Các hộ nông dân và đơn vị kinh tế tập trung sản xuất nấm mỡ
Cơ quan làm nhiệm vô xuÊt khÈu nÊm
(Un nh doanh, vật t−, hoá chất, công cụ lao động…
+ Tác nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm là hộ nông dân và các trang trại nấm, cơ sở sản xuất tập trung nh− làng nấm
Các tác nhân tiêu thụ trực tiếp trên thị trường bao gồm các công ty kinh doanh xuất khẩu, cùng với các tổ chức và cá nhân tham gia vào việc mua bán sản phẩm từ imex, như Vegetexco.
Các tổ chức thu mua nÊm, chÕ biÕn XK (công ty sản xuất và
Các cá nhân và tổ chức làm dịch vụ (cửa hàng rau sạch Vĩnh Phúc) cung cấp cho nhà hàng, KS
Do đặc điểm của nấm tươi, một số cơ quan thu mua đã đưa ra giá cả không hợp lý, gây bất lợi cho người sản xuất Điều này đã làm giảm hiệu quả kinh tế của nhiều loại nấm ăn Mặc dù người lao động không chịu thiệt hại lớn, họ vẫn cảm thấy quá trình thanh toán diễn ra chậm chạp, ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn.
Mặc dù có những khó khăn và thuận lợi, cả hai bên vẫn nỗ lực xây dựng niềm tin để cùng phấn đấu Điều này thể hiện rõ trong bảng 42, nơi giá thành và giá trị được xem xét một cách kỹ lưỡng.