Những rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Rủi ro là những sự kiện không lường trước có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản và thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động Các loại rủi ro này bao gồm nhiều hình thức khác nhau.
Rủi ro lãi suất là mối đe dọa phát sinh khi lãi suất trên thị trường tài chính thay đổi, hoặc bị ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan, dẫn đến tổn thất tài sản hoặc giảm thu nhập cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, thể hiện qua việc khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc trả nợ không đúng hạn.
Rủi ro ngoại hối là nguy cơ phát sinh từ sự thay đổi tỷ giá giữa tiền tệ bản địa và ngoại tệ, liên quan đến các giao dịch ngoại tệ và sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Rủi ro về thanh khoản là tình trạng ngân hàng không thể đáp ứng đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời, hoặc có thể cung ứng nhưng với chi phí quá cao Điều này xảy ra khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp thời tài sản thành tiền mặt, hoặc không thể vay mượn để thực hiện các hợp đồng thanh toán.
Rủi ro từ hoạt động ngoại bảng là những rủi ro phát sinh từ các hoạt động không nằm trong bảng cân đối kế toán, chủ yếu liên quan đến các khoản cam kết, bảo lãnh và các tài sản, giấy tờ có giá mà ngân hàng đang quản lý trong quá trình hoạt động.
Rủi ro khác bao gồm các tình huống bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt, cháy nổ Để giảm thiểu rủi ro, ngân hàng cho vay nên phân tán các khoản cho vay, mua bảo hiểm cho các khoản đầu tư lớn và tài sản cố định, đồng thời khuyến khích khách hàng tham gia bảo hiểm.
Rủi ro tín dụng trong họat động ngân hàng
Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Portfolio risk) và rủi ro giao dịch
Rủi ro danh mục (Portfolio risk) là một dạng rủi ro tín dụng phát sinh từ những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được chia thành hai loại: rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk) Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố và đặc điểm riêng biệt của từng chủ thể vay hoặc ngành kinh tế, liên quan đến hoạt động và cách sử dụng vốn của khách hàng vay.
Rủi ro tập trung trong ngân hàng xảy ra khi vốn cho vay được dồn vào một số khách hàng, ngành kinh tế, khu vực địa lý hoặc loại hình cho vay có rủi ro cao Việc này có thể dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng nếu các đối tượng này gặp khó khăn tài chính, ảnh hưởng đến ổn định của ngân hàng Do đó, việc quản lý rủi ro tập trung là rất quan trọng để đảm bảo an toàn và bền vững cho hoạt động cho vay của ngân hàng.
Rủi ro giao dịch là một loại rủi ro tín dụng phát sinh từ những hạn chế trong quá trình giao dịch, xét duyệt cho vay và đánh giá khách hàng Rủi ro này bao gồm ba bộ phận chính: rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
Rủi ro lựa chọn là một yếu tố quan trọng trong quá trình đánh giá và phân tích tín dụng của ngân hàng, ảnh hưởng đến quyết định cho vay Ngân hàng cần lựa chọn các phương án cho vay hiệu quả để giảm thiểu rủi ro này và tối ưu hóa lợi nhuận.
Rủi ro đảm bảo phát sinh từ các tiêu chuẩn như điều khoản trong hợp đồng vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và tỷ lệ cho vay so với giá trị tài sản đảm bảo.
Rủi ro nghiệp vụ liên quan đến quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm việc sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng và kỹ thuật xử lý các khoản vay gặp vấn đề.
Tác động của rủi ro tín dụng
Khi ngân hàng gặp rủi ro tín dụng, họ không thu hồi được vốn và lãi từ khoản vay, nhưng vẫn phải trả lãi và gốc cho tiền gửi khi đến hạn Điều này gây ra mất cân đối trong thu chi, làm giảm vòng quay vốn tín dụng và dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém Hệ quả nghiêm trọng có thể là mất khả năng thanh khoản, làm giảm lòng tin của người gửi tiền và ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngân hàng.
Khi một khoản vay không thể thu hồi, ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn vốn của mình để bù đắp cho người gửi tiền Nếu ngân hàng không đủ khả năng thanh toán, tình trạng mất khả năng thanh toán sẽ xảy ra, dẫn đến rủi ro thanh khoản Hệ quả là quy mô kinh doanh bị thu hẹp, năng lực tài chính giảm sút, và uy tín cũng như sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng không chỉ trong thị trường nội địa mà còn lan ra quốc tế Kết quả kinh doanh xấu đi có thể dẫn đến thua lỗ và thậm chí phá sản nếu không có biện pháp xử lý kịp thời.
