1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quản Trị Doanh Nghiệp Và Thành Quả Hoạt Động - Bằng Chứng Thực Nghiệm Của Các Công Ty Niêm Yết

79 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quản Trị Doanh Nghiệp Và Thành Quả Hoạt Động: Bằng Chứng Thực Nghiệm Của Các Công Ty Niêm Yết
Tác giả Trần Ngọc Minh Quang
Người hướng dẫn TS. Lê Đạt Chí
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp.Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Quản Trị Doanh Nghiệp
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 79
Dung lượng 772,89 KB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • Tóm tắt

  • 1. Giới thiệu

    • 1.1 Lý do chọn đề tài nghiên cứu

    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

    • 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • 2. Cơ sở lý thuyết

    • 2.1 Mối quan hệ giữa cơ cấu tổ chức của bộ máy quản trị, điều hành và thành quả hoạt động của doanh nghiệp.

      • 2.1.1 Số lượng thành viên HĐQT

      • 2.1.2 Số lượng thành viên HĐQT độc lập p

      • 2.1.3 Việc kiêm nhiệm chức danh Tổng Giám đốc và Chủ tịch HĐQT

      • 2.1.4 Số năm đương nhiệm của Tổng Giám đốc.

    • 2.2 Mối quan hệ giữa hoạt động của HĐQT và thành quả hoạt động của doanh nghiệp.

    • 2.3 Mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu doanh nghiệp và thành quả hoạt động của doanh nghiệp.

      • 2.3.1 Sở hữu của cổ đông nhà nước

      • 2.3.2 Sở hữu nước ngoài

  • 3. Phương pháp nghiên cứu

    • 3.1 Dữ liệu nghiên cứu

    • 3.2 Các biến nghiên cứu

      • 3.2.1 Các biến quản trị doanh nghiệp:

      • 3.2.2 Các biến đo lường thành quả hoạt động của doanh nghiệp:

    • 3.3 Phương pháp nghiên cứu

  • 4. Kết quả nghiên cứu

    • 4.1 Thống kê mô tả dữ liệu

      • 4.1.1 Các biến thành quả hoạt động

      • 4.1.2 Các biến quản trị doanh nghiệp

    • 4.2 Kết quả nghiên cứu

      • 4.2.1 Kết quả phân tích ANOVA

      • 4.2.2 Kết quả hồi quy đa biến với tác động cố định

  • 5. Kết luận

    • 5.1 Các kết quả nghiên cứu chính

      • 5.1.1 Về kết quả phân tích ANOVA:

      • 5.1.2 Về kết quả hồi quy đa biến với tác động cố định

    • 5.2 Những hạn chế của nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo

  • Danh mục tài liệu tham khảo

  • PHỤ LỤC 1

  • PHỤ LỤC 2

Nội dung

Gi ớ i thi ệ u

Lý do ch ọ n đề tài nghiên c ứ u

Sau nhiều vụ sụp đổ của các tập đoàn lớn như Enron và WorldCom do quản trị doanh nghiệp kém, cũng như sự gia tăng nguy cơ khủng hoảng tài chính, việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp trở nên vô cùng quan trọng.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động nghiêm trọng đến thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt là sự sụp đổ của thị trường chứng khoán sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007 Tình hình này không chỉ ảnh hưởng đến Việt Nam mà còn tác động đến triển vọng tăng trưởng của các thị trường chứng khoán toàn cầu Mặc dù Việt Nam đã chú trọng hoàn thiện các quy định về quản trị doanh nghiệp, nhưng việc tuân thủ các quy định này vẫn chưa được thực thi một cách triệt để.

Hình 1: Kết quả về quản trị công ty tại Việt Nam năm 2009, 2010, 2011

Nguồn: Báo cáo thẻ điểm Quản trị Công ty 2012

Theo báo cáo thẻ điểm quản trị công ty năm 2012 của Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) và Diễn đàn Quản trị Công ty Toàn cầu (GCGF) phối hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC), điểm số trung bình của 100 doanh nghiệp niêm yết lớn nhất trong năm 2012 được đánh giá và thể hiện qua hình 1.

Năm 2010, điểm số bình quân của doanh nghiệp có sự tăng nhẹ so với năm 2009, nhưng đến năm 2011, chỉ số này đã giảm xuống còn 42,5% Sự chênh lệch trong điểm số quản trị công ty cũng gia tăng, với nhiều doanh nghiệp đạt điểm dưới mức trung bình hơn Báo cáo khảo sát 100 công ty niêm yết lớn nhất trên hai sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam chỉ ra sự suy giảm trong việc áp dụng các nguyên tắc quản trị công ty hiệu quả.

Việt Nam vẫn chưa hoàn thành trách nhiệm trong việc xây dựng một thị trường đầu tư chất lượng Mặc dù khung thể chế về quản trị công ty đã được cải thiện, các cơ quan quản lý đã tích cực ban hành văn bản nhằm nâng cao quản trị công ty Luật các Tổ chức tín dụng mới được thông qua vào năm 2010, tiếp theo là Thông tư 09/2010 và Thông tư 52/2012 về công bố thông tin Quy chế Quản trị công ty cũng được ban hành vào tháng 07/2012, tạo ra thách thức cho các công ty có chất lượng quản trị kém Khi tiêu chuẩn được nâng cao, các công ty cần nỗ lực để hiểu và áp dụng các yêu cầu mới nhằm cải thiện quản trị công ty.

