MỞ ðẦU
Tớnh cấp thiết của ủề tài
Cải cách kinh tế theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh Hoạt động sự nghiệp cần có nguồn tài chính đa dạng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, nguồn tài chính cho hoạt động sự nghiệp không chỉ giới hạn trong ngân sách Nhà nước mà còn được hình thành qua quá trình xã hội hóa các hoạt động này.
Giáo dục đại học đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ thông qua các cuộc cải cách và phát triển mới Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh rằng phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản cho phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững Kinh nghiệm từ các nước có nền giáo dục đại học phát triển cho thấy Chính phủ cần tăng cường quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học.
Cải cách quản lý ở các trường đại học cần tuân thủ quy định của Nhà nước đồng thời có nội dung riêng biệt, vì các trường này có sứ mệnh đặc biệt trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và tạo ra kiến thức mới ứng dụng vào sản xuất và đời sống kinh tế xã hội.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là một đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, đã tích cực cải cách và đổi mới cơ chế quản lý tài chính sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 10/2002/NĐ-CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP Tự chủ tài chính đã nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của trường, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập ảnh hưởng đến mục tiêu đổi mới và thực hiện nhiệm vụ được giao Để đánh giá tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài "Đánh giá thực hiện tự chủ tài chính của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội".
Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên nghiên cứu về tình hình thực hiện tự chủ tài chính tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian qua, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện tự chủ tài chính của trường trong tương lai.
1 Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện tự chủ tài chớnh trong ủơn vị sự nghiệp cú thu và cỏc trường ủại học, cao ủẳng;
2 đánh giá thực trạng thực hiện tự chủ tài chắnh của Trường đại học Nội vụ Hà Nội giai ủoạn 2010-2012;
3 ðề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện tự chủ tài chính của Trường ðại học Nội vụ Hà Nội ủến năm 2015 và tầm nhỡn ủến năm 2020.
Câu hỏi nghiên cứu
Nghiờn cứu này nhằm trả lời cỏc cõu hỏi sau ủõy liờn quan ủến việc thực hiện tự chủ tài chính của Trường ðại học Nội vụ Hà Nội:
1 Việc thực hiện tự chủ tài chính ở Trường ðại học Nội vụ Hà Nội thời gian qua diễn ra như thế nào?
2 Những thuận lợi, khó khăn mà Trường gặp phải khi thực hiện tự chủ tài chính?
3 Giải phỏp nào cần ủề xuất nhằm nõng cao chất lượng thực hiện tự chủ tài chính của Trường ðại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian tới?
ðối tượng, phạm vi nghiên cúu
Nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt là các trường đại học công lập Tập trung phân tích công tác tự chủ tài chính tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
* Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại Trường ðại học Nội vụ Hà Nội ðịa chỉ: 36 ủường Xuõn La, phường Xuõn La, quận Tõy Hồ, Hà Nội
+ Số liệu nghiờn cứu thu thập trong giai ủoạn 3 năm từ 2010-2012
+ Thời gian tiến hành nghiờn cứu: Thỏng 5/2012 ủến thỏng 10/2013
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ðỀ NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý luận
2.1.1 Cơ sở lý luận về tự chủ tài chớnh và ủơn vị sự nghiệp cú thu
2.1.1.1 ðơn vị sự nghiệp có thu a) Khái niệm
Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập Theo đó, các đơn vị này phải thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và quản lý tài chính một cách độc lập Đơn vị sự nghiệp công lập được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể nhằm đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch trong hoạt động.
Các đơn vị công lập được thành lập bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoạt động nhằm cung cấp dịch vụ công trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, văn hóa thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế và dịch vụ việc làm.
- ðược nhà nước ủầu tư cơ sở vật chất, ủảm bảo chi phớ hoạt ủộng thường xuyờn ủể thực hiện cỏc nhiệm vụ chớnh trị, chuyờn mụn ủược giao
Đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho phép thu một số loại phí và lệ phí nhất định trong quá trình hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ, nhằm bù đắp chi phí hoạt động và tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức.