1.2.3.2 Đối với nền kinh tế xã hội
Khi một ngân hàng đối mặt với rủi ro tín dụng lớn, người gửi tiền sẽ cảm thấy hoang mang và lo sợ, dẫn đến việc rút tiền không chỉ tại ngân hàng gặp sự cố mà còn ở các ngân hàng khác, gây khó khăn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng Tình trạng khủng hoảng thanh khoản xảy ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng Hệ thống ngân hàng hoạt động không hiệu quả sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế - xã hội, có thể dẫn đến suy giảm kinh tế, gia tăng lạm phát, giảm sức mua, tăng tỷ lệ thất nghiệp và làm mất ổn định xã hội.
Rủi ro tín dụng có thể ảnh hưởng đến ngân hàng ở nhiều mức độ khác nhau, từ việc giảm lợi nhuận ở mức độ nhẹ cho đến việc không thu đủ vốn lãi hoặc mất cả vốn lẫn lãi ở mức độ nặng, dẫn đến thua lỗ Nếu tình trạng này kéo dài mà không được khắc phục, ngân hàng có thể đối mặt với nguy cơ phá sản, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Do đó, các nhà quản lý ngân hàng cần phải thận trọng và áp dụng các biện pháp phù hợp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
1.2.4 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Do môi trường kinh tế không ổn định :
+ Sự biến động nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới : Nền kinh tế
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu thiết yếu như sắt thép, xăng dầu và phân bón Đồng thời, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, giày dép và nông sản cũng chịu tác động từ chính sách bảo hộ của các quốc gia nhập khẩu, bao gồm hạn ngạch, kiện bán phá giá và thuế.
Sự biến động liên tục của lãi suất, tỷ giá hối đoái và lạm phát, cùng với sự gia tăng chỉ số giá cả và giá nguyên liệu đầu vào, đã tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, gây ra khó khăn tài chính và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay.
+ Tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế làm tăng áp lực cạnh tranh đối với DN và
Do hạn chế về vốn, công nghệ và trình độ quản lý, nhiều doanh nghiệp và ngân hàng không đủ khả năng để tạo ra sản phẩm cạnh tranh Điều này dẫn đến việc mất khách hàng tiềm năng, gây ra thua lỗ và thậm chí là phá sản.
Cuộc chiến chống hàng nhập lậu đã diễn ra trong nhiều năm, nhưng tình trạng hàng lậu vẫn tiếp tục hoành hành, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư Những mặt hàng như kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo và mỹ phẩm là những ví dụ điển hình cho tình hình nhập lậu tại Việt Nam.
Thiếu quy hoạch và phân bổ đầu tư hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa trong một số ngành Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh khiến các nhà đầu tư tìm kiếm ngành sinh lợi, dẫn đến việc chuyển dịch vốn giữa các lĩnh vực Tuy nhiên, tại Việt Nam, sự cạnh tranh diễn ra tự phát mà không có quy hoạch hợp lý, dẫn đến sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết của Nhà nước Hệ quả là vốn đầu tư tăng quá mức vào một số ngành, gây ra khủng hoảng thừa và lãng phí tài nguyên quốc gia.
Do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
+ Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: còn nhiều vướng mắc trong việc cưỡng chế thu hồi nợ
Sự thanh tra, kiểm tra và giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hiện chưa đạt hiệu quả cao, chủ yếu dựa vào phương pháp thanh tra tại chỗ Khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thanh tra thụ động, chỉ xử lý các vụ việc đã xảy ra mà thiếu khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro cùng vi phạm.
Hệ thống thông tin quản lý tại Việt Nam đang gặp nhiều bất cập, đặc biệt là việc thiếu cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp (DN) và ngân hàng (NH) Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) chưa hoạt động như một cơ quan định mức tín nhiệm độc lập và hiệu quả, dẫn đến việc thông tin cung cấp còn đơn điệu và thiếu tính cập nhật.
Rủi ro này xuất phát từ các chính sách của Chính phủ như thuế, xuất nhập khẩu, cho vay chỉ định, và quy định về đất đai, nhà ở Ngoài ra, còn có những nguyên nhân khách quan khác như thiên tai, hỏa hoạn, bất ổn chính trị, cùng với sự biến động của thị trường và quan hệ cung cầu.
Từ phía doanh nghiệp đi vay :
+ Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay, tạo hồ sơ giả, hợp đồng mua bán vòng vo nhằm vay vốn NH
Năng lực quản lý kinh doanh kém có thể dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực vượt quá khả năng kiểm soát của họ, từ đó gia tăng nguy cơ phát sinh rủi ro.