Trong thời gian qua, quy định về quản trị doanh nghiệp đã được chú trọng xây dựng và áp dụng thực tiễn Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu về đề tài này còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào tác động của cơ cấu tổ chức quản trị đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

4 nghiệp Các nghiên cứu về cơ chế quản trị doanh nghiệp như vai trò của

HĐQT hay cơ cấu sở hữu doanh nghiệp ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp chỉ mới được thực hiện ở một số nước Phương Tây, Nhật

Bản, Trung Quốc, Thái Lan…, các đề tài này chưa được thực hiện nghiên cứu nhiều tại Việt Nam

Nghiên cứu này khám phá mối liên hệ giữa quản trị doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

M ụ c tiêu nghiên c ứ u và câu h ỏ i nghiên c ứ u

Nghiên cứu này nhằm khám phá mối quan hệ giữa quản trị doanh nghiệp tại Việt Nam và các yếu tố như cơ cấu tổ chức, hoạt động của Hội đồng Quản trị (HĐQT), cũng như cơ cấu sở hữu doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm trả lời 3 câu hỏi nghiên cứu sau:

Có tồn tại mối quan hệ giữa cơ cấu tổ chức của bộ máy quản trị, điều hành và thành quả hoạt động của doanh nghiệp?

Các hoạt động của HĐQT có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp?

Cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp tác động như thế nào đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp?

Đố i t ượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u

Hiện nay, trên sàn giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội có hơn 700 công ty niêm yết Trong số đó, 100 công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất chiếm hơn 95% tổng giá trị thị trường.

Để đại diện cho toàn bộ thị trường chứng khoán, 100 công ty niêm yết có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất sẽ được lựa chọn từ 5 trường.

Phạm vi nghiên cứu tập trung vào việc thu thập thông tin tài chính, bao gồm kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán, cùng với thông tin phi tài chính như số lượng và cơ cấu thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT), cũng như cơ cấu cổ đông của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2012.

C ơ s ở lý thuy ế t

M ố i quan h ệ gi ữ a c ơ c ấ u t ổ ch ứ c c ủ a b ộ máy qu ả n tr ị , đ i ề u hành và thành

2.1.1 Số lượng thành viên HĐQT

Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa số lượng thành viên

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa số lượng thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) và thành quả hoạt động của doanh nghiệp cho thấy có nhiều quan điểm khác nhau Ma & Tian (2009) chỉ ra rằng, mặc dù số lượng thành viên HĐQT nhiều có thể nâng cao khả năng giám sát, nhưng lại làm giảm hiệu quả hoạt động do thời gian thảo luận kéo dài Ngược lại, Yermack (1996) phát hiện mối quan hệ nghịch biến giữa số lượng thành viên HĐQT và giá trị doanh nghiệp ở các công ty niêm yết tại Mỹ Trong khi đó, Chen (2008) cung cấp bằng chứng cho thấy doanh nghiệp có số lượng thành viên HĐQT lớn hơn lại có độ biến động thấp hơn trong các chỉ tiêu thành quả hoạt động Những nghiên cứu này sẽ được trình bày chi tiết hơn trong phần dưới đây.

Nghiên cứu của Bennedsen (2008) cho thấy rằng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số lượng thành viên HĐQT dưới 6 không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động, nhưng với từ 7 thành viên trở lên, tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh được ghi nhận Ông nhấn mạnh rằng việc lựa chọn số lượng thành viên HĐQT phù hợp là cần thiết để tạo ra cơ chế giám sát hiệu quả, tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải cân nhắc giữa lợi ích của sự giám sát và các yếu tố khác.

7 chi phí có thể phát sinh do việc tự do sử dụng các nguồn lực (free riding) của các thành viên HĐQT

Nghiên cứu của Dung (2011) cho thấy không có mối quan hệ tương quan giữa quy mô Hội đồng Quản trị (HĐQT) và thành quả hoạt động của 100 công ty niêm yết hàng đầu trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009 Nguyên nhân được chỉ ra là do các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tiến hành niêm yết trong thời gian ngắn, dẫn đến việc các khái niệm về quản trị doanh nghiệp chưa được tiếp thu và thực hiện hiệu quả.

Nghiên cứu của Ehikioya (2009) về các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Nigeria chỉ ra rằng số lượng thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Cụ thể, những doanh nghiệp có nhiều thành viên HĐQT thường đạt được thành quả hoạt động vượt trội hơn so với các doanh nghiệp có ít thành viên HĐQT.

Nghiên cứu của Mak & Kusnadi (2005) chỉ ra rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa số lượng thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) và giá trị doanh nghiệp Hơn nữa, mức độ ảnh hưởng của số lượng thành viên HĐQT đến giá trị doanh nghiệp còn khác nhau tùy thuộc vào từng hệ thống quản trị doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Andres (2005) về các quốc gia thuộc khối OCED cho thấy rằng số lượng thành viên trong Hội đồng Quản trị không có tác động tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp.

Kết quả nghiên cứu được thực hiện trong thời gian gần đây của Shukeri

(2012) tìm thấy số lượng thành viên HĐQT tác động tích cực đến chỉ tiêu sinh lợi ROA của các doanh nghiệp Malaysia được niêm yết

2.1.2 Số lượng thành viên HĐQT độc lập

Hầu hết các quy tắc quản trị doanh nghiệp yêu cầu Hội đồng Quản trị (HĐQT) của các doanh nghiệp niêm yết phải có thành viên độc lập Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các thành viên HĐQT độc lập đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp lại cho ra những kết quả khác nhau Theo lý thuyết chi phí đại diện của Jensen & Meckling (1976) và Fama, sự hiện diện của các thành viên độc lập có thể ảnh hưởng đến quyết định quản lý và kết quả kinh doanh.