- Có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng
Các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động cung cấp dịch vụ công và có khả năng thu phí, tuy nhiên không phải tất cả đều có nguồn thu ổn định Nguồn thu của các đơn vị này rất đa dạng, phụ thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề và địa phương Do đó, áp dụng một cơ chế tài chính chung cho tất cả các loại hình đơn vị sự nghiệp sẽ không đạt hiệu quả cao Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp có thu giống với các đơn vị sự nghiệp nói chung, nhưng cũng có những đặc thù riêng, ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính của đơn vị.
- Hoạt ủộng theo chớnh trị chuyờn mụn ủược giao khụng vỡ lợi ớch sinh lời
Chủ động bố trí kinh phí để thực hiện nhiệm vụ và ổn định kinh tế là trách nhiệm của các đơn vị Các đơn vị này cần tự đảm bảo một phần chi phí theo định kỳ ba năm, với mức tăng hàng năm được Chính phủ quyết định.
Để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức cung ứng dịch vụ có thể vay tín dụng từ ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ phát triển Tổ chức này cần tự chịu trách nhiệm trong việc trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
Bạn có thể mở tài khoản tiền gửi tại các Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi trong hoạt động cung ứng dịch vụ cũng như các khoản kinh phí thuộc tài chính Nhà nước.
Cơ quan có thẩm quyền sẽ sử dụng số biên chế được cấp để sắp xếp và quản lý lao động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, theo quy định của pháp lệnh công chức và chủ trương tinh giản biên chế của Nhà nước.
Đơn vị thu được một số loại phí, lệ phí từ các hoạt động như học phí, viện phí, và phí kiểm dịch Các khoản phí này được thu từ cá nhân và tập thể sử dụng dịch vụ do đơn vị cung cấp.
Các đơn vị sự nghiệp có thu chịu sự quản lý trực tiếp từ cơ quan chủ quản như Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố Đồng thời, chúng cũng phải tuân thủ sự quản lý chuyên môn từ các Bộ, ngành chức năng liên quan đến lĩnh vực hoạt động của mình, cũng như chính quyền địa phương nơi đơn vị đặt trụ sở Do đó, hoạt động của các đơn vị này bị ảnh hưởng bởi nhiều cấp quản lý, tạo ra mối quan hệ phức tạp trong cơ chế quản lý của đơn vị.
2.1.1.2 Tự chủ tài chớnh của cỏc trường ủại học a) Tự chủ tài chính
Các đơn vị hành chính sự nghiệp (HCSN) có thu là những tổ chức được thành lập và hoạt động theo sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Những đơn vị này hoạt động trong khuôn khổ giấy phép thành lập và phải tuân thủ các quy định về thu chi tài chính theo luật Ngân sách.
Các đơn vị HCSN chủ yếu bao gồm các cơ quan giáo dục quốc dân từ bậc mầm non đến đại học, cơ quan quốc phòng các cấp, hệ thống y tế từ trung ương đến địa phương và một số cơ quan cung cấp dịch vụ công khác Hàng năm, các đơn vị sự nghiệp, đặc biệt là các trường công lập, lập dự toán thu chi tài chính, và cơ quan chủ quản cấp trên sẽ giao dự toán ngân sách nhà nước cho các đơn vị để phục vụ cho các khoản chi thường xuyên và không thường xuyên Nguồn kinh phí xây dựng cơ bản được giao riêng cho từng dự án, khác nhau giữa các đơn vị và phân phối dựa trên quy mô, lĩnh vực hoạt động và tình hình tài chính trước đó Ngoài ngân sách cấp, nhiều đơn vị sự nghiệp, đặc biệt là trường công lập, còn có nguồn thu từ học phí, lệ phí và các hoạt động liên kết, hợp tác với bên ngoài Các nguồn thu này được sử dụng để duy trì và phát triển hoạt động của đơn vị sau khi hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, nhưng vẫn phải tuân thủ quản lý của Nhà nước thông qua kiểm soát nghiêm ngặt của Kho bạc, nơi đơn vị mở tài khoản giao dịch Kho bạc đóng vai trò trung gian theo dõi việc thu và quản lý nguồn thu của đơn vị theo yêu cầu của cơ quan tài chính cấp trên.
Chúng ta có thể nhận thấy các đặc điểm cơ bản về tình hình thu chi tài chính của đơn vị sự nghiệp, trong đó mọi nguồn thu và khoản chi phí đều được giám sát một cách hợp lý dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước như Kho bạc, kiểm toán nhà nước và thanh tra tài chính.