Doanh nghiệp vay vốn từ nhiều ngân hàng cùng lúc có thể gây khó khăn trong việc quản lý và theo dõi dòng tiền, dẫn đến tình trạng sử dụng vốn vay chồng chéo và nguy cơ mất khả năng thanh toán dây chuyền.
Tình hình tài chính của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang yếu kém và thiếu minh bạch, với hoạt động kinh doanh thua lỗ liên tục Quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ và cơ cấu tài chính không cân đối là những vấn đề phổ biến Công tác quản lý tài chính kế toán còn tùy tiện và thiếu đồng bộ, dẫn đến thông tin ngân hàng không chính xác và chỉ mang tính hình thức Kết quả là, các bảng phân tích tài chính do nhân viên tín dụng lập dựa trên số liệu doanh nghiệp cung cấp thường thiếu thực tế và sai lệch, gây ra rủi ro cho các quyết định tín dụng.
+ Khách hàng chưa đủ năng lực pháp lý, cố tình lừa đảo, chiếm đoạt vốn ngân hàng
Từ phía NH cho vay :
Nguyên nhân phát sinh của rủi ro tín dụng
Ngân hàng thường đánh giá không chính xác về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và bảo hiểm, điều này có thể xuất phát từ việc cán bộ tín dụng và lãnh đạo thiếu chuyên môn hoặc yếu kém trong công việc Họ có thể chủ quan khi làm việc với khách hàng cũ hoặc những người quen biết, đồng thời cũng có thể do thiếu đạo đức nghề nghiệp trong quá trình đánh giá.
Quản lý rủi ro tín dụng đối với DNVVN
Tổng quan về DNVVN
Theo Nghị định 56/2009/CP-NĐ ngày 30/06/2009, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) được phân loại thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa, dựa trên quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân năm, trong đó tổng nguồn vốn được coi là tiêu chí ưu tiên.
BẢNG 1.1 : BẢNG PHÂN LOẠI DNVVN
(Nguồn:Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009)
Theo tiêu chuẩn hiện hành, hơn 96% doanh nghiệp tại Việt Nam thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Tùy thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội của từng ngành và địa phương, các biện pháp và chương trình hỗ trợ có thể linh hoạt áp dụng cả hai tiêu chí về vốn và lao động, hoặc chỉ một trong hai tiêu chí này.
DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa
Số lao động Tổng nguồn vốn Số lao động Tổng nguồn vốn Số lao động
I Nông, lâm nghiệp và thủy sản 10 người trở xuống 20 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến
200 người từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng từ trên 200 người đến
II Công nghiệp và xây dựng
20 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến
200 người từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng từ trên 200 người đến
III Thương mại và dịch vụ 10 người trở xuống 10 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến
50 người từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng từ trên 50 người đến
1.3.1.2 Tình hình phát triển Đây là loại hình DN năng động trong kinh doanh và hoạt động đa dạng trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề Đặc biệt DNVVN rất nhạy cảm với những biến động của thị trường, chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, tận dụng được nguyên vật liệu, nhân lực tại chỗ, dễ dàng cạnh tranh, lên lỏi, xâm nhập thị trường Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường nhiều sức ép cạnh tranh, thì đây là loại hình DN hoạt động khá thành công, đóng góp nhiều cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước
Giữa giai đoạn 2001 đến 2006, số doanh nghiệp tăng trung bình 22% mỗi năm và vốn đầu tư tăng hơn 49% hàng năm Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra gần 3 triệu việc làm, đóng góp hơn 40% GDP và chiếm 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời đóng góp gần 15% vào ngân sách Nhà nước Đến năm 2007, cả nước đã có trên 320.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân, trong đó khoảng 31% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại.
Năm 2010, số lượng doanh nghiệp mới thành lập đạt gần 90.000, tăng 5,5% so với năm 2009, với tổng vốn đăng ký lên tới 545.000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có vốn 6 tỷ đồng Đến cuối năm 2010, cả nước có tổng cộng 544.394 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, vượt mục tiêu 500.000 doanh nghiệp mà Chính phủ đề ra.
Theo Cục Phát triển doanh nghiệp, tính đến ngày 31/12/2012, Việt Nam có 1.206.900 doanh nghiệp đăng ký hoạt động Trong 8 tháng đầu năm 2013, có thêm 52.500 doanh nghiệp mới với tổng vốn đăng ký khoảng 45.540 tỷ đồng Giai đoạn 2006 - 2009, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) tăng đều hàng năm, đạt đỉnh điểm gần 85.000 doanh nghiệp vào năm 2009 Tuy nhiên, từ năm 2010 trở đi, xu hướng này bắt đầu chững lại, đặc biệt là trong 9 tháng đầu năm 2011, số lượng DNVVN thành lập mới giảm đáng kể.