& Jensen (1983), Shleifer & Vishny (1997) cho rằng số lượng các thành viên

Sự gia tăng số lượng thành viên độc lập trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) sẽ cải thiện khả năng giám sát các xung đột lợi ích giữa cổ đông và nhà quản lý Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ tích cực giữa số lượng thành viên HĐQT độc lập và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Ponnu (2008) về mối quan hệ giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và thành quả hoạt động doanh nghiệp, được đo lường qua ROA và ROE, đã được thực hiện trên mẫu các doanh nghiệp lớn niêm yết tại Malaysia Kết quả cho thấy không có mối tương quan giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và thành quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Z.Chen, Cheung, Stouraitis & Wong (2005) về cơ cấu

Nghiên cứu cho thấy có mối tương quan tương đối thấp giữa thành phần Hội đồng Quản trị (HĐQT), bao gồm tỷ lệ thành viên độc lập và không kiêm nhiệm, với thành quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Frick & Bermig (2009) chỉ ra rằng tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có tác động không đồng nhất đến giá trị và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Lefort & Urzua (2008) tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa thành viên HĐQT độc lập và thành quả hoạt động của doanh nghiệp đối với các

Nghiên cứu về 9 doanh nghiệp niêm yết ở Chile cho thấy tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, được đo lường bằng chỉ số Tobin’s Q.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Cụ thể, nghiên cứu của Hossain (2001) tại New Zealand cho thấy tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có ảnh hưởng tích cực đến thành quả hoạt động Tương tự, Busta (2008) cũng tìm thấy mối liên hệ này trong các ngân hàng Châu Âu, mặc dù mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào hệ thống quản trị Nghiên cứu của Dung (2011) khẳng định rằng các thành viên HĐQT độc lập nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, đo bằng chỉ số ROA Cuối cùng, nghiên cứu gần đây của Awan (2012) về các doanh nghiệp niêm yết ở Pakistan cũng xác nhận mối quan hệ tích cực giữa các thành viên HĐQT độc lập không tham gia điều hành và hiệu quả hoạt động, được đo qua ROA và ROE.

2.1.3 Việc kiêm nhiệm chức danh Tổng Giám đốc và Chủ tịch HĐQT

Lý thuyết chi phí đại diện nhấn mạnh sự cần thiết phải tách biệt trách nhiệm giữa Tổng Giám đốc (TGĐ) và Chủ tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT), vì hai chức danh này không nên do một cá nhân nắm giữ Nguyên nhân là nếu TGĐ và Chủ tịch HĐQT là một, việc giám sát hoạt động của TGĐ sẽ không hiệu quả, dẫn đến việc TGĐ có thể tập trung quyền lực và tối đa hóa lợi ích cá nhân.

10 lợi ích cá nhân bằng chi phí của các cổ đông, theo Coskan & Sayiar (2012)

Do đó, cần có sự phân tách rõ ràng giữa hai chức danh TGĐ và chủ tịch

HĐQT có vai trò quan trọng trong việc giám sát hoạt động của TGĐ, đảm bảo tính khách quan và hiệu quả Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa việc kiêm nhiệm của TGĐ và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, với các kết luận đa dạng.

M ố i quan h ệ gi ữ a ho ạ t độ ng c ủ a H Đ QT và thành qu ả ho ạ t độ ng c ủ a doanh

Hoạt động của Hội đồng quản trị (HĐQT) được thể hiện qua tần suất họp, một yếu tố quan trọng trong chức năng của HĐQT Nghiên cứu của Ma & Tian (2009) về các doanh nghiệp niêm yết tại Trung Quốc trong giai đoạn 2003-2004 cho thấy tần suất họp của HĐQT có tác động tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp, trong khi tần suất họp của cổ đông lại có ảnh hưởng tích cực.

Tần suất họp của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và cổ đông có ảnh hưởng lớn đến giá trị doanh nghiệp Cụ thể, khi HĐQT họp thường xuyên, điều này có thể chỉ ra rằng doanh nghiệp đang gặp phải nhiều vấn đề nội bộ và quy trình ra quyết định không hiệu quả Ngược lại, tần suất họp cao của cổ đông thể hiện sự tin tưởng vào ban điều hành và các đề xuất của HĐQT Nghiên cứu của Vafeas (1999) trên 307 doanh nghiệp trong giai đoạn 1990-1994 cho thấy rằng số cuộc họp HĐQT hàng năm có mối quan hệ nghịch với giá trị doanh nghiệp, vì sự gia tăng hoạt động của HĐQT thường dẫn đến sự sụt giảm giá cổ phiếu.

Ngược lại, nghiên cứu của Dung (2011) đưa đến kết luận tần suất họp của

HĐQT có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, được thể hiện qua chỉ số ROA Nghiên cứu cho thấy ROA đạt giá trị cao nhất khi HĐQT tổ chức từ 4 đến 6 cuộc họp hàng năm.

