MỞ ðẦU
Tớnh cấp thiết của ủề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của nhà nước Để duy trì sự tồn tại, nhà nước cần các nguồn tài chính để chi tiêu cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương, cũng như cho các công việc thuộc chức năng của nhà nước như quốc phòng, an ninh, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, cũng như các vấn đề phúc lợi cộng đồng và sự nghiệp xã hội lâu dài.
Thuế từ khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước và điều tiết sự phát triển của doanh nghiệp Để nâng cao vai trò của thuế, cần thiết phải tổ chức quản lý thu thuế một cách hiệu quả, đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã trải qua sự cải cách căn bản, với những thay đổi về pháp luật, chính sách, quy trình và thủ tục ở tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương Kết quả là, thu thuế từ khu vực này không chỉ tăng về số lượng mà còn đổi mới về cơ cấu nguồn thu, củng cố và nuôi dưỡng các nguồn thu Theo thống kê hiện hành, doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp hơn 71% tổng thu nội địa của ngân sách nhà nước hàng năm, trong đó chiếm trên 41% từ doanh nghiệp này, gấp nhiều lần so với các hộ kinh doanh cá thể.
Tuy vậy, bờn cạnh những kết quả ủạt ủược, quản lý thu thuế ủối với
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh ……… 2
Chi cục thuế huyện Gia Lâm vẫn gặp nhiều hạn chế trong quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD), bao gồm việc thực hiện các quy trình như tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, quản lý kê khai và kế toán thuế, kiểm tra thuế, quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế Những hạn chế này đã góp phần làm gia tăng tình trạng trốn thuế, nợ thuế và gian lận thuế của các doanh nghiệp tại đây, dẫn đến sự phức tạp trong công tác quản lý thuế.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, số lượng và quy mô doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) ngày càng gia tăng, dẫn đến sự biến động về nguồn thu từ các doanh nghiệp này tại Chi cục thuế Gia Lâm Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới quản lý thu thuế từ khu vực DNNQD, vì việc thu thuế từ khu vực này rất phức tạp và có nhiều đặc thù Do đó, cần cải cách quy trình, thủ tục và nâng cao trình độ quản lý của cán bộ thuế để đáp ứng những thách thức mới.
Việc nghiên cứu nhằm tìm giải pháp tăng cường công tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế Gia Lâm là vấn đề quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay Chúng tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài "Quản lý thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sỹ.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi cục thuế huyện Gia Lâm.
Hệ thống hoỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu thuế ủối với loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh ……… 3
Bài viết này phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế Gia Lâm Đồng thời, nó cũng đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý thu thuế, phù hợp với điều kiện mới tại huyện Gia Lâm.
ðối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNQD) tại Chi cục thuế Gia Lâm Luận văn tập trung vào các nội dung cơ bản như tổ chức bộ máy quản lý thu thuế, xây dựng và thực hiện kế hoạch thu thuế, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thu thuế, cùng với việc thực hiện các khâu trong quy trình quản lý thu thuế, bao gồm tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế (NNT), kê khai và kế toán thuế, kiểm tra thuế, quản lý nợ và cưỡng chế thuế.
Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận văn giới hạn trong lĩnh vực quản lý thu thuế ủối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.4.2 Ph ạ m vi v ề không gian nghiên c ứ u ðề tài nghiờn cứu ủược thực hiện tại Chi cục thuế huyện Gia Lõm trực thuộc Cục thuế thành phố Hà Nội
1.4.3 Ph ạ m vi v ề th ờ i gian nghiên c ứ u
Nghiên cứu lý luận về quản lý thu thuế trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phân tích thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế Gia Lâm được thực hiện từ năm 2007 đến năm 2011.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh ……… 4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ ðỐI VỚI DNNQD
Cơ sở lý luận về quản lý thu thuế ủối với DNNQD
2.1.1.1 Khái niệm và phân loại DNNQD
DN là một tổ chức kinh tế có tên gọi riêng, sở hữu tài sản và có trụ sở giao dịch ổn định DN được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNNQD là một tổ chức kinh tế do cá nhân sáng lập, có chức năng đầu tư vốn và quản lý theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNQD) bao gồm các loại hình doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Những doanh nghiệp này được sở hữu bởi một hoặc nhiều cá nhân, và chủ sở hữu tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, dù là hữu hạn hay vô hạn, cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên là doanh nghiệp mà các thành viên chịu trách nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi vốn góp của họ Các thành viên có thể là tổ chức hoặc cá nhân, với số lượng không vượt quá 50 và không có quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty TNHH một thành viên là loại hình doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, trong đó chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong giới hạn số vốn của công ty Đồng thời, loại hình này không có quyền phát hành cổ phiếu.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh ……… 5
Doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành cổ phần, với số lượng cổ đông tối thiểu là ba Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác trong giới hạn số vốn đã góp vào doanh nghiệp Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh, trong đó các thành viên này phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp Họ chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ tài chính của công ty, tức là bằng toàn bộ tài sản cá nhân Ngoài thành viên hợp danh, công ty còn có thể có thành viên góp vốn, những người này chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp Lưu ý rằng công ty hợp danh không được phép phát hành chứng khoán.
Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mỡnh về mọi hoạt ủộng của doanh nghiệp
DNNQD là các tổ chức và cá nhân hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn của cá nhân hoặc một số cá nhân đóng góp, theo cơ chế thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Doanh nghiệp tư nhân (DNNQD) sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về cá nhân, với việc quản lý và phân phối lợi nhuận do tư nhân thực hiện Hiệu quả sản xuất của DNNQD gắn liền với quyền lợi của những người sản xuất.
Mục tiêu hàng đầu trong kinh doanh là lợi nhuận, và nhiều doanh nghiệp sẵn sàng áp dụng các phương án táo bạo để tối đa hóa lợi nhuận, đôi khi dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho xã hội Doanh nghiệp tư nhân thường hoạt động tự phát và khó quản lý, với không ít cơ sở kinh doanh vi phạm pháp luật, trốn thuế và lợi dụng các kẽ hở trong hệ thống thuế.
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh ……… 6 ủơn chứng từ xin hoàn thuế sai quy ủịnh
Các cơ sở doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNQD) chủ yếu có quy mô nhỏ, với vốn đầu tư hạn chế và cấu trúc gọn nhẹ, giúp chúng linh hoạt và dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh Nhân viên thường làm việc theo kiểu đa năng, điều này góp phần giảm chi phí nhân công.
DNNQD đang được khuyến khích phát triển với môi trường thuận lợi, nhưng điều này không có nghĩa là buông lỏng quản lý Hệ thống pháp luật cần được thể chế hóa đầy đủ và rõ ràng, cả ở tầm vĩ mô và vi mô, nhằm phát huy tối đa mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của DNNQD trong cơ chế thị trường.
2.1.1.3 Vai trũ của DNNQD ủối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước (DNNQD) đóng vai trò quan trọng và ngày càng mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng của mình Để DNNQD phát huy hiệu quả, Nhà nước cần có các chính sách và điều kiện thuận lợi, nhằm hỗ trợ sự phát triển của khu vực này, góp phần vào sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNQD) đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, góp phần tích cực vào việc tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Góp phần quan trọng vào việc đạt được tăng trưởng kinh tế, cải thiện bộ mặt kinh tế - xã hội và tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ cho cộng đồng.
Là lĩnh vực chớnh thu hỳt lao ủộng xó hội, tạo cụng ăn việc làm cho người lao ủộng
Giải phúng sức lao ủộng và huy ủộng tối ủa cỏc nguồn lực trong dõn cư vào công cuộc phát triển kinh tế
Tạo mụi trường cạnh tranh, nõng cao tớnh năng ủộng hiệu quả cho nền kinh tế Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh ……… 7
2.1.2 Thu ế và cỏc s ắ c thu ế ỏp d ụ ng ủố i v ớ i DNNQD
2.1.2.1 Khái niệm và vai trò của thuế
Dưới giỏc ủộ thu tài chớnh nhà nước: thuế là hỡnh thức thu chủ yếu của
Cơ sở thực tiễn của ủề tài
2.2.1 M ộ t s ố kinh nghi ệ m v ề qu ả n lý thu thu ế ủố i v ớ i doanh nghi ệ p ở n ướ c ngoài và trong n ướ c
2.2.2.1 Kinh nghiệm về quản lý thu thuế ở nước ngoài
Khảo sát kinh nghiệm từ các nước phát triển như Australia, cùng với các quốc gia có điều kiện tương đồng như Indonesia và nền kinh tế chuyển đổi như Hungary, nhằm tìm hiểu những cải cách và hướng hoàn thiện trong quản lý thu thuế nói chung và quản lý thuế đối với doanh nghiệp nói riêng, tập trung vào các nội dung chủ yếu.