Tính đến hết tháng 9, số lượng doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động không chính thức đã lên tới 160.930, trong khi tổng số doanh nghiệp hiện đang tồn tại là 445.970 Thống kê từ Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ giải thể và ngừng hoạt động của doanh nghiệp trong hai năm 2009 và 2010 gần gấp đôi so với các năm trước, và phần lớn các doanh nghiệp bị phá sản thuộc quy mô nhỏ và vừa.
Hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, đồng thời cung cấp 50% tổng số việc làm, tạo ra công ăn việc làm cho lực lượng lao động tại chỗ, đặc biệt là những người ít được đào tạo bài bản.
1.3.1.3 Các điều kiện hỗ trợ phát triển của DNVVN
Quyết định 236/2006/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) giai đoạn 2006-2010 nhằm cụ thể hóa chính sách và thúc đẩy sự phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng của DNVVN Mục tiêu đặt ra là thành lập khoảng 320,000 doanh nghiệp mới, nâng tổng số DNVVN lên 500,000 doanh nghiệp, với tỷ lệ xuất khẩu chiếm từ 3%-6% trong tổng số DNVVN, đồng thời tạo ra khoảng 2,7 triệu việc làm cho lao động.
Nghị định 56/2009/CP-NĐ và Nghị quyết số 22/NQ-CP của Chính phủ đã đề ra 6 biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN), bao gồm: hướng dẫn xây dựng kế hoạch và chương trình trợ giúp phát triển DNVVN; tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và huy động các nguồn lực tài chính; tháo gỡ khó khăn về mặt bằng sản xuất; hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh; cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho DNVVN; và xây dựng, củng cố hệ thống trợ giúp phát triển DNVVN Bên cạnh đó, còn có các chính sách tài chính ưu đãi như dãn thời gian nộp thuế.
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư nước ngoài, có hiệu lực từ ngày 01/07/2006, cung cấp cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp, đồng thời là chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra cơ hội phát triển kinh tế sâu rộng và thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, bao gồm việc bãi bỏ giấy tờ không cần thiết và rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp Sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế và đa quốc gia sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động theo mô hình chuỗi cung ứng, dịch vụ gia công và phân phối.
1.3.1.4 Những khó khăn, hạn chế của DNVVN
Chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển và xóa đói giảm nghèo Mặc dù có nhiều đóng góp tích cực cho nền kinh tế, DNVVN vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và hạn chế.
Lợi nhuận của khối DNVVN còn thấp và chƣa cải thiện qua nhiều năm
BẢNG 1.2 : LỢI NHUẬN KHỐI DNVVN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2008
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ
21, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2010.)
Mặc dù số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) tại Việt Nam đang tăng nhanh và quy mô vốn cũng gia tăng, nhưng tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn cổ phần (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS) và tỷ suất thu nhập trên tài sản vẫn còn thấp Lợi nhuận thấp chính là một trong những thách thức lớn đối với sự phát triển của các DNVVN, hạn chế khả năng tích tụ vốn để mở rộng quy mô và tận dụng lợi thế kinh tế từ quy mô.
Các doanh nghiệp nhỏ thường bắt nguồn từ kinh nghiệm thực tiễn của chủ sở hữu, nhưng do hạn chế trong quản lý và thực thi pháp luật, họ gặp khó khăn trong việc đánh giá và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Công tác quản lý rủi ro tín dụng đối với DNVVN
Quản lý rủi ro tín dụng là một quy trình khoa học và hệ thống nhằm nhận diện, kiểm soát và giảm thiểu tổn thất từ rủi ro tín dụng Quy trình này bao gồm các bước như nhận dạng rủi ro, phân tích và đo lường rủi ro, kiểm soát và phòng ngừa rủi ro, tài trợ rủi ro, và báo cáo hoạt động quản lý rủi ro.