M ố i quan h ệ gi ữ a c ơ c ấ u s ở h ữ u doanh nghi ệ p và thành qu ả ho ạ t độ ng c ủ a

2.3.1 Sở hữu của cổđông nhà nước

Nghiên cứu về ảnh hưởng của sở hữu cổ đông nhà nước đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp cho thấy rằng các doanh nghiệp tư nhân thường đạt thành quả tốt hơn so với doanh nghiệp nhà nước trong các thị trường cạnh tranh (Megginson và Netter, 2001) Najid và Abdul Rahman (2011) chỉ ra rằng các công ty nhà nước thiếu các yếu tố kinh doanh cần thiết, bị chi phối bởi các yếu tố chính trị, dẫn đến kết quả tài chính kém Hơn nữa, Mak và Li (2001) nhấn mạnh rằng chính phủ thường thiếu sự chủ động trong việc giám sát và quản lý các doanh nghiệp này.

Sự yếu kém trong hệ thống kế toán và giám sát tài chính của doanh nghiệp nhà nước có thể làm giảm động lực áp dụng quản trị tốt Nghiên cứu của Bos (1991) cho thấy khi Chính Phủ nắm giữ cổ phần chi phối, việc giám sát quản trị sẽ chặt chẽ hơn, giúp giảm chi phí đại diện và tăng khả năng sinh lợi Eng và Mak (2003) chỉ ra rằng doanh nghiệp nhà nước thường giảm bất cân xứng thông tin và dễ dàng tiếp cận nguồn tài trợ hơn Aljifri và Moustafa (2007) kết luận rằng doanh nghiệp nhà nước ít gặp áp lực tuân thủ quy định báo cáo tài chính, cho phép quản lý cải thiện báo cáo hoạt động Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mối quan hệ giữa sở hữu cổ đông nhà nước và thành quả hoạt động của doanh nghiệp có nhiều điểm đáng chú ý.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa sở hữu của cổ đông nhà nước và thành quả hoạt động của doanh nghiệp Cụ thể, nghiên cứu của Aljifri và Moustafa (2007) cho thấy sự sở hữu của cổ đông nhà nước có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đối với hiệu suất của các công ty tại các tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất (UAE) Tương tự, Najid và Rahman (2011) cũng khẳng định rằng sở hữu của cổ đông nhà nước có mối liên hệ tích cực và có ý nghĩa thống kê với thành quả hoạt động của doanh nghiệp Malaysia Hơn nữa, nghiên cứu của Ang và Ding (2006) đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp có yếu tố nhà nước cũng đạt được hiệu quả hoạt động cao hơn.

Singapore được định giá cao hơn và có hệ thống quản trị doanh nghiệp tốt hơn so với các doanh nghiệp Singapore không có yếu tố nhà nước

Một số nghiên cứu cho thấy mối quan hệ ngược lại giữa sở hữu nhà nước và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Xu và Wang (1999) đã nghiên cứu các doanh nghiệp tại Trung Quốc và phát hiện mối quan hệ tương quan âm giữa thành quả hoạt động và tỷ lệ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước Nghiên cứu của Dung cũng hỗ trợ cho nhận định này.

Nghiên cứu năm 2011 cho thấy không có mối liên hệ rõ ràng giữa tỷ lệ sở hữu của cổ đông nhà nước và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Sự xuất hiện của các cổ đông chiến lược nước ngoài được kỳ vọng sẽ cải thiện quản trị doanh nghiệp và kết quả hoạt động Các nhà đầu tư nước ngoài thường tìm kiếm tỷ suất sinh lợi cao và do đó, họ chú trọng vào việc xây dựng hệ thống giám sát hiệu quả để ngăn chặn lạm dụng quyền hạn của các nhà quản lý Những nhà đầu tư này thường đến từ các quốc gia có hệ thống quản trị tốt hơn và mong muốn áp dụng những tiêu chuẩn này vào doanh nghiệp mà họ đầu tư Việc thiết lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ từ các nhà đầu tư nước ngoài có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nghiên cứu của Stulz (1999) cho thấy các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài giúp giảm chi phí đại diện, trong khi nghiên cứu của Kingsley (2012) chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa quản trị doanh nghiệp và thành quả hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm tại Ghana.

16 quan dương giữa việc sở hữu của cổđông nước ngoài và thành quả hoạt động của các công ty

Theo nghiên cứu của Coffee (1991) và Aguilera và Jackson (2003), cổ đông nước ngoài được chia thành hai loại: cổ đông đầu tư theo mục đích tài chính và cổ đông đầu tư theo mục đích chiến lược Cổ đông tài chính thường có khả năng quản lý vốn tốt nhưng chủ yếu tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn, không sẵn sàng cam kết đầu tư dài hạn Họ ưu tiên tối đa hóa giá trị thị trường và dòng cổ tức, đồng thời chú trọng đến tính thanh khoản và thường áp dụng các chiến lược đầu tư thoát hiểm, thay vì tham gia giám sát quản trị doanh nghiệp Do đó, loại cổ đông này có thể không tạo ra tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Các nhà đầu tư theo mục đích chiến lược không chỉ tập trung vào lợi nhuận tài chính mà còn nhằm nắm quyền kiểm soát và xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững cho doanh nghiệp Họ sử dụng tỷ lệ sở hữu cổ phần để thực hiện các chiến lược như thâm nhập thị trường mới, tận dụng chi phí sản xuất thấp và lợi thế nguồn tài nguyên Đồng thời, các nhà đầu tư này cũng mang lại tiến bộ về kỹ thuật, quản trị và nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp trong nước, từ đó tạo ra tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của họ.