Với xu hướng phát triển hiện nay, các đơn vị HCSN hoạt động chủ yếu để cung cấp dịch vụ công cho xã hội Những đơn vị này hoàn toàn phụ thuộc vào chỉ đạo từ các cơ quan cấp trên trong bộ máy quản lý, nhân sự và tài chính Do đó, yêu cầu tự chủ cho các đơn vị HCSN, bao gồm tự chịu trách nhiệm về tổ chức, biên chế và thực hiện nhiệm vụ tài chính, trở thành một đòi hỏi tất yếu và hợp thời.
Núi ủến tự chủ trong cỏc trường ủại học đề cập đến mối quan hệ giữa sự can thiệp của hệ thống hành chính nhà nước và quyền, trách nhiệm của các chủ thể giáo dục đại học, bao gồm giảng viên, sinh viên, và các tổ chức hành động như nhà trường cùng các bộ phận trong trường đại học.
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình thực hiện tự chủ tài chính ở Việt Nam
Trong giai đoạn 2001-2010, lộ trình cải cách hành chính của Nhà nước đã thúc đẩy việc đổi mới cơ chế chính sách đối với lĩnh vực sự nghiệp công Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP vào ngày 25-4-2006, quy định về cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập Theo đó, các đơn vị sự nghiệp giáo dục - đào tạo công lập sẽ thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.
Trong giai đoạn 2001-2010, Nhà nước đã ưu tiên dành nguồn vốn 603.870 tỷ đồng cho phát triển các dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, chiếm hơn 20% tổng chi ngân sách nhà nước từ năm 2008.
Theo tổng kết của Vụ Hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính), tính đến cuối năm 2011, có 20.226 đơn vị sự nghiệp giáo dục - đào tạo công lập được giao quyền tự chủ tài chính Trong số đó, 117 đơn vị tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên (chiếm 0,6%), 6.902 đơn vị đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên (chiếm 34,1%), và 13.207 đơn vị do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động (chiếm 65,3%).
Theo thống kê, tỷ lệ các đơn vị giáo dục - đào tạo tự đảm bảo kinh phí còn rất thấp Cụ thể, trong số 238 đơn vị sự nghiệp giáo dục - đào tạo thuộc bộ, ngành trung ương, chỉ có 33 đơn vị (11,7%) tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên, trong khi 238 đơn vị (84%) được ngân sách nhà nước đảm bảo một phần và 12 đơn vị (4,3%) được ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ Tương tự, trong 19.943 đơn vị sự nghiệp công lập ở địa phương, chỉ có 0,4% (84 đơn vị) tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên, trong khi 13.195 đơn vị (66,2%) được ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động.
2.2.2 Bài học thực tế và những vấn ủề cần giải quyết ủể thực hiện thành cụng tự chủ tài chớnh cỏc trường ủại học, cao ủẳng cụng lập
Chủ trương giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các trường, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, là một bước đi phù hợp với xu hướng quản trị toàn cầu hiện nay.
Trong bối cảnh chi phí giáo dục đại học ngày càng tăng, các quốc gia không thể tiếp tục bao cấp cho giáo dục Do đó, giáo dục đại học cần được coi là một hàng hóa đặc biệt với xu hướng “người dùng trả tiền” Học phí sẽ tăng và các trường đại học sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào sinh viên, vì nguồn tài chính chủ yếu vẫn đến từ học phí trong những thập niên tới Nhà nước sẽ giảm dần bao cấp cho các trường công và tập trung vào các mục tiêu chiến lược, như đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản và khoa học xã hội Vì vậy, tự chủ tài chính là bước đi phù hợp với quy luật phát triển.