Để bắt đầu hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp (DN) cần thực hiện việc đăng ký thuế, đây là bước đầu tiên để cơ quan thuế quản lý người nộp thuế (NNT) Hầu hết các quốc gia đều áp dụng hệ thống mã số NNT trong việc đăng ký thuế Tại Indonesia, DN phải đăng ký thuế tại cơ quan thuế cấp quận, huyện trong vòng một tháng kể từ khi bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh để nhận mã số thuế Hiện có khoảng 2,8 triệu đối tượng nộp thuế GTGT và TNDN, trong đó có 812.782 DN Việc đăng ký và cấp mã số thuế vẫn được thực hiện theo phương pháp truyền thống bằng giấy Tại Hungary, từ năm 1996, mã số đã được cấp cho tất cả NNT.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã chỉ ra rằng cơ quan thuế cần phối hợp với các tổ chức khác để thu thập thông tin liên quan đến quản lý thuế, bao gồm đăng ký dân số và tổ chức có tư cách pháp nhân Đặc biệt, tại Australia, cơ quan thuế áp dụng phương châm coi người nộp thuế là khách hàng, với nhiều hình thức hỗ trợ như đăng ký thuế qua Internet chiếm gần 25%, qua hệ thống điện tử tại các đại lý thuế là 38%, và qua giấy tờ cũng là 38%.
Cả nước hiện có 3,7 triệu doanh nghiệp, trong đó có 2,2 triệu doanh nghiệp đã đăng ký nộp thuế hàng hóa và dịch vụ, tương tự như thuế giá trị gia tăng Các doanh nghiệp có doanh thu từ 50.000 USD/năm trở lên phải thực hiện đăng ký nộp thuế hàng hóa và dịch vụ, trong khi những doanh nghiệp có doanh thu dưới 50.000 USD/năm không thuộc đối tượng nộp thuế này mà chỉ phải nộp thuế thu nhập Sau khi đăng ký, các doanh nghiệp sẽ được cấp mã số thuế.
Công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế (NNT) là rất quan trọng và được thực hiện ở nhiều quốc gia thông qua việc thành lập bộ phận dịch vụ hỗ trợ tại các cơ quan thuế Mục tiêu là cung cấp dịch vụ chất lượng cao và kịp thời, giúp doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế hiệu quả Tại Indonesia, Tổng cục thuế cung cấp thông tin qua trang web, hỗ trợ trực tiếp và phát hành các ấn phẩm, tờ rơi Đặc biệt, chế độ khai thuế xanh được áp dụng cho những NNT chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, giúp họ được hoàn thuế nhanh chóng trong vòng một tuần Ngoài ra, có quy định rõ ràng về trách nhiệm của cán bộ thuế và NNT khi có sai sót trong tư vấn chính sách.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh đề cập đến các hình thức dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế (NNT) tại Hungary, bao gồm dịch vụ tư vấn qua điện thoại miễn phí, truy cập thông tin qua website, phần mềm kiểm tra thuế trực tuyến, và các tài liệu hướng dẫn về thuế Tại Australia, dịch vụ hỗ trợ NNT rất đa dạng và hiện đại, với việc quản lý thu thuế dựa trên mức độ tuân thủ của NNT, chia thành bốn nhóm: nhóm một là những đối tượng phản ứng hoặc trốn thuế, nhóm hai là những đối tượng chỉ nộp thuế khi bị yêu cầu, nhóm ba là những đối tượng không muốn nộp thuế nhưng vẫn thực hiện, và nhóm bốn là những đối tượng luôn mong muốn tuân thủ nghĩa vụ thuế.
Theo phân loại núi trên, chiến lược cung cấp dịch vụ cho các đối tượng nộp thuế rất đa dạng Đối với nhóm một, cơ quan thuế gặp trực tiếp theo hình thức "một đối một", yêu cầu người nộp thuế phải đến quầy dịch vụ Nhóm hai cũng gặp trực tiếp nhưng có hẹn trước Nhóm ba tham gia chương trình giáo dục và thông tin "một với nhiều người" Cuối cùng, nhóm bốn tự phục vụ thông qua các dịch vụ thông tin mà cơ quan thuế cung cấp dưới nhiều hình thức Hiện tại, cả nước có hai mươi trung tâm cung cấp dịch vụ thông tin của cơ quan thuế đặt tại các thành phố lớn, nơi tập trung phần lớn đối tượng nộp thuế.