Ph ươ ng pháp nghiên c ứ u

D ữ li ệ u nghiên c ứ u

Đối tượng nghiên cứu bao gồm hơn 700 doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội, trong đó 100 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất chiếm hơn 90% tổng giá trị vốn hóa Những doanh nghiệp này được chọn làm mẫu nghiên cứu đại diện cho toàn bộ thị trường chứng khoán Việt Nam, dựa trên giá trị vốn hóa thị trường theo thứ tự giảm dần vào ngày 09/07/2013 Mẫu nghiên cứu bao gồm các doanh nghiệp từ nhiều ngành khác nhau như sản xuất, công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính, ngân hàng và các ngành dịch vụ khác Giá trị thị trường của các doanh nghiệp được xác định bằng cách nhân giá cổ phiếu đóng cửa với số lượng cổ phiếu lưu hành.

Nghiên cứu này tập trung vào việc thu thập thông tin về quản trị doanh nghiệp và thành quả hoạt động của các doanh nghiệp trong giai đoạn 2009–2012 Dữ liệu được lấy từ các nguồn như báo cáo tài chính đã kiểm toán, báo cáo thường niên, bản cáo bạch và báo cáo quản trị, được công bố trên website của các doanh nghiệp cũng như trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và Hà Nội.

Thông tin về Hội đồng Quản trị (HĐQT), Ban điều hành (BĐH) và cơ cấu cổ đông của doanh nghiệp được lấy từ các nguồn như báo cáo thường niên, báo cáo tài chính đã kiểm toán, bản cáo bạch và các báo cáo khác (nếu có).

Các bi ế n nghiên c ứ u

3.2.1 Các biến quản trị doanh nghiệp:

Nghiên cứu này tập trung vào quản trị doanh nghiệp tại các công ty niêm yết, sử dụng các biến quản trị doanh nghiệp được tham khảo từ các nghiên cứu trước đó.

Quy mô HĐQT: số lượng thành viên HĐQT của doanh nghiệp

Thành viên HĐQT độc lập: số lượng thành viên HĐQT độc lập trong tổng số thành viên HĐQT của doanh nghiệp

Việc Tổng Giám đốc kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng Quản trị sẽ được đánh giá bằng 1, trong khi nếu không kiêm nhiệm, giá trị sẽ là 0.

Số năm đương nhiệm của Tổng Giám đốc: số năm làm việc tính đến thời điểm hiện nay của Tổng Giám đốc tại doanh nghiệp

Hoạt động của HĐQT: số cuộc họp HĐQT tiến hành trong 1 năm

Sở hữu của cổ đông nhà nước: tỷ lệ sở hữu của cổ đông nhà nước đối với số cổ phần của doanh nghiệp

Sở hữu của cổđông nước ngoài: nếu doanh nghiệp có sở hữu của cổđông nước ngoài, biến này nhận giá trị bằng 1, ngược lại, nhận giá trị bằng 0

3.2.2 Các biến đo lường thành quả hoạt động của doanh nghiệp: Đểđánh giá thành quả hoạt động của các công ty niêm yết, nghiên cứu này sử dụng 2 biến được tham khảo từ một số nghiên cứu trước

Biến nghiên cứu chính được sử dụng trong bài viết này là Tobin’s Q, được áp dụng để đo lường giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị thị trường, theo nghiên cứu của Alshimiri (2004) Hơn nữa, như Wu (2009) đã chỉ ra, Tobin’s Q là một biến số phổ biến trong các nghiên cứu liên quan đến giá trị doanh nghiệp.

Biến Tobin’s Q có sự linh hoạt trong công thức để phù hợp với yêu cầu nghiên cứu, đồng thời khi so sánh với các chỉ số đánh giá khả năng sinh lợi như ROA và ROE, Tobin’s Q nổi bật với ưu điểm phản ánh giá trị hiện tại và tiềm năng lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp.

Để giảm thiểu sự chệch (bias) khi áp dụng biến Tobin’s Q, nghiên cứu này bổ sung thêm biến ROA, nhằm phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp dựa trên giá trị sổ sách kế toán.

Công thức tính các biến như sau:

Tobin’s Q = (Giá trị thị trường của cổ phần + Tổng tài sản – Giá trị sổ sách của cổ phần)/Tổng tài sản

ROA = Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản bình quân

Quy mô doanh nghiệp: log của tổng tài sản

Mức độ sử dụng đòn bẩy: tỷ lệ nợ vay trong tổng nguồn vốn

Tỷ trọng tài sản cố định trong tổng tài sản: tỷ trọng tài sản cố định (máy móc, thiết bị…) trong tổng tài sản

Số năm hoạt động của doanh nghiệp được tính từ thời điểm nhận giấy phép thành lập và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, bao gồm cả thời gian của các đơn vị tiền thân, cho đến thời điểm kết thúc năm báo cáo tài chính.