Để thúc đẩy tự chủ tài chính (TCTC), các trường cần thay đổi tư duy và cách ứng xử, trở nên năng động và hoạt động theo tinh thần doanh nghiệp Họ phải tính toán hiệu quả và được hưởng thành quả dựa trên kết quả hoạt động của mình Thay vì chờ đợi nguồn ngân sách, các trường cần chủ động cải thiện chất lượng để thu hút sinh viên và tồn tại trong môi trường cạnh tranh, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động Cơ chế tự chủ tài chính sẽ tạo động lực đổi mới và cung cấp khuôn khổ pháp lý phù hợp cho các trường thực hiện những đổi mới này Đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục đại học cần gắn liền với cải cách phương thức quản trị ở cấp hệ thống TCTC sẽ không phát huy tác dụng nếu không kết hợp với quyền tự chủ trong các lĩnh vực khác như tuyển sinh, mở ngành, tuyển chọn nhân sự và trả lương.
TCTC không chỉ tạo ra hiệu quả và chất lượng mà còn là một điều kiện cần thiết Nếu các trường đại học được phép sở hữu và tự quyết định về việc sử dụng tài sản và vốn vay, họ có thể mở rộng không gian để tăng cường nguồn lực cho trường.
Việc cho phép các trường đại học tự quyết định mức thu học phí dựa trên ngành học và điều kiện chất lượng đào tạo sẽ tạo ra sự cạnh tranh hấp dẫn người học Nhà nước cần đảm bảo rằng mọi cá nhân, bất kể nguồn gốc và hoàn cảnh kinh tế, đều có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay để theo đuổi bậc đại học nếu họ có năng lực và nguyện vọng Chính sách tài trợ và cho vay sinh viên phải được xem là điều kiện tiên quyết cho sự tự chủ tài chính của các trường Theo GS.TS.NGND Ngụ Thế Chi, Giám đốc Học viện Tài chính, giao quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển quốc tế, nhưng cần tránh tình trạng "tự chủ nửa vời" để phát huy hiệu quả.
Giỏo sư Ngụ Thế Chi ủó cú ý kiến như sau về cơ chế tự chủ ủối với cỏc trường ủại học cụng lập hiện nay:
Theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, các trường đại học công lập được tự chủ trong việc tổ chức, biên chế và tài chính, nhưng chưa được giao quyền tự chủ thực sự trong việc huy động nguồn lực tài chính từ học phí Điều này tạo ra một bất cập lớn, khiến các trường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và huy động tài chính cho đầu tư phát triển, thu hút nhân tài và xây dựng cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Học viện Tài chính hiện đang thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo phương án thí điểm của Bộ.
GS.TS Ngụ Thế Chi đã chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai tự chủ tài chính tại Học viện Tài chính Ông cho biết, Học viện Tài chính được thực hiện tự chủ tài chính theo cơ chế của Bộ Tài chính, điều này mở ra cơ hội cho sự tự chủ Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều khó khăn do sự thiếu đồng bộ giữa tự chủ tài chính với nhân sự, bộ máy, quản lý và sử dụng tài sản.
Học phí tăng theo lộ trình nhưng để đảm bảo tự trang trải các chi phí, mức học phí hiện tại vẫn chưa tương xứng.
Cơ sở vật chất của các trường đại học lớn trong quá khứ, như Học viện Tài chính, thường rất chật hẹp và thiếu đồng bộ Mặc dù Bộ Tài chính đã giao chỉ tiêu cho các trường, nhưng tiêu chí này chủ yếu dựa vào giảng viên cơ hữu và không tính đến cơ sở vật chất cần thiết cho việc giảng dạy, đặc biệt là trong các khóa học Hơn nữa, do Học viện thuộc Bộ Tài chính, tổ chức bộ máy và quy trình tuyển dụng giảng viên vẫn chưa được phân cấp rõ ràng.
Mức thu - chi trong giáo dục hiện nay đã lạc hậu và không còn phù hợp, gây khó khăn cho việc tự chủ tài chính Ví dụ, các khoản chi phát sinh trong giáo dục như học lại, thi lại không được đưa vào danh mục thu, dẫn đến việc không có nguồn lực để tổ chức Trong khi đó, mức hỗ trợ cho giáo viên chỉ khoảng 2 triệu đồng cho nghiên cứu khoa học, không đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế Khấu hao thiết bị trong trường học cũng gặp vấn đề, khi chỉ sau hơn một năm sử dụng đã hết khấu hao, trong khi quy định là 5 năm Để giải quyết những khó khăn này, cần có sự hỗ trợ từ Học viện, theo ý kiến của GS.TS Ngụ Thế Chi.