Ba là, thanh tra, kiểm tra
Tại Indonesia, có nhiều loại thanh tra, bao gồm thanh tra tại cơ quan thuế, thanh tra tại cơ sở, thanh tra thường xuyên, thanh tra chứng cứ ban đầu, và thanh tra đặc biệt được thực hiện khi doanh nghiệp gặp sự bất thường.
Từ năm 2002 đến nay, thanh tra thuế đã tập trung ưu tiên vào doanh nghiệp quy mô vừa, trong khi việc thanh tra các doanh nghiệp lớn cần được sự chấp thuận của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế Tại Hungary, cơ quan thuế phân loại đối tượng nộp thuế thành năm nhóm để xây dựng chiến lược và kế hoạch thanh tra, kiểm tra Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp lớn, việc kiểm tra được thực hiện hàng năm.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cung cấp chương trình luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh, trong đó quy định rằng việc tra thuế được thực hiện 5 năm một lần Cơ quan thuế có quyền thanh tra và kiểm tra nghĩa vụ thuế của người nộp thuế trong vòng 5 năm trước đó, bao gồm cả việc kiểm tra bên thứ ba có liên quan.
Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế
Các nước trên thế giới đang ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý thuế, từ khâu đăng ký thuế, xử lý tờ khai, theo dõi thu nộp, đến xác định các tiêu chí đánh giá rủi ro Điều này giúp cơ quan thuế lựa chọn đối tượng thanh tra và kiểm tra, cũng như đối chiếu thuế đầu vào và đầu ra trong thanh tra thuế giá trị gia tăng Hệ thống CNTT tại Australia rất hiện đại, với mạng lưới quản lý thuế kết nối toàn quốc và tự động hóa trong việc đối chiếu thông tin 77% tờ khai thuế được cập nhật và xử lý tự động, trong khi 23% cần bổ sung hoặc làm rõ thông tin Hệ thống máy tính có khả năng xử lý nhiều nội dung khác nhau, bao gồm cả việc điều chỉnh tờ khai của các đối tượng nộp thuế có hình thức kế toán khác nhau.
Năm là, kê khai thuế qua mạng Internet
Tại Indonesia, từ tháng 7/2002, Tổng cục Thuế đã bắt đầu áp dụng việc kê khai thuế qua mạng, ưu tiên cho các doanh nghiệp có doanh thu từ 500 triệu đồng trở lên Hình thức kê khai thuế trực tuyến này mang lại nhiều lợi ích cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế.
Tại Hungary, người nộp thuế có thể tải mẫu tờ khai thuế trực tuyến và thực hiện khai thuế dễ dàng Chương trình tự động kiểm tra lỗi trong tờ khai và thông báo cho doanh nghiệp sửa chữa trước khi gửi đến cơ quan thuế Hiện nay, khoảng 3000 doanh nghiệp lớn tại Hungary đã thực hiện khai thuế qua mạng Tại Australia, dịch vụ khai thuế trực tuyến đã được giới thiệu từ năm
Trường ðại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh ……… 31
Từ năm 1990 trở về trước, chương trình áp dụng cho các đại lý thuế đã phát triển mạnh mẽ và mở rộng đáng kể Đây là một ưu tiên hàng đầu của cơ quan thuế Australia, được liên tục mở rộng hàng năm Chương trình mang lại nhiều lợi ích cho cơ quan thuế, bao gồm việc giảm khối lượng giấy tờ và công việc nhập dữ liệu, tiết kiệm nhân lực cho các khâu quản lý khác, và cung cấp số liệu chính xác, kịp thời Đồng thời, người nộp thuế cũng tiết kiệm được thời gian và chi phí.
2.2.2.2 Kinh nghiệm về quản lý thu thuế ở trong nước
Kinh nghiệm quản lý thu thuế ủối với doanh nghiệp tại Cục thuế tỉnh Quảng Ninh
Cục thuế tỉnh Quảng Ninh là một trong bốn tỉnh đầu tiên áp dụng cơ chế "tự khai tự nộp" từ năm 2004, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế Các nội dung công việc thực hiện cụ thể trong cơ chế này bao gồm việc hướng dẫn, hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình khai báo và nộp thuế.