Biến ngành: các công ty được phân vào 12 nhóm ngành theo phụ lục 2

Bảng sau tóm tắt các biến được sử dụng trong nghiên cứu:

STT Loại biến Biến nghiên cứu Cách xác định

1 Quy mô HĐQT Số lượng thành viên HĐQT

2 Thành viên HĐQT độc lập

Số thành viên HĐQT độc lập/Tổng số thành viên HĐQT

Kiêm nhiệm chức danh TGĐ và Chủ tịch HĐQT

Kiêm nhiệm = 1, Không kiêm nhiệm = 0

4 Số năm TGĐ Số năm làm việc của TGĐ/Số năm hoạt động của doanh nghiệp

HĐQT Số cuộc họp HĐQT/năm

6 Sở hữu nhà nước % sở hữu của cổđông nhà nước

Sở hữu nước ngoài Có cổđông nước ngoài = 1,

Không có cổđông nước ngoài = 0

(Giá trị thị trường của cổ phần +

Tổng tài sản – Giá trị sổ sách của cổ phần)/Tổng tài sản

ROA Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản bình quân

10 Quy mô doanh nghiệp Log của tổng tài sản

11 Mức độ sử dụng đòn bẩy Nợ vay/Tổng nguồn vốn

Tỷ trọng tài sản cố định trong tổng tài sản

Tài sản cốđịnh/Tổng tài sản

13 Số năm hoạt động Số năm hoạt động kể từ khi thành lập

Biến ngành Đánh số thứ tự từ 1 đến 12

Ph ươ ng pháp nghiên c ứ u

Nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản trị doanh nghiệp và thành quả hoạt động thực hiện bởi Dung

(2011), bao gồm phân tích phương sai (ANOVA) và mô hình hồi quy đa biến với tác động cốđịnh (fixed effect)

Phân tích phương sai (ANOVA) được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố quản trị doanh nghiệp đến hiệu suất hoạt động của các nhóm công ty niêm yết trong nghiên cứu Kết quả phân tích ANOVA sẽ được trình bày chi tiết theo từng biến quản trị doanh nghiệp Bên cạnh đó, nghiên cứu còn thực hiện phân tích sâu ANOVA để làm rõ sự khác biệt về hiệu quả hoạt động giữa các nhóm công ty khác nhau.

Nghiên cứu này áp dụng mô hình hồi quy đa biến với tác động cố định để phân tích mối quan hệ giữa các biến quản trị doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động của 100 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2009-2012 Dữ liệu được thu thập dưới dạng bảng (data panel) và nhằm đảm bảo tính nhất quán trong kết quả, cả hai phương pháp nghiên cứu đều sử dụng mức ý nghĩa α = 5%.

K ế t qu ả nghiên c ứ u

Th ố ng kê mô t ả d ữ li ệ u

BẢNG 4.1: CÁC THỐNG KÊ DỮ LIỆU Tên Biến N Minimum Maximum Mean Std Deviation

Bảng 4.1 cung cấp thống kê mô tả cho các biến phụ thuộc liên quan đến thành quả hoạt động và các biến giải thích về quản trị doanh nghiệp, dựa trên mẫu nghiên cứu gồm 100 công ty niêm yết trong giai đoạn 2009-2012.

4.1.1 Các biến thành quả hoạt động:

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản bình quân (ROA) của 100 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất trong giai đoạn 2009-2012 đạt khoảng 10.66, với giá trị ROA dao động từ -9.14 đến 74.99.

Tobin’s Q của các công ty trong mẫu nghiên cứu có giá trị trung bình khoảng 1.33 và giá trị trung vị là 1.11 So với giá trị lớn nhất của Tobin’s Q, giá trị trung vị gần với giá trị nhỏ nhất, cho thấy phần lớn các công ty trong mẫu có giá trị Tobin’s Q tương đối thấp.

4.1.2 Các biến quản trị doanh nghiệp

Quy mô Hội đồng Quản trị (HĐQT) trong các công ty niêm yết có giá trị trung bình khoảng 6.22 thành viên, với giá trị trung vị và mode là 5 Số lượng thành viên HĐQT của các công ty trong mẫu nghiên cứu tương đối thấp, trong đó công ty có số lượng thành viên lớn nhất lên tới 12.

Hội đồng quản trị (HĐQT) của các công ty niêm yết thường có quy mô nhỏ, với HĐQT nhỏ nhất chỉ gồm 2 thành viên Giá trị trung bình và trung vị của quy mô HĐQT lần lượt là 5 và 6, cho thấy phần lớn các công ty này có số lượng thành viên HĐQT dưới 6.

Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập trong tổng số thành viên HĐQT của các công ty niêm yết hiện nay có giá trị trung bình khoảng.

Trong số 100 công ty niêm yết có giá trị vốn hóa lớn nhất, hơn 50% không có thành viên HĐQT độc lập, với giá trị trung vị và mode đều bằng 0 Điều này cho thấy sự thiếu hụt thành viên độc lập trong ban lãnh đạo của các công ty này, mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành các quy định liên quan.

Theo Thông tư số 121/2012/TT-BTC có hiệu lực từ tháng 07/2012, quy định rằng tối thiểu 1/3 số lượng thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) của các công ty đại chúng phải là thành viên độc lập Tuy nhiên, việc thực thi quy định này trong thực tế tại các công ty niêm yết vẫn gặp nhiều thách thức.

24 này vẫn còn khá hạn chế Theo dữ liệu thống kê về số lượng thành viên

HĐQT độc lập thu thập được từ 100 công ty trong mẫu nghiên cứu, chỉ có

24 công ty có tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập chiếm từ 1/3 tổng số thành viên HĐQT trở lên

Việc kiêm nhiệm chức danh TGĐ và Chủ tịch HĐQT: theo bảng 4.1, giá trị trung bình của biến kiêm nhiệm đồng thời chức danh TGĐ và Chủ tịch

HĐQT là 0.28, điều này cho thấy vấn đề kiêm nhiệm chức danh TGĐ và

Chủ tịch HĐQT tại các công ty niêm yết chiếm gần 30% tổng số công ty trong nghiên cứu, cho thấy vấn đề phân định rõ ràng chức năng và nhiệm vụ giữa Tổng Giám đốc và Chủ tịch HĐQT vẫn chưa được chú trọng.