1.3.2.2 Quy trình quản lý rủi ro tín dụng
Nhận diện và phân loại rủi ro tín dụng là quá trình quan trọng bao gồm theo dõi, xem xét và nghiên cứu môi trường hoạt động cùng quy trình cho vay Nhà quản lý cần lập bảng liệt kê tất cả các dạng rủi ro hiện có và tiềm ẩn thông qua các phương pháp như khảo sát, điều tra và phân tích hồ sơ tín dụng, đặc biệt là những hồ sơ gặp vấn đề Kết quả phân tích sẽ giúp xác định dấu hiệu, biểu hiện và nguyên nhân của rủi ro tín dụng, từ đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Tính toán, cân nhắc các mức độ rủi ro và mức độ chịu đựng tổn thất khi rủi ro xảy ra :
Phân tích tài chính là quá trình đánh giá khả năng trả nợ và tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính Ngân hàng sử dụng các số liệu từ báo cáo tài chính để phân tích, bao gồm nhóm chỉ tiêu thanh khoản, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu cân nợ và nhóm chỉ tiêu doanh lợi Những yếu tố này, bên cạnh các yếu tố phi tài chính, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Mô hình quản lý rủi ro tín dụng có thể được triển khai thông qua nhiều phương pháp đa dạng, bao gồm cả định lượng và định tính Một số mô hình phổ biến bao gồm Mô hình chất lượng 6C, Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor, cùng với Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model) Những mô hình này giúp đánh giá chính xác rủi ro tín dụng trong các giao dịch tài chính.
Ngoài ra còn các công thức xác định mức độ rủi ro tín dụng:
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn (non performing loan - NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn (Nợ nhóm 2, 3, 4 và 5)
Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn X 100%
Theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước, dư nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại không được vượt quá 5% Điều này có nghĩa là trong mỗi 100 đồng vốn cho vay, chỉ có tối đa 5 đồng là nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ xấu (nhóm nợ 3, 4, 5 theo QĐ 493)
Tỷ lệ nợ xấu = Tổng nợ xấu x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Theo quy định hiện nay, tỷ lệ nợ xấu phải dưới 3%
Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số tín dụng cho thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có; khi tỷ lệ này càng cao, lợi nhuận có thể gia tăng, nhưng đồng thời cũng kéo theo rủi ro tín dụng lớn hơn.
Tỷ lệ xóa nợ = Các khoản xóa nợ ròng/ Tổng dư nợ cho vay x 100%
Các khoản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được phân loại thành 5 nhóm theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005, dựa trên cả phương pháp định lượng và định tính.
Hiện nay, tại Việt Nam, hầu hết các ngân hàng thương mại vẫn phân loại nợ dựa trên thời gian quá hạn theo Điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN Chỉ có ba ngân hàng được NHNN chấp thuận áp dụng phân loại nợ định tính theo Điều 7 của Quyết định 493, bao gồm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể cao hơn con số chính thức nếu áp dụng phân loại khách hàng và nợ theo Điều 7 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, dựa trên kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ Việc áp dụng các chính sách và công cụ phòng chống rủi ro phù hợp với từng loại rủi ro và tài trợ là cần thiết để quản lý hiệu quả tình hình nợ xấu.
Kiểm soát rủi ro là quá trình áp dụng các biện pháp, kỹ thuật và chiến lược nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro Dựa trên mức độ rủi ro đã được đánh giá, các hệ số an toàn tài chính và khả năng chấp nhận rủi ro, các biện pháp phòng ngừa sẽ được triển khai để giảm thiểu thiệt hại.
Chấp nhận rủi ro là một phần quan trọng trong quản lý tài chính, đặc biệt với các khoản vay nhỏ, nơi chi phí phòng tránh có thể vượt quá thiệt hại có thể xảy ra Khi đối mặt với xác suất rủi ro cao, ngân hàng thường lựa chọn hạn chế hoặc từ chối cấp tín dụng để giảm thiểu tổn thất.
Để quản lý các khoản vay còn lại, việc áp dụng các công cụ phòng chống rủi ro là rất cần thiết nhằm ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro và tổn thất Các biện pháp hiệu quả bao gồm ngăn ngừa rủi ro, bán nợ, phân tán rủi ro và quản lý rủi ro thông qua các công cụ phái sinh.
Tài trợ rủi ro là một yêu cầu quan trọng từ Ủy ban Basel, yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM) phải duy trì quỹ dự phòng cần thiết để bù đắp mọi tổn thất có thể xảy ra, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh Tùy thuộc vào từng loại tổn thất, ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn phù hợp để khắc phục.
Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn từ quỹ dự phòng rủi ro nợ xấu để bù đắp cho các tổn thất đã lường trước Tuy nhiên, việc trích lập quá cao từ chi phí kinh doanh có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của cổ đông, từ đó làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường.
Ngân hàng cần sử dụng vốn tự có làm nguồn dự phòng để bù đắp cho các tổn thất không lường trước được Nếu khả năng quản lý rủi ro kém dẫn đến tổn thất lớn, vốn tự có sẽ giảm, ảnh hưởng đến quy mô tài chính và khả năng cạnh tranh của ngân hàng.