Thời gian đương nhiệm của Tổng Giám đốc (TGĐ) so với thời gian hoạt động của công ty cho thấy tỷ lệ trung bình là 68,57 năm và giá trị trung vị là 78,76 năm, trong khi giá trị mode đạt 100 năm Điều này cho thấy rằng phần lớn các TGĐ của các công ty niêm yết có thời gian gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, với hơn 50% TGĐ làm việc tại công ty chiếm hơn 78% tổng số năm hoạt động của công ty.

Hoạt động của Hội đồng Quản trị (HĐQT) cho thấy sự biến động lớn về số lượng cuộc họp trong một năm giữa các công ty, với ít nhất 1 cuộc họp và tối đa lên đến 69 cuộc họp Giá trị trung bình của số cuộc họp hàng năm là 9.10, tuy nhiên, giá trị trung vị và mode đều là 4, cho thấy phần lớn HĐQT của các công ty chỉ tổ chức họp định kỳ mỗi quý một lần.

Cổ đông nhà nước tại các công ty niêm yết sở hữu trung bình khoảng 25%, nhưng giá trị trung vị và mode của tỷ lệ sở hữu chỉ đạt 6.04% và 0% Điều này cho thấy sự phân bố không đồng đều trong tỷ lệ sở hữu của cổ đông nhà nước.

Khoảng 50% số công ty niêm yết có tỷ lệ sở hữu của cổ đông nhà nước chỉ từ 6% trở xuống, trong đó gần 48% công ty không có cổ phần nào thuộc về cổ đông nhà nước.

Theo bảng 4.1, giá trị trung bình của biến cổ đông nước ngoài là 0.83, cho thấy 83% doanh nghiệp niêm yết có sự tham gia của cổ đông nước ngoài, tức là các tổ chức nước ngoài nắm giữ từ 1% cổ phần trở lên và tổng số cổ phần của họ chiếm từ 5% trở lên.

K ế t qu ả nghiên c ứ u

4.2.1 Kết quả phân tích ANOVA

BẢNG 4.2a: KẾT QUẢ ANOVA QUY MÔ HĐQT

BẢNG 4.2b: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH SÂU ANOVA QUY MÔ HĐQT

* The mean difference is significant at the 0.05 level

Kết quả phân tích ANOVA về tác động của quy mô Hội đồng quản trị (HĐQT) đối với thành quả hoạt động doanh nghiệp cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm công ty Các công ty được chia thành ba nhóm dựa trên số lượng thành viên HĐQT: nhóm 1 (5 thành viên trở xuống), nhóm 2 (từ 6 đến 8 thành viên), và nhóm 3 (từ 9 thành viên trở lên) Phân tích cho thấy có sự khác nhau về thành quả hoạt động được đo bằng ROA với mức ý nghĩa 5% Tuy nhiên, khi xem xét biến Tobin’s Q, mặc dù có sự khác biệt giữa các nhóm, nhưng kết quả không đạt ý nghĩa thống kê.

Tiến hành phân tích sâu ANOVA về sự khác biệt trong thành quả hoạt động được đo lường theo biến ROA giữa các nhóm công ty với mức ý nghĩa 5%

Bảng 4.2b cho kết quả các công ty nhóm 1 (số lượng thành viên HĐQT từ 5

Các công ty có dưới 27 thành viên trong hội đồng quản trị (HĐQT) cho thấy hiệu suất hoạt động (ROA) trung bình cao hơn so với các công ty có từ 9 thành viên HĐQT trở lên, với mức ý nghĩa 5% Thêm vào đó, các công ty thuộc nhóm 2 cũng có những chỉ số đáng chú ý trong hoạt động kinh doanh.

HĐQT từ 6-8 thành viên) cũng có ROA trung bình cao hơn so với các công ty nhóm 3 nhưng với mức ý nghĩa 10%

Các công ty niêm yết với số lượng thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) dưới 9 thành viên thường đạt được hiệu suất hoạt động ROA tốt hơn so với các công ty có 9 thành viên HĐQT trở lên Điều này được xác nhận với mức ý nghĩa 5%, đặc biệt là các công ty có dưới 5 thành viên HĐQT.

HĐQT có ROA trung bình cao hơn khoảng 4.9% so với các công ty có từ 9 thành viên HĐQT trở lên, cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa số lượng thành viên HĐQT và giá trị doanh nghiệp, tương tự như nghiên cứu của Mak & Kusnadi (2005) Việc lựa chọn số lượng thành viên HĐQT phù hợp với hoạt động doanh nghiệp sẽ tạo ra cơ chế giám sát hiệu quả, theo Bennedsen (2008) Doanh nghiệp Việt Nam thường có quy mô nhỏ hơn so với các quốc gia khác, và các quy định về quản trị doanh nghiệp chỉ mới được chú trọng gần đây Nếu HĐQT quá lớn (từ 9 thành viên trở lên) có thể dẫn đến chi phí do việc tự do sử dụng các nguồn lực, gây tác động tiêu cực đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp.

Thành viên HĐQT độc lập

BẢNG 4.3a: KẾT QUẢ ANOVA THÀNH VIÊN HĐQT ĐỘC LẬP

BẢNG 4.3b: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH SÂU ANOVA THÀNH VIÊN HĐQT ĐỘC LẬP Dunnett t (2-sided)

* The mean difference is significant at the 0.05 level

Kết quả phân tích ANOVA cho thấy tác động của tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập đến hiệu quả hoạt động của công ty Sự gia tăng tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập trong tổng số thành viên có thể cải thiện tính minh bạch và quyết định chiến lược, từ đó nâng cao hiệu suất chung của doanh nghiệp.

Bảng 4.3a và 4.3b trình bày thành quả hoạt động của doanh nghiệp, trong đó HĐQT được phân thành 3 nhóm dựa trên tỷ lệ thành viên độc lập Nhóm 1 gồm các công ty không có thành viên HĐQT độc lập, trong khi nhóm 2 có tỷ lệ thành viên độc lập chiếm từ 50% tổng số thành viên HĐQT.

Kết quả phân tích ANOVA cho thấy có sự khác biệt về thành quả hoạt động giữa các nhóm công ty theo tỷ lệ thành viên HĐQT Cụ thể, đối với biến Tobin’s Q, sự khác nhau này đạt mức ý nghĩa 5% Đối với biến ROA, mặc dù cũng có sự khác biệt về thành quả hoạt động giữa các nhóm, nhưng chỉ đạt mức ý nghĩa thống kê 10%.

Phân tích ANOVA cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong thành quả hoạt động của các nhóm công ty dựa trên biến Tobin’s Q với mức ý nghĩa 5% Cụ thể, nhóm công ty 3 (tỷ lệ thành viên HĐQT trên 50%) có Tobin’s Q trung bình cao hơn nhóm công ty 2 (tỷ lệ thành viên HĐQT từ 50% trở xuống) và cũng cao hơn nhóm công ty 1 (các công ty không có thành viên HĐQT độc lập), mặc dù sự khác biệt với nhóm 1 chỉ đạt mức ý nghĩa 10%.

Kết quả phân tích ANOVA cho biến ROA giữa các nhóm công ty tương đồng với kết quả phân tích cho biến Tobin’s Q, tuy nhiên không đạt ý nghĩa thống kê, ngay cả ở mức 10%.

Như vậy, số lượng thành viên HĐQT càng nhiều giúp làm gia tăng thành quả hoạt động của các doanh nghiệp được đo lường thông qua biến Tobin’s Q

Nghiên cứu cho thấy, với mức ý nghĩa 5%, các công ty có hơn 50% thành viên HĐQT độc lập sở hữu chỉ số Tobin’s Q cao hơn 3.76 lần so với các công ty có số lượng thành viên HĐQT độc lập thấp hơn.

HĐQT có dưới 50% thành viên độc lập, điều này phù hợp với lý thuyết chi phí đại diện, cho thấy rằng càng nhiều thành viên độc lập trong HĐQT sẽ tăng cường giám sát mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và nhà quản lý Nghiên cứu của Hossain (2001) cũng chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp tại New Zealand.

Nghiên cứu của Awan (2012) chỉ ra rằng sự hiện diện của các thành viên HĐQT độc lập không tham gia điều hành có mối quan hệ tích cực với thành quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết tại Pakistan Tương tự, kết luận từ năm 2011 cũng nhấn mạnh rằng các thành viên HĐQT độc lập góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp.

Việc kiêm nhiệm chức danh Tổng Giám đốc và Chủ tịch

BẢNG 4.4a: KẾT QUẢ ANOVA KIÊM NHIỆM TGĐ VÀ CHỦ TỊCH HĐQT

Kết quả phân tích ANOVA về tác động của việc kiêm nhiệm chức danh

Kết quả phân tích về vai trò của TGĐ và Chủ tịch HĐQT được đo lường qua hai giá trị 0 (không kiêm nhiệm) và 1 (kiêm nhiệm) cho thấy ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp, như trình bày trong bảng 4.4a và 4.4b Các công ty được chia thành hai nhóm: nhóm 1 bao gồm các công ty không kiêm nhiệm chức danh TGĐ và Chủ tịch HĐQT, trong khi nhóm 2 bao gồm các công ty còn lại Phân tích ANOVA trong bảng 4.4a chỉ ra sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm này.

31 khác nhau về thành quả hoạt động giữa 2 nhóm công ty đối với cả 2 biến Tobin’s Q và ROA với mức ý nghĩa 5%

BẢNG 4.4b: THỐNG KÊ MÔ TẢ KẾT QUẢ ANOVA KIÊM NHIỆM TGĐ

Theo kết quả phân tích ANOVA, các công ty nhóm 2, nơi có sự kiêm nhiệm giữa chức danh TGĐ và Chủ tịch HĐQT, cho thấy thành quả hoạt động trung bình cao hơn so với các công ty nhóm 1 Cụ thể, các công ty có CEO kiêm nhiệm đạt được chỉ số ROA và Tobin’s Q tốt hơn.

Q cao hơn 2.45% và 0.41 so với các công ty không có CEO kiêm nhiệm

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các công ty niêm yết có Tổng Giám đốc kiêm nhiệm đạt thành quả hoạt động đo lường tốt hơn, thể hiện qua chỉ số Tobin’s Q và ROA, so với các công ty khác Phát hiện này phù hợp với nghiên cứu của Tin Yan & Shu.

K ế t lu ậ n

Ngày đăng: 20/07/2021, 17:39

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w